Chương 9

Để đảm bảo cuộc trò chuyện của mình với Langdon không bị ngắt quãng, Bazu Fache đã tắt máy di động. Tệ thay, đó là một "mô-đen" mới đắt tiền với chức năng máy thu thanh hai chiều. Do vậy, trái với mệnh lệnh, một nhân viên đang sử dụng nó để gọi cho ông ta.
"Capitaine?", Điện thoại kêu lạo xạo như tiếng bộ đàm.
Fache cảm thấy răng mình nghiến chặt giận dữ. Ông ta không thể tưởng tượng có việc gì quan trọng đến mức Collet cắt ngang cuộc urveillance cachée này (1) - đặc biệt vào lúc gay cấn này.
Ông ta nhìn Langdon với ánh mắt xin lỗi: "Tôi xin phép một lát thôi". Ông ta rút điện thoại ra từ thắt lưng và nhấn nút nghe: "Vâng?".
"Capitaine, un agent du Département de Cryptographie est arrie"(2)
Sự tức giận của Eache tạm lắng xuống. "Một người giải mật mã. Dù rơi vào thời điểm tồi tệ này, đây có lẽ là một tin tốt lành.
Fache, sau khi tìm thấy cái văn bản khó hiểu của Saunière trên sàn, đã gửi những bức ảnh về toàn bộ hiện trưclng vụ án đến Phòng Mật Mã với hy vọng ai đó có thể cho ông ta biết Saunière định nói điều quái quỷ gì. Nếu chuyên gia mật mã đến, thì rất có thể là ai đó đã giải mã được lời nhắn của Saunière.
"Tôi đang bận vào lúc này", Fache trả lời, bộc lộ rõ qua giọng nói là lệnh của ông ta đã bị vi phạm. "Bảo người giải mã chờ tôi ở trụ sở chỉ huy. Tôi sẽ nói chuyện với anh ta sau khi xong việc".
"Cô ta", giọng nói kia sửa lại, "Đó là nhân viên Neveu".
Fache trở nên mỗi lúc một kém thích thú với cuộc điện đàm này. Sophie Neveu là một trong những sai lầm lớn nhất của DCPJ. Là một déchiffreuse(3) trẻ của Paris từng học khoa mật mã ở Anh tại trường Hoàng gia Holloway, Sophie Neveu được ấn vào tay Fache buộc ông ta phải nhận hai năm trước như là một phần trong nỗ lực của Bộ nhằm đưa thêm phụ nữ vào lực lượng cảnh sát. Việc Bộ nhảy vào can thiệp để chỉnh đốn chính trị, Fache lập luận, đang làm cho Cục yếu đi. Phụ nữ không chỉ thiếu thể chất cần thiết cho công việc cảnh sát, mà sự hiện diện của họ còn gây một sự phân tâm nguy hiểm cho những người đàn ông trong ngành. Đúng như Fache đã lo sợ, Sophie Neveu đang gây ra sự xao lãng nhiều nhất.
Ở tuổi ba mươi hai, cô có một quyết tâm bướng bỉnh gần đến mức ngoan cố. Việc cô hăm hở theo phương pháp giải mã mới của Anh đã không ngừng làm các nhà mật mã học Pháp kỳ cựu tức tối. Và điều khó chịu nhất đối với Fache là cái sự thật phổ quát không sao tránh khỏi này: trong một văn phòng của những người đàn ông trung niên, một phụ nữ hấp dẫn luôn khiến họ rời mắt khỏi công việc đang làm.
Người đàn ông trong máy liên lạc vô tuyến nói: "Nhân viên Neveu một mực đòi nói chuyện với ông ngay lập tức, thưa đại úy. Tôi đã cố ngăn cô ấy, nhưng cô ấy đang trên đường vào Hành Lang Lớn".
Fache chùn lại, vẻ hoài nghi: "Thật không thể chấp nhận được! Tôi đã nói rất rõ mà…".
Trong chốc lát, Robert Langdon nghĩ Bezu Fache đang bị choáng. Viên đại uý ngừng nói giữa chừng, quai hàm thôi chuyển động và mắt lồi ra. Cái nhìn tức giận dường như dính chặt vào một cái gì đó qua vai của Langdon. Trước khi Langdon có thể quay lại nhìn xem đó là gì, thì ông nghe thấy một giọng phụ nữ nhẹ nhàng phía sau ông.
"Excusez-moi, messieurs (4)
Langdon quay lại nhìn người thiếu phụ đang đi tới. Cô đi xuôi hành lang, tiến về phía họ với những sải chân dài, uyển chuyển… một dáng đi đầy tự tin khó quên. Mặc xuề xòa một chiếc váy len Ailen màu kem, dài đến đầu gối phủ lên đôi tất đen, cô trông quyến rũ và khoảng ba mươi tuổi. Mái tóc dày màu đỏ xõa không kiều cách xuống bờ vai, đóng khung khuôn mặt ấm áp. Không giơng những nàng tóc vàng ẽo ợt vô cá tính dán đầy trên tường phòng ngủ tập thể của trường Harvard, người phụ nữ này trông khỏe mạnh với vẻ đẹp không trang điểm và sự chân chất tỏa ra một vẻ tự tin kỳ lạ.
Trước sự ngạc nhiên của Langdon, người phụ nữ đi thắng đến chỗ ông và chìa tay ra một cách lịch sự. "Ông Langdon, tôi là Sophie Neveu đến từ Phòng Mật Mã của DCPJ". Những từ cô phát âm quyện theo cái giọng Anh lơ lớ Pháp. "Hân hạnh".
Langdon nắm bàn tay mềm mại của cô trong tay mình và cảm thấy mình cứng sững trong cái nhìn mạnh mẽ của cô. Mắt cô màu xanh ôliu - sắc và trong.
Fache hít một hơi dài, rõ ràng là chuẩn bị đưa ra lời quở trách.
"Đại uý", cô nói, nhanh chóng quay sang và chặn trước đòn tấn công của ông ta, "xin thứ lỗi cho sự xen vào ngắt quãng, nhưng…".
"Ce n'est pas le moment!"(5) - Fache lắp bắp.
"Tôi đã cố gọi cho ông", Sophie tiếp tục nói bằng tiếng Anh, như để thể hiện sự lịch thiệp đối với Langdon. "Nhưng ông đã tắt điện thoại".
"Tôi tắt máy là có lý do", Fache rít lên. "Tôi đang nói chuyện với ông Langdon".
"Tôi đã giải được mật mã số", cô nói dứt khoát.
Langdon cảm thấy phấn khích. Cô ấy đã giải được mật mã số sao?
Fache trông có vẻ phân vân không biết nên phản ứng thế nào.
"Trước khi tôi giải thích", Sophie nói, "Tôi có một lời nhắn khẩn cấp cho ông Langdon".
Thái độ của Fache chuyển sang sự quan tâm sâu sắc: "Cho ông Langdon?".
Cô gật đầu, quay sang Langdon: "Ông cần liên lạc ngay với Đại sứ quán Mỹ. Họ có một tin nhắn cho ông tử Mỹ".
Langdon ngạc nhiên, sự phấn khích về mật mã nhường chỗ cho một thoáng lo lắng bất chợt. Một tin nhắn từ Mỹ sao? Ông cố nghĩ xem ai đang cố gắng liên lạc với ông. Chỉ một vài đồng nghiệp biết ông đang ở Paris.
Quai hàm rộng của Fache nghiến chặt khi nghe tin đó: "Đại sứ quán Mỹ à?", ông ta hỏi lại, nghe có vẻ nghi ngờ. "Làm thế nào họ biết có thể tìm thấy ông Langdon ở đây?".
Sophie nhún vai: "Chắc chắn họ đã gọi đến khách sạn của ông Langdon, và người trực đã nói cho họ biết ông Langdon đã bị một nhân viên DCPJ đưa đi".
Fache trông có vẻ hoang mang: "Và đại sứ quán đã liên lạc với Phòng Mật~Mã của DCPJ sao?".
"Không, thưa ông", Sophie nói, giọng rắn rỏi. Khi tôi gọi đến tổng đài của DPCJ để cố gắng liên lạc với ông, họ đã có lời nhắn cho ông Langdon và nhờ tôi chuyển nếu tôi liên lạc được vởi ông".
Trán Fache nhăn lại, rõ ràng là bối rối. Ông ta định nói, nhưng Sophie đã quay lại với Langdon.
"Ông Langdon", cô nói, rút ra lừ túi áo một mảnh giấy, "đây là số điện thoại bộ phận dịch vụ nhắn tin của đại sứ quán. Họ bảo ông gọi càng sớm càng tốt". Cô đưa cho ông tờ giấy với cái nhìn chăm chú. "Trong khi tôi giải thích mật mã cho Đại uý Fache, ông nên gọi cho số này".
Langdon nhìn chằm chằm vào mảnh giấy nhỏ. Có một số điện thoại Paris cùng số máy con nội bộ. "Cảm ơn cô". Ông nói, cảm thấy lo lắng, "tôi có thể tìm thấy đíện thoại ở đâu?".
Sophie định rút chiếc điện thoại di động ra khỏi túi áo len, nhưng Fache phất tay ra hiệu bảo cô cất đi. Lúc này trông ông như núi lửa Vesuvius sắp phun. Không rời mắt khỏi Sophie, ông lấy điện thoại di động của mình chìa ra. "Đường dẫn này an toàn, ông Langdon. Ông có thể dùng nó".
Langdon cảm thấy bối rối bởi sự giận dữ của Fache với người thiếu phụ. Cảm thấy không thoải mái, ông nhận chiếc điện thoại của viên đại uý. Ngay lập tức Fache kéo Sophie ra cách đó vài bước và bắt đầu thấp giọng quở trách cô. Càng lúc càng không ưa viên đại uý, Langdon ngoảnh đi khỏi cuộc đối đầu kỳ lạ và bật máy điện thoại. Xem lại mảnh giấy Sophie vừa đưa cho, Langdon bấm số.
Đường dây bắt đầu đổ chuông.
Một hồi…hai hồi…ba hồi…
Cuối cùng cũng đã kết nối được.
Langdon chờ đợi giọng người trực tổng đài của đại sứ quán, nhưng ông nhận ra rằng mình đang nghe một máy trả lời tự động. Lạ thay, giọng nói trong cuốn băng rất quen. Đó là giọng của Sophie Neveu.
"Bonjour, vous etes bien chez Sophie Neveu…" giong ngutfi phu nil vang len. "Je suis absente pour le moment, mais…"(6)
Bối rối, Langdon quay sang Sophie: "Tôi xin lỗi, cô Neveu. Tôi nghĩ cô đã đưa cho tôi…".
"Không, đó là số đúng đấy", Sophie đột ngột ngắt lời, như thể đoán được sự bối rối của Langdon, "Đại sứ quán có hệ thống tin nhắn tự động. Ông phải bấm mã vào để nghe thấy tin nhắn của ông".
Langdon ngớ ra nhìn: "Nhưng…".
"Nó là mã số gồm ba con số trên mảnh giấy tôi đã đưa cho ông".
Langdon mở miệng toan giảỉ thích sự aihầm lẫn kỳ lạ, nhưng Sophie nhìn ông ra hiệu im lặng trong khoảnh khắc. Đôi mắt màu ôliu của cô gửi đi một thông điệp rất rõ ràng.
Đừng hỏi. Cứ làm thế.
Hoang mang, Langdon bấm số nội bộ trên mảnh giấy nhỏ: 454.
Lời nhắn của Sophie ngay lập tức dừng lại, và Langdon nghe thấy một giọng ghi âm điện tử nói tiếng Pháp: "Bạn có một tin nhắn". Vẻ như 454 là mã số kết nối từ xa để Sophie nhận tin nhắn khi cô đi vắng.
Mình đang nghe các tin nhắn của cô ấy?
Langdon có thể nghe thấy tiếng cuộn băng đang tua. Sau cùng, nó dừng lại và cái máy lại hoạt động. Langdon lắng nghe khi tin nhắn bắt đầu vang lên. Giọng nói trên đường dây lại là của Sophie.
"Ông Langdon", tin nhắn bắt đầu với lời thì thầm dễ sợ. "Đừng phản ứng gì với tin nhắn này. Hãy bình tĩnh lắng nghe. Ngay lúc này ông đang gặp nguy hiểm. Hãy làm theo thật sát sao những chỉ dẫn của tôi".
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: giám sát ngầm.
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Thưa đại úy, một nhân viên Phòng Mật mã đã đến.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên ban: nữ giải mã viên.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Xin các ông thứ lỗi.
(5) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Đây không phải lúc.
(6) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Xin chào, đây là nhà của Sophie Neveu.. Hiện nay tôi đang đi vắng, nhưng…

Truyện MẬT MÃ DA VINCI LỜI CẢM ƠN NHỮNG SỰ VIỆC CÓ THẬT Chương 1 ROSLIN
Cách viết cổ này. Langdon giải thích cho Sophie, bắt nguồn từ kinh tuyến Rose Line mà nhà thờ nằm trên đó; hay như các học giả về Chén Thánh muốn tin như vậy, từ "Line of Rose" - dòng dõi của bà tổ Mary Magdalene.
Nhà thờ chắc sắp đóng cửa, và khi Langdon đẩy cửa, một luồng không khí ấm áp toả ra, như thể ngôi nhà cổ đang trút một tiếng thở dài mệt mỏi cuối một ngày dài. Cổng vòm của ngôi nhà chạm khắc đầy những hình ngũ diệp hoa.
Những bông hồng. Tử cung của nữ thần.
Bước vào cùng Sophie, Langdon phóng mắt qua khắp điện thờ nổi tiếng và thấy được toàn cảnh. Mặc dù ông đã đọc nhiều bài mô tả công trình chạm đá phức tạp một cách quyến rũ của Rosslyn, nhưng việc trực tiếp mục kích vẫn là một cuộc hội ngộ choáng ngợp.
Thiên đường ký tượng học, một trong những đồng nghiệp của Langdon đã gọi như vậy.
Mọi mặt phẳng của nhà thờ đều được chạm khắc các biểu tượng - hình chữ thập của Thiên Chúa giáo, hình sao của đạo Do Thái, các dấu ấn của Hội Tam điểm, chữ thập của các Hiệp sĩ Templar, sừng dê kết hoa quả, kim tự tháp, các kí hiệu thiên văn, cây cối, rau quả, hình sao năm cánh và hoa hồng. Các Hiệp sĩ Templar vốn là những thợ xây đá lão luyện, họ xây các nhà thờ Templar khắp châu Âu, nhưng Rosslyn được xem là công trình trác tuyệt nhất về tình yêu và lòng tôn kính của họ. Những người thợ xây lành nghề đã chạm khắc không sót một viên đá nào. Rosslyn là một đền thờ cho tất cả các tín ngưỡng… cho tất cả truyền thống… và, trên hết, cho thiên nhiên và nữ thần.
Hậu điện trống không trừ một nhúm du khách đang lắng nghe một chàng trai hướng dẫn đợt tham quan cuối trong ngày.
Anh ta đang dẫn khách thành một hàng dọc theo một tuyến nổi tiếng trên sàn - một con đường vô hình nối sáu điểm kiến trúc chủ yếu trong hậu điện. Nhiều thế hệ du khách đã đi theo những đường thẳng này nối các điểm, và vô số những dấu chân của họ đã khắc một biểu tượng khổng lồ trên sàn nhà.
Ngôi sao David, Langdon nghĩ. Không có sự trùng hợp ngẫu nhiên ờ đây. Còn được gọi là Vương Ấn của Solomon, ngôi sao sáu cạnh này từng là biểu tượng bí mật của các chiêm tinh gia và sau đó được các vị vua Do Thái chọn - David và Solomon.
Người hướng dẫn nhìn thấy Langdon và Sophie bước vào, và mặc dù đã đến giờ đóng của, anh vẫn mỉm cười hòa nhã và ra hiệu cho họ cứ xem thoải mái.
Langdon gật đầu cảm ơn và bắt đầu đi sâu hơn vào chính điện. Nhưng Sophie vẫn đứng chôn chân ờ cửa ra vào, với một vẻ bối rối trên mặt.
"Chuyện gì vậy?" Langdon hỏi.
Sophie trân trân nhìn quanh nhả thờ: "Tôi nghĩ tôi đã từng đến đây".
Langdon ngạc nhiên: "Nhưng cô nói cô thậm chí chưa từng nghe nói đến Rosslyn".
"Đúng thế…". Cô lia mắt nhìn khắp chính điện, vẻ phân vân. "Ông tôi hẳn đã đưa tôi đến đây khi tôi còn rất nhỏ. Tôi không biết nữa. Tôi cảm thấy rất quen". Khi cô nhìn khắp lượt căn phòng, cô bắt đầu gật gù với vẻ chắc chắn hơn: "Đúng". Cô chỉ ra phía trước chính điện. "Hai cái cột này…Tôi đã nhìn thấy chúng".
Langdon nhìn bộ đôi cột chạm trổ phức tạp ở đầu kia điện thờ. Những hình chạm màu trắng chằng chịt trên đó như âm ỉ một ánh rực hồng khi những tia nắng cuối ngày tràn qua cửa sổ phía Tây. Đặt ở chỗ mà theo thông lệ lẽ ra là bàn thờ, hai cây cột này hình thành một cặp kì lạ. Cột bên trái được chạm khắc với đường nét đơn giản, thẳng đứng, trong khi cột bên phải được trang trí cầu kỳ hoa mỹ bằng những đường xoáy trôn ốc.
Sophie đi về phía chúng. Langdon vội vã theo sau, và khi họ tới chỗ hai cột, Sophie gật đầu như thể không tin nổi: "Đúng, tôi chắc chắn là tôi đã từng thấy chúng?".
"Tôi không nghi ngờ việc cô đã từng thấy chúng", Langdon nói, "nhưng không nhất thiết là ở chính chỗ này".
Cô quay lại: "Anh nói vậy nghĩa là thế nào?".
"Hai cột này là những cấu kiện kiến trúc được sao chép nhiều nhất trong lịch sử. Các bản sao này có ở khắp nơi trên thế giới".
"Bản sao của Rosslyn?". Cô có vẻ hoài nghi.
"Không, của hai cột thôi. Cô có nhớ lúc trước tôi đã nói bản thân Rosslyn là một bản sao của ngôi đền Solomon không? Hai cột đó là bản sao chuẩn xác của hai cột ở đầu ngôi đền Solomon". Langdon chỉ vào cột bên trái. "Cái này gọi là Boaz hay còn gọi Cột Thợ Xây. Cái kia là Jachin - hay Cột Học Việc". Ông dừng lại một lát. "Trên thực tế, hầu như tất cả các ngôi đền Hội Tam điểm trên thế giới đều có hai cột như thế này".
Langdon đã giảng cho Sophie về những ràng buộc lịch sử bền vững giữa các Hiệp sĩ Templar với các hội kín hiện đại thuộc Hội Tam Điểm, mà các thứ bậc chủ yếu - Học Việc, Thợ Chính và Thợ Cả (1) - của các hội đó có nguồn gốc từ thuở ban đầu các Hiệp sĩ Templar. Bài thơ cuối của Saunière quy chiếu trực tiếp về những Thợ Cả đã trang hoàng cho Rosslyn bằng những lễ vật dưới dạng chạm khắc nghệ thuật của họ. Cũng đáng chú ý là trần nhà trung tâm của Rosslyn, được chạm đầy những hình sao và hành tinh".
"Tôi chưa từng vào ngôi đền nào của Hội Tam Điểm", Sophie nói, vẫn nhìn các cột. "Tôi gần như dám chắc rằng tôi đã nhìn thấy chúng ở đây". Cô quay lại nhìn vào nhà thờ, như để tìm một cái gì khác nhằm kích thích trí nhớ.
Số khách tham quan còn lại giờ đang ra về, và người hướng dẫn viên băng qua nhà thờ tới chỗ họ với một nụ cười lịch thiệp. Anh ta là một thanh niên đẹp trai khoảng gần ba mươi, với giọng Scotland và mái tóc vàng nhạt: "Tôi sắp đóng cửa.
Liệu tôi có thể giúp các vị tìm gì chăng?".
Muốn tìm Chén Thánh thì sao? Langdon định nói.
"Mật mã". Sophie bật ra, trong một lóe sáng đột ngột, "Ở đây có một mật mã!".
Người hướng dẫn viên có vẻ hài lòng với sự hăm hở của cô.
"Vâng, có đấy, thưa bà".
"Nó ở trên trần nhà", cô nói, quay sang bức tường phía tay phải, "chỗ nào đó… ở kia".
Anh ta mỉm cười: "Tôi thấy đây không phải lần đầu bà đến Rosslyn".
Mật mã, Langdon nghĩ. Ông đã quên bẵng cái chi tiết nhỏ này trong truyền thuyết. Trong số nhiều bí ẩn của Rosslyn, có một cổng vòm từ đó hàng trăm phiến đá nhô ra, tạo thành một bề mặt nhiều khía cạnh kì lạ. Mỗi phiến đá được chạm một kí hiệu, có vẻ như tuỳ tiện, tạo ra một mật mã không thể hiểu được. Một số người tin rằng mật mã tiết lộ lối vào khoang hầm phía dưới nhà thờ. Những người khác tin rằng nó cho biết câu chuyên thực về Chén Thánh. Đó không phải là vấn đề - các chuyên gia giải mật mã đã cố gắng hàng thế kỉ nay để giải mã ý nghĩa của nó. Cho đến nay, Tập đoàn Rosslyn đã treo giải thưởng hào phóng cho ai có thể khám phá ra ý nghĩa bí hiểm, nhưng mật mã vẫn còn là một bí ẩn.
"Tôi rất vui được chỉ cho…".
Giọng người hướng dẫn viên kéo dài.
Mật mã đầu tiên của mình, Sophie nghĩ, bước đi như trong cơn hôn mê về phía cổng vòm đầy mật mã. Chiếc hộp hồng mộc đã giao cho Langdon, cô cảm thấy có thể tạm thời quên hết về Chén Thánh, Tu viện Sion cùng tất cả những bí ẩn của ngày vừa qua. Khi cô đến phía dưới trần nhà có khắc mật mã và thấy những biểu tượng trên đầu, ký ức tràn về như dòng lũ. Cô nhớ lại lần đầu tiên đến thăm nơi này, và lạ thay, hồi ức đó gợi lên một nỗi buồn bất ngờ.
Dạo ấy cô còn bé… khoảng một năm gì đó sau cái chết của gia đình cô. Ông cô đã đưa cô đến Scotland trong một kì nghỉ ngắn ngày. Họ đã đến thăm nhà thờ Rosslyn trước khi trở lại Paris. Lúc đó vào cuối chiều và nhà thờ đã đóng cửa. Nhưng họ vẫn còn ở trong.
"Chúng ta về nhà được không, grand-pere?"(2), Sophie nài nỉ, cảm thấy mệt mỏi.
"Nhanh thôi, cháu yêu, rất nhanh mà", giọng ông buồn buồn. "Ông có một việc cuối cùng cần làm ở đây. Cháu chờ trong xe được không?".
"Ông lại làm một việc người lớn nữa à?".
Ông gật đầu: "Ông sẽ làm thật nhanh. Ông hứa đấy".
"Cháu có thể giải mã ở cổng vòm lần nữa được không? Nó thú vị lắm".
"Ông không biết. Ông phải ra ngoài. Cháu sẽ không sợ ở trong này một mình chứ?".
"Tất nhiên là không rồi!" Cô nói với giọng gắt gỏng. "Ở trong này thậm chí còn chưa tối mà!".
Ông cười: "Vậy thì tốt rồi". Ông dẫn cô tới cổng vòm được trang trí công phu mà ông đã chỉ cho cô trước đó.
Sophie ngay lập tức ngồi phịch xuống sàn đá, nằm ngửa ra và chăm chú nhìn những mảnh chắp trên đầu: "Cháu sẽ giải được mật mã này trước khi ông trở lại!".
"Vậy hai ông cháu mình thi đua nhé". Ông cúi xuống, hôn lên trán cô, và tiến về cánh cửa ngách gần đó. "Ông sẽ ở ngay ngoài thôi. Ông sẽ để cửa mở. Nếu cháu cần, chỉ việc gọi". Ông bước ra khoảng ánh chiều êm dịu.
Sophie nằm đó trên sàn, chăm chú nhìn mật mã. Đôi mắt cô díu lại vì buồn ngủ. Sau vài phút, các biểu tượng mờ dần. Rồi biến mất tăm.
Khi Sophie tỉnh dậy, sàn nhà lạnh cóng.
"Grand-père?"
Không có tiếng trả lời. Đứng dậy, cô phủi bụi. Cửa ngách vẫn mở. Trời đang tối sẫm hơn. Cô bước ra ngoài và có thể thấy ông đang đứng ở cổng của một ngôi nhà đá gần đó ngay sau nhà thờ. Ông cô đang nói chuyện khe khẽ với một người chỉ thấy mờ mờ sau cánh cửa che mành.
"Grand-père!" Cô gọi.
Ông cô quay lại và vẫy tay, ra hiệu cho cô chờ tí chút nữa.
Rồi, chậm rãi, ông nói mấy lời cuối với người phía trong và hôn gió về phía cánh cửa che mành. Ông quay về chỗ cô, mắt đẫm lệ.
"Sao ông lại khóc, Grand-père?".
Ông bế cô lên và ôm chặt: "Ôi, Sophie, năm nay ông cháu mình phải từ biệt biết bao người. Thật khó khăn".
Sophie nghĩ đến vụ tai nạn, đến việc phải mãi mãi lìa xa cha mẹ, bà và em trai mình. "Ông vừa từ biệt một người nữa ạ?".
"Với một người bạn thân thiết mà ông rất yêu quý!" Ông trả lời, giọng nặng tnu cảm xúc, "và ông sợ ông sẽ không gặp lại bà ấy trong thời gian dài nữa".
Đứng bên người hướng dẫn viên, Langdon rà soát toàn bộ các bức tường của nhà thờ và cảm thấy mỗi lúc một thêm cảnh giác với một ngõ cụt có thể lù lù trước mặt. Sophie lang thang nhìn các mật mã và để Langdon giữ cái hộp gỗ hồng mộc, chứa cái bản đồ Chén Thánh giờ đây dường như vô dụng. Mặc dù bài thơ của Saunière chỉ rõ Rosslyn, Langdon vẫn không chắc bây giờ phải làm gì khi mà họ đã tới đúng chỗ. Bài thơ nhắc đến một "lưỡi dao và chiếc ly" mà Langdon chẳng thấy ở đâu cả.
Chén Thánh chờ bên dưới Roslin cổ.
Lưỡi dao và chiếc ly canh các cửa vào.
Một lần nữa, Langdon cảm thấy một khía cạnh nào đó của điều bí ẩn này vẫn chưa hé lộ.
"Tôi ghét dính mũi vào việc của người khác", hướng dẫn viên nói, mắt nhìn vào chiếc hộp gỗ hồng mộc trong tay Langdon, "nhưng chiếc hộp này… liệu tôi có thể hỏi ông lấy nó ở đâu được không?".
Langdon nở một nụ cười mệt mỏi: "Đó là một câu chuyện dài khác thường ".
Chàng trai trẻ ngập ngừng, mắt lại dán vào chiếc hộp.
"Quả là điều kì lạ hết sức - bà tôi có một cái hộp giống hệt thế này - một hộp nữ trang. Gỗ hồng mộc nhẵn bóng y chang, cũng khảm một bông hồng y chang, thậm chí các bản lề cũng y chang".
Langdon biết chàng trai này chắc hẳn đã nhầm lẫn. Nếu có chiếc hộp nào thuộc loại độc bản, thì chỉ có thể là cái này - chiếc hộp làm riêng theo yêu cầu cho viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. "Hai chiếc hộp có thể giống nhau nhưng…".
Cánh cửa ngách sập mạnh, khiến cả hai quay nhìn về phía đó. Sophie lúc nãy đã ra ngoài không nói một lời và giờ đây đang tha thẩn đi xuống con dốc về phía một ngôi nhà đá gần đó Langdon nhìn theo cô. Cô ấy định đi đâu nhỉ? Cô đã hành động rất lạ từ khi họ bước vào toà nhà. Ông quay sang người hướng dẫn viên: "Cậu biết đó là nhà gì chứ"?
Anh ta gật đầu, cũng bối rối khi thấy Sophie đi xuống đó: "Đó là nhà của người cai quản nhà thờ. Bà phụ trách sống ở đó. Bà ấy đồng thời là người đứng đầu Tập đoàn Rosslyn". Anh ngập ngừng một lát. "Và là bà tôi".
"Bà cậu đứng đầu Tập đoàn Rosslyn?".
Chàng trai gật đầu: "Tôi sống với bà trong nhà đó và giúp vào việc trông nom nhà thờ và hướng dẫn du lịch". Anh ta nhún vai. "Tôi đã sống cả đời ở đây. Bà tôi đã nuôi dạy tôi trong căn nhà đó".
Lo lắng cho Sophie, Langdon đi về phía cửa để gọi cô. Đi được nửa chừng, ông chợt dừng lại. Lúc này, ông mới kịp ghi nhận một điều gì đó trong những lời của chàng trai trẻ.
Bà tôi đã nuôi dạy tôi.
Langdon nhìn Sophie trên con dốc; rồi nhìn xuống chiếc hộp gỗ hồng mộc trong tay mình. Không thể. Chậm rãi, Langdon quay lại phía chàng trai. "Cậu nói bà cậu có một chiếc hộp như thế này?".
"Giống hệt".
"Bà ấy lấy nó ở đâu?"
"Ông tôi làm nó cho bà. Ông mất khi tôi còn bé, nhưng bà tôi vẫn nói về ông. Bà nói ông là một thiên tài với đôi tay của mình. Ông làm được đủ thứ".
Langdon thoáng thấy hiện ra một mạng các quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt không thể tưởng tượng nổi: "Cậu nói bà cậu đã nuôi dạy cậu. Cậu có phiền nếu tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra với cha mẹ cậu?".
Chàng trai có vẻ ngạc nhiên: "Họ mất từ khi tôi còn nhỏ". Anh ngừng một lát. "Cùng ngày với ông tôi".
Tim Langdon đập thình thình: "Trong một tai nạn ô tô?".
Người hướng dẫn viên lùi lại, vẻ hoang mang lộ rõ trong đôi mắt xanh màu ô liu.
"Đúng. Trong một tai nạn ô tô. Cả gia đình tôi mất trong ngày đó. Tôi đã mất ông, bố mẹ và…". Anh ngừng lại, nhìn xuống sàn.
"Và chị gái cậu", Langdon nói.
Bên ngoài, trên con đường dốc, ngôi nhà đá đúng hệt như trong trí nhớ Sophie. Đêm đang xuống, ngôi nhà toả ra một thứ hào quang ấm và mời gọi. Mùi bánh mì phả ra qua cánh cửa che mành để ngỏ và một ánh sáng vàng rực lung linh nơi cửa sổ. Khi Sophie lại gần, cô có thể nghe thấy những tiếng thổn thức từ bên trong.
Qua cánh cửa che mành, Sophie nhìn thấy một bà già trong nhà. Bà quay lưng ra cửa, nhưng Sophie có thể thấy bà đang khóc. Người phụ nữ có mái tóc dài, dày, bạc trắng gợi một chút hồi ức bất ngờ. Cảm thấy bị lôi cuốn tới gần hơn, Sophie bước lên những bậc thềm. Người phụ nữ đang giữ chặt khung ảnh của một người đàn ông và đưa ngón tay rờ khuôn mặt ông với một nỗi buồn âu yếm.
Sophie biết rõ khuôn mặt đó.
Grand-père.
Hiển nhiên là bà đã nghe tin ông chết đêm qua.
Một ván sàn kêu cót két dưới chân Sophie, và người phụ nữ chậm chạp quay lại, mắt bà bắt gặp mắt Sophie. Sophie muốn bỏ chạy, nhưng cô đứng như chôn chân. Cái nhìn nồng cháy của người phụ nữ không hề dao động khi bà đặt tấm ảnh xuống và tiến lại gần cửa. Dường như cả một thiên thu trôi qua trong khi hai người phụ nữ nhìn nhau qua tấm lưới mỏng. Rồi, giống như sự gom tụ dần của một cơn sóng đại dương, mặt người phụ nữ chuyển từ phân vân… đến không tin… đến hy vọng…và cuối cùng, thành vui sướng tột cùng.
Qua cánh cửa mở, bà bước ra, vươn đôi bàn tay mềm mại, ấp lấy khuôn mặt còn sững sờ của Sophie: "Ôi, cháu yêu… nhìn cháu này!".
Mặc dù Sophie không nhận ra bà, nhưng cô biết người phụ nữ này là ai. Cô ráng nói nhưng thấy là thậm chí cô không thở được.
"Sophie" người phụ nữ nức nở, hôn lên trán cô.
Những lời của Sophie là những tiếng thì thầm tắc nghẹn.
"Nhưng… Grand-père nói bà đã…".
"Ta biết". Người phụ nữ đặt nhẹ tay lên vai Sophie và nhìn cô với đôi mắt thân thuộc. "Ông con và ta buộc phải nói biết bao điều như vậy. Chúng ta làm những gì chúng ta nghĩ là đúng. Ta xin lỗi. Đó chỉ vì sự an toàn của con, công chúa ạ".
Sophie nghe thấy từ cuối của bà, và lập tức nghĩ đến ông cô, người đã gọi cô là công chúa trong nhiều năm. Giọng ông giờ đây như âm vang trong những tường đá cổ của Rosslyn, qua lòng đất và dội lại trong những hốc chưa ai biết đến bên dưới.
Người phụ nữ quàng tay ôm lấy Sophie, nước mắt trào ra nhanh hơn: "Ông con rất muốn kể cho con tất cả. Nhưng sự thể quá khó giữa hai ông cháu. Ông đã hết sức cố gắng. Có quá nhiều điều cần giải thích. Quá nhiều điều". Bà hôn lên trán Sophie lần nữa, rồi thì thầm vào tai cô. "Không còn bí mật nào nữa, công chúa ạ. Đã đến lúc để con biết sự thật về gia đình chúng ta".
Hai bà cháu Sophie đang ngồi ôm nhau, nước mắt giàn giụa, trên bậc thềm thì chàng trai hướng dẫn viên lao qua bãi cỏ, mắt long lanh hy vọng pha lẫn không tin.
"Sophie?".
Qua làn nước mắt, Sophie gật đầu và đứng lên. Cô không biết mặt chàng trai, nhưng khi họ ôm nhau, cô có thể cảm nhận được sức mạnh của huyết thống chảy trong huyết quản… họ có cùng dòng máu.
Khi Langdon b
Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 71 Chương 72 Chương 73 Chương 74 Chương 75 Chương 76 Chương 77 Chương 78 Chương 79 Chương 80 Chương 81 Chương 82 Chương 83 Chương 84 Chương 85 Chương 86 Chương 87 Chương 88 Chương 89 Chương 90 Chương 91 Chương 92 Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105