Mặc dù đôi tay đó thấm đầy khí lạnh nhưng tôi vẫn cảm thấy người nóng ran, vội vã tôi co người lại. “Đã lâu không có ai đến ngôi làng này sao hôm nay lại xuất hiện hai cô phóng viên tay chân mềm mại yếu đuối này chứ?”. Nghe giọng nói của gã mới đến này, tôi quay đầu lại nhìn thì ra là gã thanh niên trạc tuổi chúng tôi. Hắn rất ngạo mạn… hắn mặc bộ đồ thể thao trông khá tươm tất, không giống như cách ăn mặc của người dân trong làng, tôi đoán hắn không phải là dân bản địa. Hắn đã biết chúng tôi là phóng viên, xem ra hắn cũng đã nhìn thấy cảnh tôi và Quân Mỹ bị bủa vây lúc nãy. “Tôi muốn biết tại sao?”. Tôi tạm thấy yên tâm, hỏi: “Tại sao chúng ta đều là người ngoài mới đến nhưng cậu lại được tự do đi lại trong làng còn chúng tôi lại bị họ vây đuổi?”. Gã thanh niên hơi ngạc nhiên khi tôi biết hắn không phải là người bản địa, nói: “Bọn họ luôn có thái độ bài xích người ngoài đến, còn tôi là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt. Nhưng tôi thấy phương pháp tiếp cận của các cô quá cứng nhắc, máy móc”. - Máy móc? - Tuy không đồng tình với cách làm việc của Quân Mỹ nhưng nghe gã kia bảo thế tôi lập tức phản bác ngay rằng: “Phóng viên thì phóng viên chứ nếu phải đối diện với người thổ dân trong rừng cũng không nên tươi cười nịnh nọt để dò thăm tin tức!”. - Họ không phải là thổ dân. - Gã kia đột nhiên cắt ngang lời tôi, “Cô phóng viên ạ, tôi có chuyện cần bàn kỹ với cô” - nói xong, hắn quay phắt người lại chạy một mạch, hắn như đoán chắc rằng tôi sẽ đuổi theo. - Sao tôi phải tin anh chứ? Đồng nghiệp của tôi đang trong tay bọn họ. - Tôi chạy theo sau gã hỏi với. Hắn chẳng thèm quay đầu, cứ thế chạy thẳng một mạch và còn tỏ ra rất cao ngạo, gã nói: “Cô còn được phép lựa chọn nữa sao?”. Nếu cứ nấp trong bụi cây này sớm muộn gì thì họ cũng phát hiện ra. Quả thực tôi không còn cách nào khác, tuy trong lòng không đành nhưng cũng phải chạy theo hắn. Đuổi kịp đến cổng nhà hắn, hắn quay đầu tự giới thiệu đơn giản bốn chữ: tôi tên là Vương Hâm. - Tôi là Đào Tử, phóng viên lưu động của Thân báo. - Tôi lễ phép đáp lời. Hắn ở trong ngôi nhà ngói khá tươm tất, vào cổng là nhà chính, bốn góc chia làm bốn phòng. Đây là bố cục truyền thống của làng này, tuy nhìn kỹ thì rất cũ kỹ nhưng so với các nhà tôi thấy trước đây trong làng này thì nó đẹp gấp cả trăm lần. Tôi kinh ngạc phát hiện, trong nhà hắn có cả thiết bị điện tử. Tôi nhẹ tay gõ vào chiếc vi tính, hỏi: “Nơi vùng núi non hẻo lánh này cũng có lưới điện đi qua à?” Câu hỏi của tôi làm hắn bất mãn, hắn “xì” một tiếng biểu thị không thích. Tôi không quên sự an nguy của Quân Mỹ, đi thẳng vào đề: “Anh biết đồng nghiệp của tôi bị bắt đi đâu không? Tôi muốn cứu cô ta”. - Tôi có thể cứu cô ấy về cho cô, nhưng nếu cô còn chọc giận họ thì tôi hết cách. Giọng hắn tỏ ra thờ ơ khiến tôi đâm lo, tôi nói với giọng tức giận: “Thôn Đỗ ơi, thôn Đỗ, các đường qua lại nơi đây đều bị cắt đứt cả, chúng tôi và cậu đều là người ngoài mới vào, sao cậu lại nói thế?”. - Thôn Đỗ nghĩa là cắt đứt đường lui tới, - hắn cười, - cô hiểu đúng ý nghĩa của chữ “đỗ” trong thôn này rồi đấy, nhưng tôi lại hiểu nó là thôn đố kỵ cơ. - Thôn đố kỵ? Cách lý giải của hắn làm tôi lạnh người. Từng khuôn mặt mang lốt người dạ thú cứ xuất hiện trước mắt tôi, trong nụ cười chất đầy âm mưu ác hiểm. Không có tình cảm chân thành, không có tình bè bạn mà chỉ có sự đố kỵ ngất trời. Đây là thôn chết tiệt gì cơ chứ? Hai lòng bàn tay mồ hôi tóa ra đầm đìa, tôi đút tay vào túi, vô ý làm rơi tấm ảnh xuống nền đất. Tấm ảnh đó tôi luôn mang theo bên mình, cũng chính vì thế mà dân trong làng này không bắt tôi. Tấm ảnh bay đến dưới chân tên Vương Hâm, hắn cúi nhặt lên rồi đưa trả tôi, hắn nhìn tôi hỏi: “Người trong tấm ảnh ấy là ai?” “Là Trương Nghệ.” Tôi đáp. “Cô ta là đồng nghiệp của tôi trước đây, nửa năm trước đi công tác thăm dò đưa tin tình hình chiến tranh ở Trung Đông bị bom nổ mất xác”. Trong chốc lát không khí dường như cô đặc lại, Vương Hâm nhìn tôi, không nói thêm câu nào. Bất chợt, đồng tử hắn co lại, mồm hắn lẩm bẩm: “Cô có đố kỵ với cô ta không?”. Câu hỏi đột ngột đó, khiến tôi đứng lặng như trời trồng. Khi hắn hỏi, khuôn mặt chẳng để lộ thái độ nào hết, chỉ thấy hai môi hắn chấn động một cách máy móc mà thôi, giọng hắn y như giọng nói của chiếc loa phát thanh không có chút biểu hiện gì. - Cái gì? Tôi nói khẽ. Quả thực tôi không dám nhớ lại việc này. Vương Hâm nhìn tôi, giọng nói đã trở lại bình thường, chỉ căn phòng phía tay trái bảo: “Cô đi nghỉ trước đi, tôi biết đồng nghiệp của cô ở đâu, tôi đi đón cô ta về trước đã”. Nghe nói thế tôi muốn cùng hắn đi đón cô bạn về, nhưng hắn cự tuyệt không cho đi cùng. Hắn bảo, người trong làng cứ hễ thấy người lạ mặt thì chỉ muốn đánh, để một mình hắn đi mới xuôi chuyện. Vương Hâm đi rồi, chỉ còn lại một mình tôi trong phòng. Ánh trời chiều nhạt nhòa chỉ chiếu sáng một góc nhỏ trong nhà, tôi ngồi cạnh giường mang tấm ảnh của Trương Nghệ đã mất ra xem. Cô ấy chỉ mới hai tám tuổi! Tôi vội che trán lại, cánh cửa ký ức hé mở, một tấm ảnh loang đầy vết máu tươi ẩn hiện trong đầu. Đó là tấm hình do đại sứ quán chụp được ngay ở hiện trường vụ án - Trên đường phố lỗ chỗ những mảnh thịt của người chết, đâu đâu cũng bao phủ một màu chiến tranh.. Bài viết đạt nhất của tôi đó là bài viết về cái chết Trương Nghệ. Tấm hình trong tay bị nhàu đi, khiến khuôn mặt cô gái trở nên vô cùng hung tợn. Tôi lặng người! Trên nóc nhà bỗng nhiên vọng xuống tiếng động khá lớn, tiếp theo là tấm ngói bị vỡ rơi xuống, việc xảy ra đột ngột càng làm tăng thêm vẻ ghê rợn trong bóng tối đang dần bủa vây. Đến cạnh cửa sổ, tôi ngạc nhiên phát hiện căn nhà tranh cổ quái đó, đang nằm cách ngôi nhà Vương Hâm không xa. Điều này khiến tôi cảm thấy bất an cực độ. Ngôi làng này hệt như mê cung trong bát trận đồ, còn trung tâm là căn nhà tranh. Dường như đi đến đâu cũng nằm trong tầm ngắm của ngôi nhà. Màn đêm đã thực sự chiếm lĩnh toàn vũ trụ. Ở trong căn nhà này, khiến người ta vô cùng bị ức chế, trong màn đêm, trông căn nhà giống như chiếc đầu lâu vĩ đại với đầu tóc bù xù dựng sừng sững trên mặt đất. Tuy cách ngôi nhà đó khá xa so với tầm mắt trong đêm nhưng tôi vẫn thấy được cánh cửa đang từ từ hé mở, trong nhà lấp loáng hai vệt sáng như hai con mắt đằng đằng sát khí. Trời ơi! Tôi đóng cửa sổ lại, ngồi bên giường và cứ thấp thỏm bất an. Cơn buồn ngủ ập đến, tôi chẳng thèm tắt đèn, cứ dựa vào chân giường thiếp đi, vừa chợp mắt, bên ngoài bỗng có tiếng cọt kẹt, hình như có ai đó đang mở cửa đi vào. Lúc vừa vào nhà Vương Hâm, tôi thấy vật dụng trong nhà cũng tạm được, nhưng căn phòng này thì quá cũ, then cửa bằng gỗ kiểu này chỉ có ở riêng vùng này. Vương Hâm ra ra vào vào không cần cài then. Người xưa thường nói “Đêm không cài then, ngày đi đường không thèm nhặt của rơi” để hình dung cảnh thái bình thịnh trị, nhưng đối với ngôi làng hẻo lánh này thì đó là chuyện khó tin mang vẻ kỳ bí, nguy hiểm! Tôi đoán chắc hắn đã mang đồng nghiệp của tôi về, thế là tôi vùng dậy, đẩy cửa đi ra. Khoảng cách giữa hai cánh cửa trong nhà khá lớn, chỉ thấy bóng một người cụt đầu loáng qua. Tôi thấy quá bất an, vội dừng cánh tay đang thò ra mở then cửa lại. - Có phải là cậu Hâm đó không? Nghe giọng nói của chính mình tôi mới phát hiện mình đang run. Trả lời tôi là giọng người mang âm khí rất nặng. Tôi lùi lại từng bước, hai mắt cứ dán chặt vào khe hở ở cánh cửa. Vị khách đó không phải Vương Hâm, cũng không phải là đồng nghiệp của tôi, vì nếu là họ thì bất tất phải đứng ngoài cửa lâu như thế, không nói không rằng. Tiếng gõ cửa một hồi vang lên đanh như thép làm tôi không thể nào hình dung được đó là âm thanh gì, đầu óc bỗng rỗng tuếch không còn một ký ức nào cả. Tiếng gõ cửa lại vang lên một hồi, nghe giống như tiếng đao búa, lưỡi lê chạm vào nhau. Tôi bất chợt nhận ra một điều là họ chỉ cách tôi một bức cửa, bỗng có một vật gì đó đang cạy cửa… Trong lúc căng thẳng tai tôi tự nhiên cực kỳ thính nhạy, thậm chí tôi còn nghe được cả tiếng rơi của những hạt bụi nhỏ trên cửa. Tôi run lên bần bật không thể khống chế được nữa và tuyệt vọng nhìn căn nhà kín mít, không có lối nào có thể trốn thoát. Mắt tôi vẫn không rời khỏi khe hở nơi cửa, cứ tưởng tượng sẽ có một cái móng vuốt trắng hếu nào đó cạy cửa xông vào. Tôi đã nghĩ cách lấy chiếc bàn ngăn cánh cửa lại nhưng toàn thân run sợ không chút sức lực nào. Trong lúc “dầu sôi lửa bỏng”, di động bỗng đổ chuông báo hiệu tin nhắn. Tiếng điện thoại như hóa giải tình trạng đóng băng mạng sống của tôi và như được cứu rỗi, tôi vội thò tay vào túi lấy điện thoại ra đọc tin nhắn. Vừa mở hộp tin ra, hai đồng tử tôi như thu nhỏ lại, hơi thở và nhịp tim như dừng hẳn, khi thấy trong nội dung tin nhắn vẻn vẹn có vài chữ “Đào Tử, cô có đố kỵ tôi không?”. Tên của người gửi nhảy tọt vào mắt tôi, là Trương Nghệ đã chết, Trương Nghệ nhắn cho tôi. Không biết tiếng gõ cửa lúc nãy đã ngưng từ bao giờ, tôi trợn tròn mắt lên để quan sát căn phòng cho kỹ, hành động đã không còn được điều chỉnh bởi lý trí nữa. “Bình” một tiếng, tôi gục quỵ xuống nền nhà, vô tình tay tôi bấm nút xóa. Trương Nghệ đã chết, chiếc di động cũng mất tiêu trong cuộc chiến tranh Trung Đông cùng với thân xác cô. Tôi giữ lại số điện thoại của cô như một kỷ niệm về người bạn đồng nghiệp, nhưng tại sao người chết lại có thể nhắn tin cho tôi được? Sự yên lặng đó đối với tôi dường như đã kéo dài hàng thế kỷ! Đợi đến khi cơ thể đã hồi lại tôi mới đủ sức để đứng dậy. Ngoài khe cửa vẫn một màu đen kịt, tôi từ từ tiến đến cửa như thể bị ma xui quỷ khiến, đứng đối diện với cánh cửa, mắt hướng thẳng về phía khe hở nhìn ra ngoài. Ầm, tiếng cửa mở ra làm tôi choáng. Ngoài cửa là một thi thể trần truồng đầy máu đỏ như bị lột hết da va vào mắt tôi. Tôi nghe phảng phất một tiếng thét thất thanh, tiếng thét cất lên từ sâu thẳm sự kinh hoàng của tôi, vì lúc đó, tiếng thét đã không thể hoạt động đáp ứng nhu cầu nhanh chóng của đại não. Một đôi mắt đỏ ngầu màu máu đối diện từ bên kia cửa đang nhìn tôi, thấp thoáng tôi trông thấy những mảng da loang lổ trắng đen bị vỡ ra từng mảng, cảnh tượng hãi hùng thương tâm không nỡ nhìn, nhưng trực giác mách bảo tôi rằng đó là Trương Nghệ. Đích thực là Trương Nghệ, nữ phóng viên bị bom nổ nát người.