12. ÊCOX, IÊCLĂNG VÀ ĂNGGLƠTE[190] Cần nói rõ một chi tiết: Giôzian có "tủ xoay". Người ta sẽ hiểu điều này, khi nghĩ đến việc cô nàng, tuy khác mẹ vẫn là em gái của nữ hoàng, nghĩa là người hoàng gia. Có tủ xoay nghĩa là thế nào? Tử tước Xanh Gion - tức Bolinhbrôc - viết thư cho Tômax Lenna, bá tước Xuxếc: "Có hai việc khiến người ta vĩ đại- ở nước Anh phải có tủ xoay, ở nước Pháp phải được hai chữ dành cho". Nguồn gốc hai chữ dành cho ở nước Pháp như sau, khi nhà vua du ngoạn, thì tối đến, lúc tới trạm nghỉ, viên sĩ quan tham mưu phải chỉ định chỗ ở cho những người hộ giá nhà vua. Trong số các vị quí tộc này, một số có ưu quyền rất lớn: "Họ được dành cho, theo Biên niên sử năm 1649, trang 6, nghĩa là viên sĩ quan tham mưu, lúc đánh dấu nhà ở, ghi hai chữ Dành cho trước tên của họ, như: Dành cho Hoàng thân Xubiz; còn khi ghi nhà ở của một người không phải hoàng thân thi y không ghi Dành cho, mà chỉ ghi tên, thí dụ: Công tước Giexvrơ, công tước Mazaranh, vân vân". Hai chữ Dành cho trên một cánh cửa chỉ rõ một hoàng thân hay một sủng thần; Sủng thần có kém hoàng thân. Nhà vua ban hai chữ Dành cho cũng như ban huy chương hoặc tước vị nguyên lão. Ở nước Anh, "có tủ xoay" thì kém phô trương hơn, nhưng thực tế hơn. Đây là một dấu hiệu được thực sự gần gũi nhà vua. Người nào, nhờ dòng dõi hoặc đặc ân, có thân thế được nhận tin tức trực tiếp của nhà vua, thì trong bức tường phòng ngủ của mình có một cái tủ xoay nho nhỏ có gắn chuông. Chuông rung, tủ mở, một bức thư của nhà vua hiện ra trên một chiếc đĩa vàng hoặc trên một cái gối nhung, sau đó tủ đóng lại! Thật là thân tình và trang trọng. Bí mật trong thân tình. Tủ không dùng vào một việc gì khác cả. Tiếng chuông rung báo hiệu có tin tức của nhà vua. Không thấy người mang đến. Vả lại cũng chỉ như một thị đồng của nữ hoàng hoặc của nhà vua. Lêxextơ có tủ xoay dưới thời Êlizabet, và Bơckinham thời Giăc đệ Nhất. Giôzian có tủ xoay thời Anh, mặc dầu ít được mến chuộng. Người có tủ xoay giống như người được liên lạc trực tiếp với cái bưu điện nhỏ trên trời, thỉnh thoảng Chúa lại sai người phát thư đem đến cho một phong thư. Không còn ngoại lệ nào được khao khát hơn. Đặc ân này kéo theo nhiều nô dịch hơn. Vì nó mà người ta trở thành nô bộc hơn. Ở triều đình, cái gì nâng cao thường hạ thấp. "Có tủ xoay" phải nói bằng tiếng Pháp; chi tiết nghi thức này của Anh có lẽ là một điểm thấp hèn ngày xưa của nước Pháp. Tôn nữ Giôzian, nữ nguyên lão còn trinh, cũng như Êlizabet trước kia là nữ hoàng còn trinh, sống một cuộc đời hết sức vương giả, lúc ở đô thành, lúc ở nông thôn, tuỳ theo mùa, và hầu như luôn luôn có một triều đình riêng mà huân tước Đêvit là cận thần, cùng nhiều người khác nữa. Vì chưa thành vợ thành chồng, nên huân tước Đêvit và tôn nữ Giôzian có thể đi đôi với nhau giữa công chúng mà không sợ mang tiếng lố lăng, điều mà hai anh ả rất thích. Họ thường đi xem hát và đua ngựa, ngồi cùng một xe, cùng một khán đài. Họ được phép và còn bị bắt buộc phải lấy nhau, thế mà chuyện hôn nhân lại làm họ nguội lạnh; nhưng nói chung họ rất thích nhìn thấy nhau. Những chuyện suồng sã được phép của những người đã "Hứa hôn"[191] có một giới hạn dễ vượt qua. Cả hai vẫn giữ gìn không vượt, vì đã dễ dàng thì không lịch sự. Thời bấy giờ những trận đấu quyền Anh hay nhất vẫn tổ chức ở Lambet; tại giáo khu này huân tước tổng giám mục Cantobery có một lâu đài, mặc dầu không khí ở đấy không trong lành, và một thư viện rất phong phú, mở cửa cho những trang phong nhã vào một số giờ nhất định. Một hôm, vào mùa đông, tại một bãi cỏ có cổng khoá, có cuộc đấu võ của hai người. Giôzian được Đêvit ẫn đến xem. Cô nàng hỏi: Đàn bà có được vào không" Đêvit trả lời: Sunt foeminoe magnates. Dịch phỏng: Đàn bà thường dân thì không. Dịch từng chữ: Các bà lớn thì được. Một nữ công tước chỗ nào cũng vào được. Vì thế tôn nữ Giôzian đi xem quyền Anh. Tôn nữ Giôzian chỉ nhượng bộ trong việc ăn mặc theo kiểu đi ngựa, rất thông thường lúc bấy giờ. Đàn bà ít khi ăn mặc khác để đi du lịch. Trong sáu người ngồi trên cỗ xe hòm Uynxo, ít khi không có một hoặc hai phụ nữ ăn vận đàn ông. Đấy là dấu hiệu giai cấp trung lưu. Huân tước Đêvit, đi theo một phụ nữ, không thể có mặt trong trận đấu, và đành đóng vai khán giả bình thường. Tôn nữ Giôzian chỉ để lộ tư cách của mình qua việc nhìn bằng ống dòm, đó là cử chỉ quý tộc. Cuộc "gặp gỡ cao quý " đặt dưới sự chủ toạ của huân tước Giecmen, tăng tổ phụ hay tăng tổ thác của huân tước Giecmen; ông này, vào cuối thế kỷ thứ mười tám, là đại tá, trong một trận chiến đấu đã đánh bài chuồn, sau đó làm bộ trưởng chiến tranh và chỉ thoát khỏi súng cối quân thù để rơi vào những lời nhạo báng của Sêriđăng, một thứ súng máy tệ hại hơn. Rất nhiều nhà quí tộc đánh cá; Hary Beliu Carleton, có xa vọng được tước nguyên lão Bela qua đã tàn tạ, cá với Henry, huân tước Haiđơ, nghị viện thị trấn Đanhivit, còn được gọi là Laoxextơn; Pêrêgrin Becti tôn kính, nghị viện thị trấn Tơrurô, cá với ngài Tômax Colpipia, nghị viện Međxton; lãnh chúa Lamiêcbô, thuộc biên khu Lôtian, cá với Xamuen Tơrêphuydi, nghị viện Penryn; ngài Bactơlơmiu Gơraxđiơ, thị trấn Xanhyvơ, cá với ngài Saclơ Bôđvin rất tôn kính, vẫn được gọi là huân tước Rôbactơ, và chính là Castos Rotulorum của lãnh địa hầu tước Cornuay. Có nhiều người khác nữa. Hai võ sĩ, một người Iêclăng ở Typrêry lấy tên của ngọn núi quê hương y là Flemghêmađon, và một người Êcox tên là Hemghên. Thế là hai mềm kiêu hãnh quốc gia gặp nhau. Iêclăng và Êcox sắp choảng nhau; Êrin sắp đấm Gajôten. Vì vậy tiền cá vượt quá bốn vạn ghi-nê, chưa kể những khoản đặt cố định. Hai đấu thủ đều cởi trần, mặc quần cụt ngắn, cài bên hông, chân mang giày cao cổ, đế đóng đinh, buộc dây ở mắt cá. Hemghên, anh chàng người Êcox, là một thằng nhỏ trạc mười chín tuổi, nhưng trán đã có vết khâu; vì vậy phần đông ngả về nó. Tháng trước nó đã đấm gãy một xương sườn và chọc thủng hai mắt của võ sĩ Xicxơmai Lơcatơ; điều đó đủ giải thích việc hâm mộ. Những người cá nó được đã vớ bẫm mười hai nghìn livrơ xteclinh, Ngoài cái trán khâu, Hemghên còn cái hàm sứt. Nó nhẹ nhàng, lanh lẹn, chỉ cao như một phụ nữ nhỏ nhắn nhưng gọn gàng, vạm vỡ, dáng vóc lùn lùn, đáng sợ, và không hổ với giòng họ của nó; không một cơ bắp nào không nhằm vào mục đích, là đánh đấm. Trong bộ ngực chắc khoẻ, bóng nhẫy, mầu đồng thau của nó, có cái nét gọn gàng. Khi nó cười, ba cái răng hổng lại thêm vào nụ cười. Đối thủ của nó người to, bè, nghĩa là yếu. Đó là một anh chàng bốn mươi tuổi, cao sáu piê[192], ức hải mã, vẻ mặt hiền lành. Y có thể đấm vỡ boong tàu, nhưng lại không biết đấm. Anh chàng Flemghêmađon người Iêclăng này chủ yếu là một cái bia, y có mặt trong các cuộc đấu quyền Anh hình như để đón nhận chứ không phải để đánh trả. Có điều người ta cảm thấy y chịu đựng được lâu. Một thứ thịt bò rán chưa kỹ, khó nhá, và không ăn được. Theo tiếng lóng địa phương, người ta gọi đó là miếng thịt sống, rawfesh[193]. Y lác mắt. Y có vẻ nhẫn nhục. Đêm hôm trước hai tay này đã nằm bên nhau, cùng giường, và cùng ngủ. Họ đã uống chung một cốc, mỗi người ba ngụm rượu Portô. Cả hai đều có phe cánh ủng hộ, toàn dân mặt mày dữ tợn, cần thì đe doạ cả trọng tài. Trong nhóm của Hemghên, người ta nhận thấy Gion Grôman, nổi tiếng cõng được một con bò trên lưng, và một anh tên là Gion Brê có hôm đã vác trên vai mười giạ bột, mỗi giạ mười lăm ga-lông[194] thêm ông chủ máy xay: với gánh nặng đó anh ta đi hơn hai trăm bước. Về phía Flemghêmađon, huân tước Haiđơ đã dẫn từ Laoxexton đến một anh chàng Kintơ nào đó, tay này ở Satô-Ve, có thể ném qua vai một tảng đá hai mươi livrơ[195] cao hơn cái tháp cao nhất của lâu đài. Ba tay này, Kintơ, Brê, và Grôma, là người ở Cornuay, điểm đó làm vinh dự cho bá tước lãnh địa. Một số tay ủng hộ khác đều là dân vô lại, cục súc, lưng cánh phản, chân vòng kiềng, bàn tay hộ pháp nổi đốt, mặt mày ngu xuẩn, ăn mặc rách rưới, chẳng biết sợ hãi là gì, hầu hết đều mang tiền án. Nhiều tên còn rất thông thạo nghề chuốc rượu cảnh sát. Nghề nào cũng phải có những tài hoa của nó. Bãi cỏ được chọn xa hơn Vườn Gấu, nơi ngày xưa người ta cho đấu gấu, chọi bò, và chó cắn nhau, quá những ngôi nhà cuối cùng đang xây dở, bên cạnh túp lều của tu viện trưởng nhà thờ Đức Bà Mari Ovơ Rai, bị vua Hăngri VIII phá huỷ. Tiết trời hôm ấy gió bắc và sương giá; một làn mưa bụi lất phất, thoáng cái đã đông thành giá. Trong số những người lịch sự có mặt, rất dễ nhận ai là bố gia đình, vì họ đều giương ô. Phía Flemghêmađon, đại tá Moncrep, trọng tài, và Kinte, để phò tá. Phía Hemghên, Puygơ Bômari tôn kính, trọng tài và huân tước Đêzecton, người ở Kincary, để phò tá. Hai võ sĩ ngồi yên trong hàng rào dây một lúc, trong khi người ta lấy lại đồng hồ. Đoạn hai bên tiến đến trước mặt nhau và bắt tay nhau. Flemghêmadon nói với Hemghên: - Mình chỉ muốn về nhà. Hemghên thật thà đáp: - Cánh trung lưu đã chịu khó đến thì cũng phải cho bõ công họ chứ. Vì cởi trần nên cả hai đều rét. Flemghêmađon run rẩy, hai hàm răng đánh cầm cập. Tiến sĩ Êlêaneo Sacp, cháu tổng giám mục York, gào to với họ: - Cứ nện khoẻ vào, các chú mình. Rồi khắc nóng người. Lời nói nhã nhặn đó khiến hai người hết cóng. Họ xông vào nhau. Nhưng chẳng bên nào nổi nóng cả. Ba hiệp nhạt nhẽo trôi qua. Tiến sĩ Gâmđrêt tôn kính, một trong bốn mươi hội viên của Onxao Conle giơ hét to: - Tống rượu gin cho chúng nó. Nhưng hai trọng tài và hai người đỡ đầu, cả bốn đều có quyền phân xử, quyết giữ vững điều lệ. Quả thật trời rét quá. Chợt có tiếng gào to: - First blood[196]. Quần chúng đòi hỏi những giọt máu đầu tiên. Người ta cho hai võ sĩ đứng thật đối diện. Hai bên nhìn nhau, tiến lại gần, vươn cánh tay ra, cùng nắm tay nhau, đoạn lùi lại. Bất thình lình, Henghên, tay trẻ tuổi, chồm tới. Trận đấu chính thức bắt đầu. Flenghêmađon bị đấm trúng vào trán, ngay giữa sơn căn. Cả bộ mặt anh chảy máu ròng ròng. Đám đông hét: - Hemghên đã khui rượu Borđô rồi! Người ta vỗ tay. Flemghêmađon, xoay xoay hai cánh tay như cối xay quay cánh quạt, bắt đầu khua khoắng may rủi hai nắm đấm. Pêrêgrin Berti tôn kính nói: - Mắt mờ rồi. Nhưng vẫn chưa mù. Lúc này Hemghên nghe tứ phía vang lên lời động viên - Bung his peepers[197]. Nói tóm lại, người ta đã khéo kén chọn hai đấu thủ. Và mặc dù thời tiết không thuận lợi lắm, người ta cũng hiểu là trận đấu sẽ đạt kết quả tốt. Những lợi thế của anh chàng khổng lồ Flemghêmađon có mặt bất tiện của chúng; anh cử động nặng nề. Hai cánh tay anh là chùy, nhưng thân hình anh lại là khối đá nặng. Tay thanh niên chạy nhảy, đấm, nghiến răng kèn kẹt, nhân đôi sức mạnh bằng tốc độ, biết nhiều mánh lới. Bên này là cú đấm nguyên thuỷ man rợ không có học, ở trạng thái ngu dốt; bên kia là quả đấm văn minh. Hemghên đánh đấm vừa bằng thần kinh vừa bằng bắp thịt và bằng tất cả độc ác lẫn sức khoẻ của y, Flemghêmađon là một loại đánh đấm u mê, hơi bị nhừ tử rồi. Đó là nghệ thuật chống lại thiên nhiên. Đó là hung ác chống lại man rợ. Rõ ràng anh chàng man di sẽ thua. Nhưng không nhanh lắm. Hấp dẫn ở chỗ ấy. Một thằng bé chống lại một người lớn. Phần thắng thuộc về thằng bé. Một con mèo lại được một con chó ngao. Bọn Gôliat[198] luôn luôn bị những anh Đêvit đánh bại. Tiếng cổ vũ dội xuống hai võ sĩ rào rào như mưa đá: - Bravo Helmgail! Good! Well done, highlander. - Now Phelem![199] Và phe cánh của Hemghên lại tốt bụng nhắc hắn câu động viên: - Móc mắt nó ra! Hemghên còn làm hơn thế. Đột ngột cúi xuống rồi vùng lên như một con rắn uốn mình, nó đấm Flemghêmađon vào chính giữa mỏ ác. Tên khổng lồ lảo đảo. - Chơi xấu! - Tử tước Bacna hét lên. Flemghêmađon vừa khuỵu vào đầu gối Kintơ vừa nói: - Tôi bắt đầu thấy nóng người rồi. Huân tước Đêzectum vội hỏi ý kiến trọng tài và tuyên bố: - Tạm nghỉ năm phút. Flemghêmađon đuối sức rồi. Kintơ lau máu ở mắt và mồ hôi trên người cho anh ta bằng một miếng nỉ và ấn một cái miệng chai vào mồm anh ta. Đang hiệp thứ mười một. Flemghêmađon, ngoài vết thương ở trán, còn bị đấm nhừ cơ ngực, sưng bụng và thâm tím đỉnh đầu. Hemghên chẳng sao cả. Trong đám thượng lưu có tiếng rì rầm. Huân tước Bacna nhắc lại: - Chơi xấu. - Cá hoà - huân tước Lamiêcbê nói. - Tôi đòi tiền đặt của tôi đấy, - ngài Tômax Conpipơ nói lại. Và vị hội viên tôn kính thay mặt thị trấn Xanh Yvơ ngài Bactơlomiu Graxơđiơ, thêm vào: - Phải trả lại tôi năm trăm ghi-nê, tôi đi về đây. - Đình trận đấu thôi, - khán giả gào thét. Nhưng Flemghêmađon bỗng đứng dậy, lảo đảo gần như một người say rượu, và nói: - Cứ tiếp tục trận đấu, với một điều kiện. Tôi, tôi cũng sẽ có quyền chơi xấu một quả. Từ bốn phía người ta hét to: - Đồng ý! Hemghên nhún vai. Năm phút đã trôi qua, lại vào hiệp khác. Trận đấu, đối với Flemghêmađon là một cảnh hấp hối, đối với Hemghên lại thành một trò chơi. Khoa học thế đấy! Thằng bé tìm được cách cho anh chàng to xác vào thế sanxơry, nghĩa là thình lình Hemghên dùng cánh tay trái quặp lại như cùm thép khoá cái đầu to của Flemghêmađon, giữ rịt anh ta trong nách, cổ gập, gáy thấp, đồng thời dùng quả đấm phải nện liên hồi như búa nện vào đinh, nhưng lại thúc ngầm từ dưới lên; nó cứ mặc sức đấm nát mặt anh kia. Cuối cùng, đến lúc Flemghêmađon được thả ra ngẩn đầu lên, thì không sao nhận ra bộ mặt anh ta nữa. Những chỗ trước kia là mũi, là mắt, là mồm nay chỉ còn là một thứ gần như bọt biển đen nhúng vào máu. Anh ta nhổ toẹt ra đất bốn cái răng. Rồi ngã vật xuống. Kintơ đỡ anh ta nằm lên đầu gối. Hemghên chỉ hơi xây xát đôi chút. Nó bị vài ba chỗ bầm không đáng kể và một vài vết xước ở một bên xương quai sanh. Không anh nào thấy rét nữa. Người ta thấy Flemghêmađon mười phần thua cả mười. Hary Carlêton gào tướng lên: - Flemghêmađon hết hi vọng rồi. Tôi cuộc Hemghên được đây, tôi đặt danh vị nguyên lão Benla Aqua và tước vị huân tước Belin của tôi, ăn một bộ tóc giả cũ của tổng giám mục Cantobery đấy. - Đưa cái mõm của mày đây - Kintơ nói với Flemghêmađon và lùa miếng nỉ đẫm máu vào trong chai, lão rửa mặt cho anh chàng bằng rượu gin. Người ta lại trông thấy mồm, và Flemghêmađon mở một mi mắt ra. Hai thái dương dường như bị rạn. - Cố hiệp nữa, anh bạn ạ - Kintơ nói và lão tiếp thêm: - Vì vinh dự thành phố đồng bằng. Cánh xứ Galơ và cánh Iêclăng hiểu nhau; tuy nhiên Flemghêmađon không có dấu hiệu gì tỏ ra là đầu óc anh còn tỉnh táo. Flemghêmađon đứng dậy. Kintơ đỡ anh. Đây là hiệp thứ hai mươi lăm. Qua cách thủ thế của anh chàng Xiclôp[200] này - vì anh chỉ còn một mắt - người ta hiểu là đã đến lúc kết thúc và không còn ai nghi ngờ thất bại của anh nữa. Anh lấy thế thủ trên cằm, tư thế vụng về của kẻ sắp chết. Hemghên chỉ hơi lấm tấm mồ hôi, hét to: - Tôi cá cho tôi. Một nghìn ăn một đây. Hemghên, giơ cánh tay lên, đấm một quả, và lạ thay, cả hai cùng ngã vật ra. Có tiếng hồng hộc thích thú. Chính Flemghêmađon đang hả dạ. Anh ta đã lợi dụng quả đấm khủng khiếp của Hemghên giáng xuống sọ anh, để đấm một cú, trái luật, vào giữa rốn hắn. Hemghên nằm thẳng cẳng, rên hừ hừ. Khán giả nhìn Hemghên ở đất và nói: - Trừ nợ. Toàn thể đều vỗ tay, kể cả những người thua. Flemghêmađon đã đánh một cú trái luật trả đũa một cú trái luật và đã hành động đúng quyền của mình. Người ta lấy cáng khiêng Hemghên đi. Dư luận cho rằng hắn sẽ không tỉnh lại. Huân tước Rôbac gào tướng: - Tôi được một vạn hai ghi-nê. Tất nhiên Flemghêmađon quặt quẹo suốt đời. Ra cửa, Giôzian nắm cánh tay của huân tước Đêvit, cử chỉ được tha thứ giữa những người "đã giao ước". Cô ả nói với anh chàng: - Rất hay. Nhưng. - Nhưng sao? - Tôi cứ tưởng đi xem thì hết chán. Thế mà, không. Huân tước Đêvit đứng lại nhìn Giôzian, ngậm mồm, vừa phồng má vừa lắc đầu, thế có nghĩa là: coi chừng! Và nói với nữ công tước: - Chán thì chỉ có mỗi một phương cứu chữa. - Phương gì? - Guynplên. Nữ công tước hỏi: - Guynplên là cái gì? -------------------------------- [190] Nước Anh (Grande Bretagne); gồm có hai đảo chính, một ở phía Tây là Iêclăng (/rlande) và một ở phía Đông Đảo. phía Đông lại chia ra phía Bắc là Êcôx (Écosse) và phía Nam là Ăngglơte (Angleterre). [191] Tiếng Anh trong nguyên bản: "engagss". [192] Gần hai mét. [193] Nguyên văn tiếng Anh. [194] Ga-/ông (Gallen); đơn vị đong lường của Anh và Mỹ dùng để đong ngũ cốc và đổ nước bằng 4,5 lít ở Anh. 3,78 lít ở Mỹ). [195] Livrơ (livre): đơn vị trọng lượng khoảng 0kg500. [196] Tiếng Anh: lần đổ máu đầu tiên (ý nói: phải đánh cho hộc máu đi). [197] Tiếng Anh: Móc mắt nó ra. [198] Gôliat (Goliath): tên khổng lồ của dân tộc Philixtanh bị Đêvit (Đavid) nhỏ bé giết chết. [199] Nguyên văn, chữ đầu câu trên là một thánh từ Pháp; còn lại toàn bằng tiếng Anh: - Hoan hô Hemghên! Tốt, hay lắm! anh miền núi. - Nào Flem. [200] Xiclôp (Cyelope): Thần khổng lồ một mắt.