Dịch giả : Cao Xuân Hạo
Chương 12
Phần II

Nhưng chị ta vừa ra khỏi thì chàng vùng dậy, cài cửa lại, mở cái gói của Razumikhin vừa đem đến lúc nãy anh ta đã buộc lại cẩn thận, và bắt lầu mặc áo quần. Lạ thay, chàng bỗng như đã hoàn toàn bình tĩnh; không còn trạng thật dở mê dở tỉnh như ban nãy, cũng không còn tâm trạng lo sợ hoảng hốt như trong suốt thời gian vừa qua. Đây là giây phút đầu của một trạng thái điềm tĩnh kỳ lạ, đột ngột. Cử động của chàng chính xác và dứt khoát, nhìn qua có thể thấy rõ một chủ định rõ ràng. "Hôm nay, ngay hôm nay!" - Chàng lẩm bẩm một mình. Tuy chàng cũng hiểu là mình còn yếu, nhưng tinh thần chàng căng thẳng đến mức điềm tĩnh hản, với một chủ định bất di bất dịch, đã cho chàng thêm sức mạnh và lòng tự tin; dù sao chàng cũng hy vọng là sẽ không ngã khuỵu ra giữa phố. Mặc xong các thứ áo quần mới mua, chàng đưa mắt nhìn xấp bạc để trên bàn, nghĩ ngợi một lát và cầm đút vào túi. Có cả thấy hai mươi lăm rúp. Chàng lấy luôn cả mấy đồng tiền đông của Razumikhin mua áo quần còn thừa lại. Rồi chàng lặng lẽ nhấc móc cửa lên, ra khỏi phòng, xuống thang gác và hé nhìn vào gian nhà bếp mở toang:
Naxtaxia đứng quay lưng lại phía chàng, đang khom lưng thổi ấm lò cho bà chủ. Chị ta không nghe thấy gì. Vả lại ai có thể dè rằng chàng lại bỏ đi ra ngoài? Một phút sau chàng đã ra phố.
Lúc ấy khoảng tám giờ, mặt trời sắp lặn. Khí trời vẫn ngột ngạt như cũ, nhưng chàng vẫn thèm thuồng hít thở làn không khí hôi hám, bụi bám bị phố phường nung nóng lên. Chàng bắt đầu thấy hơi chóng mặt; một sức mạnh man rợ bỗng ánh lên trong đôi mắt đỏ ngầu và trên gương mặt gầy gò, vàng võ của chàng.
Chàng không biết đi đâu, và cũng không nghĩ đến vấn đề mà chàng chỉ biết có một điều là "phải chấm dứt hẳn cái đó ngay hôm nay một lần cho xong đi, ngay bây giờ: nếu không thì chàng không muốn về nhà nữa, vì chàng không muốn sống như thế nầy". Chấm dứt thế nào? Chấm dứt cái gì? Chàng không hề biết mà cũng không buồn nghĩ. Chàng xua đuổi ý nghĩ ấy đi: nó dày vò chàng khổ sở quá. Chàng chỉ cảm biết rằng cần phải làm sao cho mọi việc đều thay đổi hẳn, bằng cách nầy hay cách khác, "Dù có sao cũng mặc", chàng tuyệt vọng nhắc đi nhắc lại với một lòng tự tin và quả quyết bất di bất dịch, theo thói quen cũ, chàng đi về phía Chợ hàng Rơm theo con đường chãng vẫn đi dạo những lần trước.
Chưa đến Chợ hàng Rơm, trên vỉa hè ở trước mặt một cửa hiệu buôn nhỏ có một người trẻ tuổi, tóc đen đang chơi phong cầm quay một điệu nhạc tình tứ, đệm theo một người con gái trạc mười lăm tuổi đứng hát ở trước mặt hắn. Người con gái ăn mặc như một tiểu thư, váy xoè áo khoác ngang lưng, găng và mũ lật có cắm một cái lông chim màu lửa, tất cả các thứ đó đều đã cũ và sờn. Với giọng hát tầm thường, hơi rè nhưng khá to và nghe cũng êm tai, cô ta hát một bài tình ca trong khi chờ đợi một, đồng hai cô-pếch trong cửa hiệu vứt ra. Raxkonikov dừng lại bên cạnh cùng với hai ba người khác, nghe một lắt, rút trong túi ra một đồng năm cô-pếch đặt vào bàn tay người con gái.
Người con gái dừng phắt ngay lại ở nốt cao nhất và rung cảm nhất của bài ca như thể có ai lấy dao chém đứt ngang, rồi quát bảo người quay đàn: "thôi!", và cả hai khệnh khạng đi sang cửa hiệu khác.
- Ông thích nghe hát rong không? - Raxkonikov bỗng hỏi một người qua đường đã có tuổi đang đứng cạnh chàng, trông có vẻ như một người đi bát phố. Hắn ngơ ngác nhìn chàng tỏ vẻ ngạc nhiên. Raxkonikov nói tiếp nhưng lại có vẻ như tuyệt nhiên không nói đến chuyện hát rong:
- Tôi thích nghe tiếng hát có đệm phong cầm quay trong một buổi chiều mùa thu lạnh lẽo, âm u và ướt át, phải ướt át mới được, khi mọi người qua đường đều có những bộ mặt xanh xao, ốm yếu; hay hơn nữa là khi có tuyết ấm rơi, rơi thẳng xuống vì lặng gió, và ánh đèn hơi chiếu mờ mờ qua làn tuyết.
- Tôi không biết ạ… Ông thứ lỗi cho… - người kia nói lắp bắp, chàng sợ vì câu hỏi cũng như cái vẻ kỳ quặc của Raxkonikov và bỏ đi sang bên kia đường.
Raxkonikov đi thẳng và ra đến Chợ hàng Rơm, chỗ cái góc mà hôm trước hai vợ chồng lão tiểu thương nói chuyện với mụ Lizaveta, nhưng lúc bấy giờ họ không ngồi đấy. Nhận ra chỗ cũ, chàng dừng lại, nhìn quanh quất rồi hỏi một chàng thanh niên mặc áo đỏ đang đứng ngáp ở trước cửa một hiệu bán bột.
- Ở góc nầy vẫn thường có hai vợ chồng ông gì ngồi bán hàng phải không?
- Ai mà chả ngồi đây bán hàng. - chàng thanh niên đáp, mắt khinh khỉnh nhìn Raxkonikov từ đầu đến chân.
_ Ông ta tên là gì?
- Cha mẹ đặt tên gì thì ông ta tên như thế!
- Anh có phải người Zaraisk không, trấn nào? - Chàng thanh niên lại nhìn Raxkonikov.
- Thưa ngài, chỗ chúng tôi không phải là trấn, mà là huyện, chỉ có anh tôi được đi đây đi đó thôi, còn tôi thì ngồi nhà, cho nên không biết ạ… Thưa ngài rộng lòng tha thứ cho.
- Trên gác kia là quán ăn à?
- Tiệm rượu đấy, có cả bàn bi-a, lại có mấy nàng công chúa nữa - Húi!
Raxkonikov đi qua quảng trường. Bên kia, ở một góc phố, có một đám người rất đông, toàn là nông dân cả. Chàng len vào chỗ đông nhất, vừa đi vừa nhìn vào mặt những người đứng quanh. Không hiểu tại sao chàng thấy thèm nói chuyện với bất cứ ai. Nhưng đám nông dân không để ý đến chàng, cứ túm năm tụm ba nói chuyện nhao nhao lên với nhau. Chàng đứng lại ngẫm nghĩ một lát rồi đi sang phải, men theo vỉa hè về phía đại lộ V. Đi quá một khoảng trống, chàng bước vào một ngõ hẻm…
Trước kia chàng cũng hay đi qua ngõ nầy. Đó là một ngõ hẻm ngắn gấp khúc dẫn từ quảng trường đến phố Xadovaya. Gần đây còn có cái gì thu hút chàng lang thang đến những nơi nầy mỗi khi chàng tự dưng thấy tởm lợm, "cho nó tớm lợm thêm". Còn bây giờ thì chàng bước đi, không suy nghĩ gì hết. Ở đây có một ngôi nhà lớn chứa toàn những tiệm ăn, tiệm uống, cứ chốc chốc lại thấy mấy người đàn bà ở trong các tiệm ấy chạy ra, ăn mặc như khi chạy sang nhà bên cạnh: đầu để trần, chỉ mặc áo dài mỏng. Ở vài ba nơi họ xúm lại trên vỉa hè thành từng tốp, nhất là cạnh những bậc thang dẫn xuống các gian nhà hầm, ở đấy cứ bước xuống hai bậc cấp là có thể vào đến những nơi rất vui thú, lúc bấy giờ, trong một nơi như vậy đang có tiếng reo hò đập phá ầm ĩ vang ra khắp phố, tiếng đàn ghi-ta, tiếng hát hò nhộn nhịp vui vẻ. Một tốp đàn bà khá đông chen chúc ở lối vào; mấy người khác ngồi ở bậc thềm hay trên vỉa hè, mấy người nữa đang đứng nói chuyện. Gần đấy, giữa phố có một thằng lính say bước lảo đảo, mồm ngậm thuốc lá, vừa đi vừa chửi rủa; có lẽ hắn đang muốn đi đâu đấy, nhưng dường như đã quên mất là mình muốn đi đâu. Một thằng khố rách áo ôm đang chửi nhau với một thằng khố rách áo ôm khác và một gã say bí tỉ nằm ềnh ra chắn ngang đường.
Raxkonikov dừng lại cạnh tốp đàn bà đông nhất. Họ đang nói chuyện oang oang; cả bọn đều mặc áo vải hoa, đi giầy da dê và để đầu trần. Có người tuổi quá bốn mươi, nhưng cũng có người chỉ độ mười bảy, mắt họ hầu hết đều sưng bầm.
Chàng tự dưng thấy ham thích tiếng hát hò và đập phá ở dưới kia… giữa những tiếng cười, tiếng rú, có thể nghe vẳng lên một giọng hát the thé có đàn ghi-ta đệm theo, và tiếng gót giầy dậm côm cốp của một người nào đang nhây nhót điên cuồng lên theo nhịp hát. Chàng chăm chú lắng nghe, vé lầm lỳ và đăm chiêu, tò mò nghển cổ dòm vào cửa.
Anh của em chóng ngoan,
Chớ đánh em mà oan!
Giọng hát vẫn the thé lên. Raxkonikov háo hức cố nghe cho rõ lời ca - làm như thế đó là điều quan trọng nhất đối với chàng.
"Hay là ta vào? - chàng nghĩ. - Họ đang cười đùa! Vì họ say. Hay là ta cũng uống cho thật say?"
- Ông anh không vào à? - Một người con gái đứng trong đám kia hỏi, giọng nghe khá vang và chưa khan hẳn. Cô ta hãy còn trẻ, và là người duy nhất trong bọn trông không đến nỗi tởm.
- Cô em xinh nhỉ? - chàng vừa đáp vừa ngẩng lên nhìn cô ta.
Cô ta mỉm cười, rất thích chí vì câu tán tỉnh nầy.
- Ông anh cũng xinh lắm, - cô ta nói.
- Gay quá! - một cô khác nói giọng ồ ồ. - Mới ở nhà thương ra à?
- Hình như có cả con gái nhà quan nữa đấy, thế nhưng mũi vẫn hếch như thường! - một người mu-gích vừa mới đến bỗng nói xen vào, hắn say chuếnh choáng, áo chẽn mở phanh, mồm ngoác ra cười ranh mãnh.
- Vui chưa kìa? - hắn nói tiếp.
- Đã đến thì vào đi nào!
- Tôi vào chứ, cô em ạ! - Hắn xồng xộc bước xuống.
Raxkonikov bỏ đi.
- Ông anh! - cô gái gọi với theo chàng.
- Cái gì?
Ả đâm ngượng:
- Ông anh ạ, giá em được gần ông anh một vài giờ thì em sung sướng quá, nhưng bây giờ trước mặt ông anh không hiểu sao em ngượng lắm. Công tử cho em sáu cô-pếch uống rượu đi.
Raxkonikov móc túi hú hoạ lấy ra mấy đồng tiền có được ba đồng năm cô-pếch.
- Ôi, ông anh hào phỏng quá!
- Cô tên gì?
- Ông cứ hỏi Duklida.
- Thật quá quắt lắm, - một cô khác trong bọn bắt đầu nhìn Duklida nói. - Đời thuở ai lại đi xin tiền cái lối ấy bao giờ! Tớ thì tớ chết thẹn mất…
Raxkonikov tò mò nhìn người vừa nói câu ấy. Đó là một người đàn bà trạc ba mươi tuổi, mặt rỗ hoa thâm tím cả lên: môi trên sưng vều. Cô ta chê trách bạn một cách điềm tĩnh và nghiêm trang.
"Không biết mình có đọc ở đâu, - Raxkonikov nghĩ thầm trong khi dời bước, - không biết mình có đọc ở sách nào có đoạn nói một người bị xử tử hình, một giờ trước khi chết, có nói hay nghĩ rằng ví thử có phải sống ở một nơi nào cao ngất, trên một tảng đá hẹp chỉ vừa đặt hai bàn chân, còn xung quanh là vực thẳm, là đại dương, là bóng đêm vô tận, cô đơn vĩnh viễn và bão táp không cùng, và cứ phải đứng co ro như thế suốt đời. Chẳng nghìn năm, mãi mãi, thì thà sống như thế vẫn còn hơn là phải chết bây giờ! Miễn sao được sống, sống và sống! Sống thế nào cũng được, miễn là sống! Đúng quá! Trời ơi, đúng quá đi mất! Con người thật hèn mạt! "Và hèn mạt thay kẻ nào vì thế mà bảo con người hèn mạt" - chàng nghĩ thêm sau một phút.
Chàng rẽ sang một phố khác. A, "Lâu đài pha lê": Hồi nẫy Razumikhin có nói đến "Lâu đài pha lê". Thế nhưng vừa rồi mình muốn cái quái gì nhỉ. À phải, đọc báo! Zoximov nói là hắn có đọc trong mấy tờ báo.
- Có báo không? - chàng hỏi khi bước vào một quán rượu khá rộng rãi và sạch sẽ gồm có mấy gian phòng hơi vắng khách. Vài ba người khách đang uống nước trà, và trong một gian phòng mãi tít ở trong cùng có một tốp khoảng bốn người đang ngồi uống sâm-banh. Raxkonikov thấy hình như trong số đó có Zamiotov, nhưng vì xa quá khó lòng trông rõ mặt.
"Kệ xác hắn!" - chàng nghĩ thầm.
- Ông dùng vodka ạ? - người hầu bàn hỏi.
- Cho trà ra đây. Với lại đem cho ta mấy tờ báo ra trong khoang năm hôm gần đây, ta sẽ cho tiền uống rượu.
- Vâng ạ. Báo hôm nay đây ạ. Ngài dùng thêm vodka chứ ạ?
Báo cũ và trà đã mang lên. Raxkonikov ngồi vào bàn và bắt đầu tìm: "Izler - Izler - Người Aztek - Người Aztk - Izler - Bartola - Masimo - Người Aztek - Izler. À, đồ quý! À tin hàng ngày đây rồi: một người đàn bà ngã cầu thang - một lão lái buôn chết thiêu vì rượu - một đám cháy ở Bãi Cát - một đám cháy ở phố Petersburg - lại một đám cháy ở phố Petersbung nhẽ? À phải, tớ mới kể có phần đầu đấy, về vụ ám sát mụ già chủ hiệu cầm đồ ấy, bây giờ anh thợ sơn cũng bị liên luỵ vào vụ nầy.
- Về vụ ám sát nầy thì tớ biết trước cả cậu và thậm chí còn quan tâm đặc biệt, một phần nào, nhân một dịp… tớ có đọc trên báo! Thế rồi…
- Mụ Lizaveta cũng bị giết rồi! - Naxtaxia bỗng quay về phía Raxkonikov kêu lên. Nãy giờ chị ta vẫn đứng hóng chuyện trong phòng, người dựa vào tường cạnh khung cửa.
- Lizaveta? - Raxkonikov lắp bắp rất khẽ.
- Thế cậu không biết mụ Lizaveta vẫn hay đi lấy hàng ấy à? Mụ vẫn thường đến đây. Ở dưới nhà ấy. Có lần còn vá sơ-mi cho cậu.
Raxkonikov quay mặt vào tường. Trên tấm giấy dán tường vàng có vẽ hoa trắng, chàng chọn lấy một bông hoa nét về vụng về có những vạch gì nâu nâu, và bắt đầu nhìn thật kỹ: hoa có bao nhiêu cánh, mỗi cánh có bao nhiêu răng cưa và bao nhiều vạch nâu? Chàng cảm thấy tay chân tê dại đi, như bị cưa cụt mất, nhưng cũng không buồn cử động, cứ nằm yên nhìn trừng trừng vào bông hoa trắng…
- Thế cái anh thợ sơn kia làm sao? - Zoximov cắt ngang nhưng lời tán gẫu của Naxtaxia với một vẻ khó chịu đặc biệt. Chị ta thở dài và lặng thinh.
- Cũng bị tình nghi là thủ phạm! - Razumikhin hăm hở nói.
- Có bằng chứng gì không?
- Bằng chứng đếch gì! Quả họ đã căn cứ vào một bằng chứng, nhưng nó có phải là bằng chứng hay không thì cũng còn phải chứng minh! Cũng đúng hệt như lúc đầu họ tình nghi và bắt giam hai cái lão… hai cái lão đếch gì ấy nhỉ? À, Koch và Pextriakov. Xì! Làm ăn ngốc thật, ngay đứng ngoài cũng thấy chướng mắt! Có lẽ cái anh chàng Pextryakov hôm nay sẽ ghé lại đằng tôi. À nầy, Rodia, chắc cậu cũng biết vụ nầy, nó xảy ra từ trước khi cậu ốm đấy, đúng vào đêm trước cái hôm cậu ngất đi ở sở cảnh sát khi họ đang nói chuyện về vụ nầy.
Zoximov tò mò nhìn Raxkonikov. Chàng nằm im không nhúc nhích.
Nầy, Razumikhin ạ, tớ trông cậu thật là một tay hiếu sự hết sức - Zoximov nhận xét.
- Cứ cho như thế, nhưng chúng tớ cũng cứ gỡ cho hắn! - Razumikhin đập bàn quát lên. - Xét ra trong vụ nầy có cái gì đáng giận hơn cả? Không phải là chuyện họ nói bậy; nói bậy thì bao giờ cũng có thể tha thứ được; nói bậy cùng có chỗ hay, vì nó dần đến chân lý. Không phải, cái tệ nhất là đã nói bậy mà còn huênh hoang với những lời nói bậy của mình nữa. Tớ kính trọng Porphin, nhưng… Ấy chẳng hạn lúc đầu cái gì làm cho họ lạc hướng? Cánh cửa vốn đóng kín, thế mà khi cùng lên với lão gác cổng thì lại mở: Ấy thế nghĩa là Koch và Pextriakov chính là thủ phạm. Đấy, cái logic của họ là như thế đấy.
- Kìa cậu đừng nói khùng lên thế họ chỉ tạm giữ hai người ấy lại thôi; vì không thế… À, trước tớ vẫn gặp cái lão Koch ấy. Thế lão nầy vẫn mua lại đồ cầm hết hạn chuộc của mụ già đấy à?
- Phải, đúng là một thằng đại bợm! Hắn mua cả tín phiếu nữa. Một thằng làm tiền mà. Nhưng thôi kệ xác hắn! Cậu có hiểu không, tớ bực là bực cái lối làm việc hết sức cổ hủ, đồi bại của họ… thế mà chỉ riêng trong vụ nầy đáng lẽ cùng có thể mở ra cả một con đường mới. Chỉ cần những cứ liệu tâm lý học không thôi cũng đủ có thể vạch rõ cách tìm cho ra dấu vết thật sự… Cứ bảo là "chúng tôi có sự kiện đây mà!". Nhưng sự kiện chưa phải là tất cả: Ít nhất một nửa vấn đề là ở cách xử lý các sự kiện.
- Thế cậu biết cách xử lý các sự kiện à?
- Thì cậu bảo làm thinh thế nào được khi cảm thấy rõ rệt rằng mình có thể giúp ích cho công việc, nếu… Ối giào! Cậu có biết rõ chi tiết vụ nầy không?
- Tớ còn đang chờ nghe cậu nói về anh thợ sơn kia.
- À phải! Đây, đầu đuôi thế nầy: đúng hai ngày sau khi xảy ra vụ án mạng, vào buổi sáng, khi họ đang mải lăng xăng quanh Koch với Pextriakov (tuy hai lão nầy đã thanh minh đến đầu đến đũa từng đường đi nước bước của mình, không còn hồ nghi gì được nữa) thì bỗng xảy ra một sự kiện hết sức bất ngờ. Mộ lão mu-gich nào đó tên là Duskin, chủ một, tiệm rượu ở ngay trước mặt ngôi nhà, đến sở cảnh sát trình một chiếc hộp đựng tư trang trong có đôi hoa tai bằng vàng và kể lại cả một câu chuyện dài: "Cách đấy hai hôm, khoảng hơn tám giờ tối một chút - cậu chú ý ngày giờ nhé có một anh thợ sơn tên là Mikolai, trước dây vẫn thường lui tới nhà tôi, cầm cái hộp đựng đôi hoa tai vàng mặt ngọc đến tìm tôi và hỏi vay hai rúp, và đến khi tôi hỏi; cái nầy lấy ở đâu? - thì hắn ta bảo là nhặt ở vỉa hè, rồi không nói gì thêm nữa - lão Duskin nói thế, - và đem ra cho hắn một tờ, tức một rúp, vì tôi nghĩ bụng là nếu không gán cho mình thì hắn cũng đem gán cho kẻ khác, trước sau hắn cũng nướng vào tiệm rượu hết, dù sao tôi cất vẫn hơn: cất càng kín thì lấy càng nhanh, như câu tục ngữ vẫn nói, nếu có nghe phong thanh đấy là của ăn cắp hay có chuyện gì lôi thôi tôi sẽ lên trình quận". Dĩ nhiên hắn nói láo, vì tớ biết cái lão Duskin nầy lắm, hắn cũng là tay chuyên nhận đồ cầm và oa trữ của ăn cắp; hắn nhận của thằng Mikolai một vật trị giá ba mươi rúp không phải để mang "trình quận". Chẳng qua hắn sợ đấy thôi. Nhưng thôi kệ mẹ hắn, cậu nghe, đây. Lão Duskin nói tiếp: "Còn như Mikolai Dementiev thì tôi biết từ hồi hắn còn nhỏ: hắn với tôi đến ở tỉnh Ryazan, huyện Zaraixk cả, hắn tuy không phải là tay nghiện rượu, nhưng cùng hay đánh chén: và chúng tôi biết hắn làm việc trong ngồi nhà ấy với Mitrey, vốn cùng quê với hắn. Nhận được đồng rúp của tôi, hắn lập tức đem đổi lấy tiền uống liền hai cốc rồi cầm tiền phụ ra vê. Còn Mitrey thì lúc ấy tôi không thấy đi với hắn. Đến hôm sAusterlix, chúng tôi mới nghe tin bà Aliona Ivanovna với bà em Lizaveta Ivanovna bị giết chết bằng rìu. Chúng tôi vốn có biết hai bà ấy nên sinh nghi về đôi hoa tai kia vì chúng tôi vẫn cho rằng mồ ma bà ấy vốn cho vay gán đồ. Tôi mới đến nhà bà ấy và kín đáo tìm hiểu xem sao. Trước tiên tôi hỏi: "Mikolai có đấy không?" Mitrey mới bảo là Mikolai đi chè chén mãi đến tảng sáng mới về, say khướt; về được mươi phút lại đi, sau đó Mitrey không thấy hắn đâu nữa, đành làm nốt công việc một mình, là họ làm việc cùng một cầu thang với người bị giết ở tầng thứ hai. Nghĩ được những chuyện đó, chúng tôi không hé răng với ai - lão Duskin nói - nhưng cần tìm đủ cách để biết cho tường tận vụ nầy, và khi về nhà vẫn giữ mối nghi kỵ ấy. Đến sáng hôm nay, lúc tám giờ "tức là hai ngày sau vụ án mạng", cậu hiểu chưa, tôi thấy Mikolai vào nhà tôi không tỉnh nhưng cũng không say lắm, có thể nghe nói chuyện được. Hắn ngồi ở ghế dài và làm thinh. Lúc bấy giờ ngoài hắn ra trong tiệm rượu chỉ có một ông khách, còn thì có một người nữa người quen, nằm ngủ trên một chiếc ghế dài, vì đây cũng là một khách quen, ngoài ra còn hai thằng bé hầu bàn nhà tôi nữa. Tôi mới hỏi: "Có gặp Mitrey không?" - "Không, hắn bảo thế, không gặp" "Thế anh không đến đấy lần nào à?" - "Hai hôm nay không đến" - hắn nói. "Thế hôm qua anh ngủ ở đâu?" "Ở bãi cát, chỗ bọn Kolomna ấy - "Thế hôm ấy, anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi nhặt trên vỉa hè" - hắn nói câu nầy nghe rất lạ, mắt cứ tránh nhìn tôi. Tôi bảo: "Anh có nghe nói là ngay tối hôm ấy, đúng vào giờ ấy, trên thang gáa ấy có xảy ra chuyện nầy chuyện nọ không" - "Không, tôi không nghe" - hắn bảo thế. Hắn hưóng mắt lên nghe tôi nói, mặt bỗng tái nhợt đi tờ giấy. Tôi mới kể hết chuyện ấy cho hắn nghe", thế là hắn đứng dậy cầm mũ định ra về. Tôi muốn giữ hắn lại: "Khoan đã, Mikolai ạ, uống chén rượu đã chứ?" - tôi nháy người nhà đứng chặn lấy cửa trong khi tôi vòng ra phía sau, nhưng hắn lập tứ vùng chạy ra phố, rẽ ngoặt vào một ngõ hẻm, không thấy tăm hơi đâu nữa. Đến đây tôi không còn phân vân gì nữa, đúng hắn rồi…
- Còn phải nói! - Zoximov chêm vào.
- Khoan! Hẵng nghe cho hết đã, dĩ nhiên là họ đâm bổ đi tìm Mikolai; họ cho bắt giữ Duskin và khám nhà hắn, bắt luôn cả Mitrey; họ cũng lục tung cả nhà bọn ở Kolomna lên. Nhưng đến ngày thứ ba thì giải Mikolai về: hắn bị giữ lại ở gần cửa ô X., trong một quán trọ, hắn đến đấy, cởi cái thánh giá bằng bạc đeo trên cổ ra xin đổi lấy cốc rượu. Người ta mang rượu ra cho hắn. Một lát sau, một mụ đàn bà vào vắt sữa bò, nhìn qua khe cửa thì trong gian nhà kho ở bên cạnh thấy hắn đang tháo dây thắt lưng ra buộc thành thòng lọng treo lên sàn nhà, hắn đứng lên một súc gỗ chui đầu vào cai thòng lọng. Mụ đàn bà hét tướng lên, người ta mới đổ xô lại: "À! ra thế đấy?" - "Các ông cứ dẫn tôi đến quận cảnh sát, khu nọ khu kia, tôi sẽ thú hết". Họ bèn dẫn hắn vé quận cảnh sát khu nầy với đủ các nghi thức thích đáng. Thế là bắt đầu cuộc hỏi cung: anh là ai, ở đâu, mấy tuổi - "hai mươi hai tuổi", vân vân, vân vân, rồi trong khi anh đang làm việc với Mitrey, có thấy ai đi lên thang gác vào giờ nọ giờ kia không?". Đáp: "Chắc có nhiều người đi qua, nhưng chúng tôi không để ý" "Anh có nghe thấy tiếng động gì không?" "Không nghe thấy gì khác thường cả" - "Thế anh có biết rằng ngày hôm ấy, vào giờ ấy, mụ già nọ với em gái mụ bị người ta giết rồi lấy của không?" - "Tôi không hề hay biết gì hết. Cách dây hai ngày tôi mới nghe ông Aphanaxi Pavlich nói chuyện nầy lần đầu trong tiệm rượu" - "Thế anh lấy đôi hoa tai ở đâu?" - "Tôi bắt được trên vỉa hè" - "Tại sao hôm sau anh không đến làm việc với Mitrey?" - "Tại tôi còn đi đánh chén" - "Đánh chén ở đâu?" - "Ở chỗ nọ chỗ kia" - "Tại sao lại vùng chạy ra khỏi nhà Duskin?" - "Vì lúc đó tôi sợ quá" - "Sợ cái gì? - "Sợ bị đem xử" - Sao lại sợ bị xử nếu biết mình không có tội tình gì?" Đấy, cậu có tin hay không thì tuỳ cậu đấy, Zoximov ạ, nhưng quả thật họ có hỏi câu đó, nguyên văn đúng như thế, tớ biết qua một nguồn tin chắc chắn? Thế nào, cậu thấy thế nào, hả?
- Ấy dù sao thì bằng chứng vắn có đấy chứ.
- Nhưng tớ chưa nói đến bằng chứng, tớ đang nói đến cái câu hỏi cũng kia, đến cách họ quan nỉệm nhiệm vụ của họ! Thôi kệ thấy họ! Ấy, họ thúc bách hắn, ép mãi, dồn mãi, thế là hắn thú: "Không phải bắt được trên vỉa hè, mà ở trong gian phòng tôi với Mitrey làm việc" - "Bắt được như thế nào?" - "Như thế nầy: tôi với Mitrey sơn suốt ngày hôm ấy đến tám giờ, đã sắp sửa về, thì Mitrey cầm chổi sơn bôi lấy bôi để vào mặt tôi, rồi bỏ chạy, tôi mới đuổi theo. Tôi vừa đuổi theo hắn vừa hét tưởng lên; chạy xuống đến sân thì đâm sầm vào bác gác cổng và mấy ông lớn nữa, có bao nhiêu ông cả thảy thì tôi không nhớ; bác gác cổng mới chửi tôi một hồi, rồi đến một bác gác cổng nữa cũng chửi, rồi mụ vợ bác gác cổng cũng ra chửi chúng tôi một chầu nữa rồi đến một ông lớn đi với một bà vào sân cũng chửi chúng tôi, vì lúc tôi với Mitka nằm chắn ngang lối đi: tôi đang túm lấy tóc Mitka vật nó xuống đất và đấm thùm thụp vào người nó, còn Mitka đang nằm dưới người tôi cũng túm lấy tôi và đánh vào người tôi thùm thụp, không phải chúng tôi đánh nhau thật vì thù ghét gì nhau đâu, mà chỉ là chỗ bạn bè thân thiết đùa nhau thế thôi. Sau đó Mitka vùng chạy ra phố, tôi mới đuổi theo, nhưng đuổi không kịp đành trở về phòng một mình, vì còn phải dọn dẹp mà về. Tôi bắt đầu thu dọn và đợi Mitka trở lại. Thề rồi ở góc phòng ngoài, sát tường, sau cánh cửa ra vào tôi chợt dẫm phải một gói gì, tôi mới cúi xuống xem thì thấy đó là một cái hộp gói giấy. Tôi tháo giấy ra thì thấy cái hộp cài bằng hai cái móc nho nhỏ, tháo móc ra thì trong hộp thấy có đôi hoa tai…".
- Sau cánh cửa à? Nó nằm sau cánh cửa à? Sau cánh cửa? - Raxkonikóp bỗng kêu lên: đôi mắt ngây dại hoảng hốt nhìn Razumikhin và từ từ chống tay nhổm dậy, trên đi-văng.
- Ừ thì sao? Cậu làm sao thế? Việc gì thế? -
Razumikhin cũng chồm dậy hỏi.
- Không sao cả… - Raxkonikov thều thào đáp rất khẽ, đoạn lại ngả mình xuống gối và lại quay mặt vào tường. Mọi người im lặng một lát.
- Chắc cậu ấy ngủ rồi nói mế đây, - mãi hồi lâu Razumikhin mới nói, mắt nhìn Zoximov có ý dò hỏi;
Zoximov khẽ lắc đầu không đồng ý, rồi nói:
- Nầy cậu kể tiếp đi rồi sao nữa?
- Nói ao nữa ấy à? Trông thấy đôi hoa tai, hắn quên khuấy cả Mitka lẫn gian phòng, vớ lẫy mũ và chạy một mạch đến nhà Duskin, và như ta đã biết, hắn nhận của lão nầy một rúp, nói dối với lão là nhặt được ở vỉa hè rồi lập tức đi đánh chén. Còn về vụ giết người thì hắn vẫn một mực như trước: "Tôi không hay biết gì cả, hôm kia tôi mới nghe nói lần dầu - "Thế sao cho đến nay anh vẫn không đến trình?" - "Vì tôi sợ" - "Thế tại sao lại muốn thắt cố?" - "Vì lo nghĩ." - "Lo nghĩ gì?" - "Nhỡ bị toà xử". Đấy, đầu đuôi câu chuyện là như thế. Bây giờ cậu thứ nghĩ xem họ kết luận như thế nào.
- Thì còn nghĩ gì nữa, dù sao cùng có những dấu hiệu. Chưa chắc chắn lắm, nhưng vẫn là những dấu hiệu. Đó là một sự kiện. Dù sao cũng không thể thả thằng cha thợ sơn của cậu ra được.
- Ồ bây giờ họ đang buộc cho nó cái tội giết người ấy đấy! Thậm chí họ không còn hoài nghi gì nữa hết!
- Nói nhảm, cậu thì chỉ bốc đồng thôi. Thế còn đôi hoa tai? Cậu phải nhận rằng nếu ngay hôm ấy, đúng vào giờ ấy đôi hoa tai ở trong rương mụ già lọt vào tay Mikolai thì cũng phải do một con đường nào chứ, có phải không nào? Điều đó cũng khá quan trọng đối với việc điều tra nầy.
- Rằng con đường nào? Bằng con đường nào à? - Razumikhin quát lên, - cậu là bác sĩ, cậu có nhiệm vụ khảo sát con người trước tiên, và hơn ai hết, cậu có dịp nghiên cứu con người, thế mà chẳng lẽ qua những tài liệu ấy cậu không thấy được bản chất cái thằng Mikolai ấy ra sao à? Chả nhẽ cậu không thấy ngay từ đầu rằng tất cả những điều hắn cũng khai đều là sự thật thuần tuý hay sao? Chuyện hắn bắt được đôi hoa tai đúng như lời hắn nói đấy, hắn dẫm phải cái hộp rồi nhặt lên?
- Sự thật thuần túy! Thế nhưng chính hắn thú nhận rằng lần trước hắn nói dối kia mà?
Cậu nghe tớ nói đây, nghe cho kỹ: cả người gác cổng, cả Koch, cả Pextriakov, cả người gác cổng kia nữa, cả vợ người gác cổng thứ nhất, cả mụ lái buôn đang ngồi chơi ở nhà mụ nầy, cả viên tư vấn pháp đình Kruylov lúc ấy vừa xuống xe khoác tay một bà đi vào sân nữa, - tất cả, nghĩa là đến tám chín nhân chứng, đều nhất trí khai rằng lúc ấy Mikolai đang đè Mitka xuống đất và đâm hắn ta, còn Mitka thì túm lấy tóc hắn và cũng đâm lại, hai đứa nằm ngay giữa lối đi; mọi người xung quqnh đều chửi mắng chúng, còn chúng thì "như hai đứa trẻ nhỏ" (nguyên văn lời khai của các nhân chứng) nằm đè lên nhau, la hét, đánh nhau và cười ha hả, bộ mặt hết sức ngộ nghĩnh, rồi đuổi nhau chạy ta phố như hai thằng con nít. Cậu nghe ra chưa?
Bây giờ cậu ghi nhớ thật kỹ lấy điều nầy: hai cái xác ở trên kia hãy còn nóng, cậu nghĩ ra chưa, hãy còn nóng, đến khi họ vào buồng vẫn thế! Nếu chính hai đứa kia giết, hay chỉ mình thằng Mikolai không thôi cũng thế, giết rồi bẻ khoá rương lấy của, hay chỉ tham gia phần nào vào việc lấy của thôi, thì xin hỏi cậu một câu nầy: một tâm trạng như thế, tức là những tiếng la hét, những tiếng cười, trận đánh nhau như trẻ con ở dưới cổng, có phù hợp chút nào với những thứ rìu búa, máu me, với những hành động thận trọng, xảo quyệt của kẻ giết người cướp của hôm ấy không. Vừa mới giết người xong, chi cách có năm mười phút - vì hai cái xác hày còn nóng - thế mà bỗng dưng bỏ cả xác chết lẫn gian phòng mở toang ra đấy, và biết rằng sẽ có người đi qua, liền nằm lăn ra giữa lối đi như hai đứa con nít, cười đùa ầm ĩ khiến mọi người chú ý, như mười nhân chứng nhất trí xác nhận?
- Kể thì l thật! Dĩ nhiên không thể nào như thế, nhưng…
- Không, cậu ạ, không nhưng gì hết, còn nếu việc đôi hoa tai kia nằm trong tay Mikolai đúng vào giờ ấy, ngày ấy quả nhiên là một bằng chứng để buộc tội hắn - song đó là một việc có thể cắt nghĩa trực tiếp bằng những lời khai của hắn, cho nên chỉ là một bằng chứng có thể bác bỏ được - thì cùng phải xét đến cả những sự kiện thanh minh cho hắn huống chi đấy lại là những sự kiện không thể phủ nhận. Thế còn cậu nghĩ sao, cứ theo tinh thần của pháp lý học của nước ta liệu họ có thừa nhận hoặc có khả năng thừa nhận một sự kiện như vậy - một sự kiện chỉ căn cứ vào tâm lý học, vào một tâm trạng, - làm một sự kiện không thể bác bỏ được và có hiệu lực đánh đổ tất cả các sự kiện buộc tội có tính chất vật chất, dù những sự kiện nầy có thế nào chăng nữa không? Không, họ không thừa nhận đâu, họ không đời nào thừa nhận, vì họ tìm được cái hộp ấy, vì người kia muốn thắt cổ, "một điều không thể có được, nếu hắn thấy mình vô tội!". Đó là vấn đề chủ yếu, tớ bốc đồng lên chính vì vấn đề đó! Cậu hiểu cho!
- Thì tớ cũng thấy là cậu bốc đồng lên đấy. Khoan, tớ quên hỏi cái nầy: lấy chứng cứ gì mà nói rằng cái hộp dựng hoả tai quả nhiên ở trong rương mụ già ra?
- Có đủ bằng chứng đấy, - Razumikhin cau mày đáp như có ý miễn cưỡng, - lão Koch đã nhận ra vật nầy và cho biết cả tên người cầm đồ. Người nầy đã chứng minh được một cách chắc chắn rằng hộp hoa ai kia là của hắn.
- Hỏng, bây giờ còn cái nầy nữa: có ai trông thấy Mikolai trong khi Koch với Pextriakov lên gác không, và liệu điều đó có thể chứng minh được gì không?
- Quả có thế, chẳng ai trông thấy hắn ta - Razumikhin bực tức đáp, - thế mới phiền chứ; ngay cả Koch và Pextriakov cũng không trông thấy hắn khi đi qua căn phòng đang sơn, tuy lời khai của họ bây giờ cũng không có ý nghĩa gì cho lắm nữa. Họ bảo là họ thấy cửa phòng mở, có lẽ có người đang làm việc ở trong ấy, nhưng khi đi qua họ không để ý và không nhớ rõ lúc bấy giờ có người hay không".
- Hừm. Như vậy chỉ có một sự kiện thanh minh cho Mikolai là hai đứa đấm đá nhau và cười ầm ĩ. Ta cứ cho đó là một bằng chứng vững vàng, nhưng… Bây giờ cậu cho mình nói: riêng cậu thì cậu cắt nghĩa việc ấy như thế nào? Cậu cắt nghĩa việc Mikolai bắt được đôi hoa tai ra sao, nếu quả hắn bắt được đúng như lời hắn khai?
- Cắt nghĩa à? Còn phải cắt nghĩa gì nữa: rõ quá đi rồi còn gì? Ít nhất là con đường cần theo để tiến hành điều tra đã rõ và đã được chứng minh, và chính là do cái hộp ấy. Hung thủ thật đã đánh rơi cái hộp ấy. Hắn ở trên phòng mụ già khi Koch và Pextriakov gõ cửa, và chốt cửa ở phía trong. Koch dại dột bỏ xuống dưới nhà; hung thủ nhẩy ra ngoài và cũng chạy xuống vì không có lối nào khác. Trên thang gác hắn suýt gặp Koch, Pextriakov và người gác cổng nên phải lánh vào gian phòng trống ngay khi Mitka và Mikolai vừa chạy đi, đứng nâp sau cánh cửa trong khi bọn Koch đi ngang, đợi cho tiếng bước chân của họ đi xa rồi ung dung đi xuống thang gác đúng vào lúc Mitka và Mikolai đã chạy ra phố, moi người đều đã giải tán và không còn ai đứng ở cổng nữa. Có thể người ta thấy hắn nhưng không để ý, có phải ít người qua lại đâu. Còn cái hộp là hắn đánh rơi từ trong túi ra khi đứng nấp sau cửa, và không biết là mình đánh rơi, vì còn mải chú ý đến chuyện khác. Cái hộp ấy chứng minh một, cách rõ ràng là hắn đứng ngay đấy. Đấy, bí quyết của vụ nầy là ở đấy cả. Tinh xảo lắm, cậu ạ, tinh xảo thật đấy. Tinh xáo quá nữa là khác.
- Nhưng tại sao, tại sao lại "quá"?
- Thì tại vì mọi việc đều được dàn xếp quá ổn thoả, các tình tiết ăn khớp với nhau quá sít sao, như trên sân khấu ấy.
Razumikhin toan cãi, nhưng vừa lúc ấy cánh cửa phòng vụt mở, và một nhân vật mới, lạ mặt đối với cả ba người đang ở trong phòng, bước vào.
 

- Hay là? "Hay là" cái gì? Nào, cái gì? Nói đi xem nào.
- Có gì đâu - Zamiotov bực bội đáp, - chỉ nhảm!
Cả hai lặng thinh. Sau trận cười đột ngột, Raxkonikov bỗng trở nên đăm chiêu và ủ dột. Chàng chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm đầu, hình như chàng đã quên hẳn Zamiotov. Im lặng kéo dài khá lâu.
- Sao anh không uống trà đi? Nguội hết, - Zamiotov nói.
- Hả? Cái gì? Trà ấy à? À phải… - Raxkonikov cầm chén lên uống một ngụm, bỏ vào mồm một miếng bánh. Rồi đưa mắt nhìn Zamiotov chàng bỗng như chợt nhớ ra hết và định thần lại: lập tức gương mặt chàng trở lại với vẻ ngạo nghễ như ban nãy. Chàng tiếp tục uống nước trà:
- Thời buổi nầy những bọn gian phi mọc lên nhan nhản, - Zamiotov nói - Cách đây không lâu trong tờ "Tin tức Moskva" có đăng tin bắt được cả một bọn giả mạo. Chúng nó có cả một hội kín, chúng làm giấy bạc.
- Ờ, đã lâu rồi còn gì! Tôi đọc đã cách đây một tháng, - Raxkonikov điềm tĩnh trả lời - thế theo anh đó là một bọn gian phi? - chàng cười nhạt nói thêm.
- Chứ còn gì nữa!
- Bọn ấy à? Bọn ấy là một lũ nhãi nhép chứ gian phi gì! Hàng năm chục người họp nhau lại để làm một việc như thế! Ai lại làm ăn kiểu ấy bao giờ? Ba người cũng đã là nhiều rồi, mà trong bọn, người nầy cũng phải biết chắc bụng dạ người kia hơn cả chính bản thân mình! Nếu không thì chỉ cần một người uống rượu say nói ba hoa dăm câu là công chuyện vỡ lở hết? Chỉ là một bọn nhãi nhép! Chúng nó dùng những người không tin cẩn đem tiền giả ra đổi ở các kho bạc, việc như thế mà bạ ai cũng giao. Cứ thử cho là cái bọn nhãi kia làm ăn trót lọt, mỗi đứa đổi được một triệu bạc, thế rồi sao nữa? Còn cả đời người kia mà? Suốt đời đứa nầy vẫn lệ thuộc vào đứa kia, cứ lo nơm nớp là một đồng loã sẽ tiết lộ, thế thì thà thắt cổ mà chết! Nhưng đằng nầy đổi tiền chúng cũng không biết đổi kia: ra kho bạc đổi năm nghìn, mà tay run lẩy bẩy. Đếm lại được bốn nghìn, còn một nghìn nữa thì không đếm, chỉ chực bỏ túi đi cho nhanh. Thế là người ta sinh nghi. Mọi việc đều hỏng bét chỉ vì một thằng ngốc? Sao lại có thể như thế được?
- Sao lại có thể run tay ấy à? - Zamiotov đáp, - có thể lắm chứ. Tôi thì tôi tin chắc là có thể lắm. Có khi người ta không tự chủ được.
- Không tự chủ được à?
- Thế còn anh, chắc anh tự chủ được?
- Không, tôi thì chịu? Chỉ vì một trăm bạc tiền thưởng mà đi làm một việc ghê gớm như vậy! Làm bạc giả đi đổi, mà đi đâu kia chứ - đi đến nhà ngân hàng: ở đấy họ còn lạ gì những cái trò ấy nữa, - không, tôi sẽ cuống lên mất. Thế anh thì sao, liệu có cuống không?
Raxkonikov bỗng dưng lại thấy muốn "thè lưỡi" ra quá chừng. Sống lưng chàng gây gấy lên trong khoảng mấy phút.
- Giá phải tay tôi thì tôi không làm như thế - chàng mở đầu xa xôi. Tôi sẽ đi đổi tiền như thế nầy: xấp bạc thứ nhất tôi sẽ đếm đi đếm lại đến bốn lần, hết đếm xuôi lại đếm ngược, xem kỹ từng tờ một, rồi mới đếm sang xấp thứ hai; đếm được nửa xếp thì ngừng lại rút ra một tờ năm mươi rúp giơ ra ánh sáng soi thử, lật ngược lại soi lần nữa - bạc giả chăng? "Ngại lắm" tôi sẽ nói thế - tôi có người bà con vừa mất toi hăm nhăm rúp như thế đấy"; thế rồi tôi sẽ kể chuyện nầy ra. Đến khi đếm sang xấp thứ ba thì: à khoan, xin lỗi, hình như xấp thứ hai tôi đếm chưa kỹ ở chỗ bảy trăm, nghi lắm, thế là bỏ xấp thứ ba đấy, đếm lại xấp thứ hai, - Ấy cứ thế mà đếm cho hết năm xấp năm nghìn.
Xong xuôi đâu đấy, lại rút ở xấp thứ năm và xấp thứ hai ra mỗi xấp một tờ, lại giơ lên coi, lại ngờ ngợ, "ông làm ơn đổi cho tờ nầy" - làm cho lão ngồi quầy phải toát mồ hôi hột ra mới thôi, đến nỗi hắn chi mong sao tôi buông tha hắn ra cho chóng? Rồi đến khi xong xuôi đâu đấy tôi mới đi ra, mở cửa… À quên, xin lỗi, lại quay vào, lại hỏi han nầy nọ cho rõ; tôi thì tôi làm như thế đấy!
- Chà, anh nói những chuyện nghe mà rợn cả người lên - Zamiotov cười. - Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ nếu làm thật thì anh cùng vấp. Anh ạ, theo tôi, không riêng gì anh với tôi mà ngay một kẻ thành thạo và hết sức liều lĩnh cũng không thể tin chắc mười phần ở mình được. Nói đâu xa: cứ lấy ngay vụ giết người ở khu phố ta chẳng hạn. Hình như đây cùng là một tay không vừa, giữa ban ngày ban mặt mà dám liều mạng như thế, cuối cùng chỉ gặp may mà thoát, ấy thế nhưng vẫn run tau không biết cách lấy của, không tự chủ được; cứ xem vụ nầy cũng rõ…
Raxkonikov có vẻ như bị chạm vào tự ái.
- Rõ. Thế bây giờ các anh thử bắt hắn đi xem? - chàng nói to lên, trêu tức Zamiotov với một vẻ hả hê.
- À rồi sẽ bắt thôi!
- Ai bắt? Anh à? Anh mà bắt được à? Cứ thử vào đấy mà xem! Đối với anh cái nầy mới là cái chính: hắn ta có tiêu tiền hay không? Trước thì không có tiền, thế mà nay tiền đâu bỗng dưng đem ra tiêu văng mạng, thế thì còn ai vào đây nữa? Về điểm nầy thì một thằng bé con bằng nầy cũng có thể lừa anh được, nếu có muốn!
- Sự thật làm đứa nào cũng là như thế, - Zamiotov đáp - giết người thì giết một cách rất xảo quyệt, liều cả tính mạng, nhưng rồi lại lập tức đến quán rượu thò cổ vào tròng. Chính là người ta căn cứ vào cách tiêu tiền mà bắt. Không phải ai cũng khôn ngoan như anh cả đâu! Anh thì dĩ nhiên là không vào tiệm rượu chứ?
Raxkonikov cau mày nhìn Zamiotov chòng chọc.
- Hình như anh đã phát thèm lên, muốn biết tôi sẽ hành động ra sao nếu ở vào địa vị ấy? - chàng hỏi, vẻ phật ý
- Muốn chứ, - Zamiotov đáp, giọng nghiêm trang và rắn rỏi. Không hiểu sao bây giờ hắn nói và nhìn một cách quá nghiêm nghị.
- Muốn lắm à?
- Muốn lắm.
- Được! Tôi thì tôi sẽ hành động như thế nầy đây. - Raxkonikov bỗng dừng lại dí sát mặt mình vào mặt Zamiotov, lại nhìn chòng chọc vào mặt hắn và lại nói thì thào, đến nỗi lần nầy hắn phải giật mình.
- Tôi thì tôi sẽ làn như thế nầy đây; tôi sẽ lấy tiền, đồ đạc và vừa ở đấy ra một cái là tôi đi thẳng, không ghé vào đâu hết, đến một nơi thật kín đáo và vắng vẻ, xung quanh chỉ có tường và rào, một vườn rau hay một cái gì như thế tôi đã tìm từ trước: một tảng đá, nặng chừng một pút hay pút rưỡi gì đấy nằm ở góc sân, cạnh hàng rào, nó vẫn nằm đấy từ khi xây nhà: tôi sẽ nhấc tảng đá ấy lên, phía dưới tất phải có một chỗ trũng, tôi sẽ bỏ tiền và đồ đạc vào chỗ trũng ấy. Xong đâu đấy tôi sẽ vần tảng đá lại như cũ, lấy chân dận thêm vào và bỏ đi. Một năm, hai năm, tôi vẫn chưa lấy, ba năm cũng chưa lấy, - các anh cứ thử tìm xeml Mất biến.
- Anh điên rồi, - Zamiotov nói, không hiểu sao giọng cũng thì thào và bỗng né xa Raxkonikov.
Mắt chàng sáng quắc, mặt chàng tái nhợt đi; môi trên chàng run bần bật. Chàng chồm vào thật sát Zamiotov, môi lắp bắp nhưng nói không ra tiếng gì cả; cứ như thế đến nẳa phút, chàng cũng biết mình đang làm gì, nhưng không kìm nổi. Một lời thú nhận khủng khiếp cứ nhảy bần bật trên môi chàng như hôm nào cài móc cửa nhảy bần bật trong khâu sắt, tưởng chừng nó sắp bật ra ngay tức thì; chỉ cần buông nó ra, chỉ cần thốt nó lên.
- Thế nếu chính tôi giết mụ già và Lizaveta thì sao? - chàng bỗng thốt lên… và sực tỉnh.
Zamiotov bàng hoàng nhìn chàng và tái mặt đi. Một nụ cười mếu máo hiện lên trên mặt hắn.
- Làm sao lại có thể như thế được? - Hắn nói rất khẽ. Raxkonikov hằn học nhìn hắn.
- Anh phải nhận là anh tin đi! Hả? Phải không nào?
- Không! Hoàn toàn không, bây giờ tôi lại càng không tin hơn bao giờ hết! - Zamiotov nói vội.
- Bây giờ tôi bắt thóp được anh rồi nhé! Lộ tẩy rồi. Thế nghĩa là trước đây anh có tin, chả là "bây giờ anh càng không tin hơn bao giờ hết" kia mà?
- Ồ, hoàn toàn không phải, thế! - Zamiotov kêu lên, vẻ ngượng nghịu - Nãy giờ anh cứ nát tôi để đưa đến đấy phải không?
- Thế anh không tin à? Thế thì các anh nói những gì sau lưng tôi, khi tôi ra khỏi quận? Và trung uý Thuốc súng hỏi cũng tôi làm gì, sau khi tôi bị ngất? Nầy bé con, - chàng đứng dậy cầm mũ và quát gọi người hầu bàn, hết bao nhiêu?
- Cả thảy ba mươi cô-pếch ạ, - người hầu bàn chạy lại, đáp.
- Đây cho anh thêm hai hào uống rượu. Xem nầy, bao nhiêu là tiền - chàng chìa bàn tay run run cho Zamiotov xem mớ bạc giấy, - đỏ nầy, xanh nầy, hai mươi lăm rúp đấy. Ở đâu ra? Lại áo mới nữa, ở đâu ra thế? Anh thừa biết là một cô-pếch tôi cũng không còn kia mà! Chắc là các anh đã hỏi dò bà chủ nhà rồi chứ gì? Thôi xin đủ! Assez causé! (2) Chào anh… chúc anh gặp nhiều điều thú vị!
Chàng bước ra, người run rảy vì một cảm giác kỳ dị như trong cơn bệnh ưu uất trong đó có pha cả một cảm giác khoái lạc không sao chịu nổi. Nhưng chàng vẫn lầm lì, trong người thì mệt nhừ ra. Mắt, chàng nhăn nhó như sau một cơn động kinh. Cảm giác mệt mỏi tăng lên rất nhanh. Vừa rồi sức lực chàng được kích thích và chỉ cần một sức ấy, một cảm giác khích động duy nhất cũng đủ làml cho nó dâng mạnh lên, và hễ cảm giác nầy yếu đi thì nó cũng lại suy yếu rất nhanh. Zamiotov còn lại một mình ngồi yên rất lâu ở chỗ cũ, suy nghĩ trầm ngâm. Raxkonikov đã đảo lộn hết những ý nghĩ của hắn về một điểm nhất định và đã làm cho quan niệm hắn xác định hẳn.
"Ilya Petrovich là một thằng đần!" - hắn quyết định dứt khoát.
Raxkonikov vừa mở cửa ra phố thì bỗng nhiên, ngay ở trước thềm, chàng vấp phải Razumikhin lúc ấy đang bước vào. Đến cách nhau chỉ còn một bước hai bên vẫn không trông thấy nhau, thành thử suýt cộp đầu vào nhau. Họ đưa mắt dò nhau một lát, Razumikhin kinh ngạc đến cực điểm, nhưng rồi một cơn giận thật sự một cơn giận ghê gớm bỗng lóe lên trong mắt anh.
- Thế ra cậu ở đâu! - anh rống lên. - Bỏ giường đi trốn! Thế mà mình chui cả xuống đi-văng tìm hắn, leo cả lên trần nhà nữa! Thiếu chút nữa tôi đã đánh Naxtaxia vì cậu… Thế mà cậu lại đến đây! Rodia! Như thế nghĩa là thế nào? Nói thật đi! Thú đi! Nghe chưa?
- Như thế nghĩa là các anh đã làm tôi phát ngấy đến chết người đi được, tôi muốn đừng ai bên cạnh tôi hết - Raxkonikov bình thản đáp.
- Đừng ai ở cạnh cậu? Trong khi cậu đi chưa ủng, mặt thì xanh như tàu lá, thở thì không ra hơi nữa? Đồ ngu, cậu làm gì trong "lâu đài pha lê"? Cậu phải thú nhận ngay lập tức!
Thôi buông tôi ra - Raxkonikov nói đoạn toan đi vượt qua. Thấy thế Razumikhin liền tiến lên nắm chặt lấy vai chàng.
- Buông ra? Cậu dám nói "buông ra"? Thế cậu có biết tôi sẽ làm gì bây giờ không, tôi sẽ xốc cậu lên như một gói giẻ, xách cậu về buồng và khoá trái cửa lại.
- Razumikhin ạ, - Raxkonikov nói khẽ và hình như hoàn toàn điềm tĩnh, - chả nhẽ cậu không thấy rằng tôi không cần đến những ân huệ của cậu hay sao? Việc gì lại đi làm ơn làm phúc cho những kẻ… không thèm những thứ ấy? Mà lại là những kẻ rất khổ tâm khi phải chịu đựng những thứ ấy? Khi tôi mới ốm, cậu đi tìm tôi để làm gì? Nhỡ tôi chỉ mong được chết thì sao? Chẳng lẽ thái độ của tôi hôm nay chưa đủ cho cậu thấy rằng cậu làm khổ tôi, rằng tôi đã… phát ngấy lên vì cậu hay sao? Sao lại cứ muốn đến làm khổ người ta như thế. Tôi quả quyết với cậu là những thứ đó làm cho bệnh tình của tôi rất khó thuyên giảm, vì nó cứ làm tôi khích động không ngớt. Hồi nãy Zamiotov chả bỏ đi để tôi khỏi khích động là gì? Cậu nữa, tôi van cậu, cậu cũng đi đi! Và sau nữa, cậu có quyền gì mà dám dùng sức mạnh để giữ tôi lại? Chẳng lẽ cậu lại không thấy rằng tôi đang nói chuyện với cậu một cách hoàn toàn tỉnh táo hay sao? Tôi phải làm gì đấy, tôi biết lấy gì đây, tôi van cậu, cậu hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì để cậu khỏi ám tôi, cho cậu khỏi làm ơn làm phúc cho tôi? Cứ cho tôi là bạc bẽo, tôi hèn hạ cũng được miễn là buông tôi ra, vì Chúa, hãy để cho tôi yên! Đi đi, đi đi!
Khi bắt đầu nói chàng rất bình tĩnh, trong lòng khoan khoái thưởng thức trước những lời lẽ độc địa mà mình sắp nói ra, nhưng đến khi kết thúc thì lại sôi sục lên và thở hổn hển, giống như lúc nầy, khi nói với Lugin.
Razumikhin đứng yên ngẫm nghĩ một lát và buông tay chàng ra.
- Thôi cậu xéo về nhà ma cho rảnh! - Anh nói khẽ vẻ gần như trầm ngâm; nhưng khi Raxkonikov bước đi, anh bỗng gầm lên: - Đứng lại… Cậu nghe đây! Tôi nói cho cậu biết là tất cả bọn cậu, không trừ một đứa nào, đều là những thằng ba hoa, những thằng khoác lác. Hễ có chuyện gì hơi khổ một tí là các cậu cứ bo bo ôm lấy như gà ấp trứng? Ngay cả cái lối ấy nữa, các cậu cũng ăn cắp của các tác giả khác. Không có lấy một dấu hiệu nào tỏ ra các cậu có một cuộc sống độc lập! Thịt các cậu chỉ là mỡ cá voi, máu các cậu chỉ là nước sữa cặn! Hạng các cậu tôi không tin đứa nào hết. Trong trường hợp nào cũng vậy, các cậu chỉ lo sao cho đừng giống một con người! Đứng lạ - ạ - ại! - anh quát lên, giọng giận dữ gấp bột, khi thấy Raxkonikov lại toan bỏ đi, - hãy nghe cho hết đã! Cậu cũng biết là hôm nay bạn bè tôi đến ăn khao nhà mới, có lẽ bây giờ đã đông đủ cả rồi, nhưng tôi để ông chú ở nhà tiếp khách, bảo là chạy tí về ngay. Thế thì giá thử cậu không phải là một thằng ngốc, một thằng ngốc tầm thường, một thằng ngốc thâm căn cố đế, một bản dịch từ tiếng ngoại quốc… Rodia ạ, tôi nhận rằng cậu là một thằng bé thông minh, nhưng vẫn ngốc như thường - đấy giá cậu lại đằng tôi, ngồi chơi với tôi một tối, còn hơn là giầy đi lang thang như thế. Cậu đã ra khỏi nhà rồi thì chẳng còn biết làm sao nữa? Tớ sẽ mượn về mấy chiếc ghế bành thật êm, nhà chủ có đấy… có trà, có bạn… Không thì tớ đặt cậu nằm trên đi-văng, dù sao cùng có bạn có bè với nhau… Cả Zoximov cùng đến. Thế nào, cậu lại chứ?
- Không.
- Bậy quá đi mất! - Razumikhin điên tiết quát lên. - Cậu thì biết gì? Cậu có đủ trí khôn đâu! Cậu chẳng hiểu gì hết… Đã hàng nghìn lần, tớ cũng đã từng nhổ toẹt vào nhân loại như thế, nhưng rồi lại quay trở lại. Thấy xấu hổ… thế là trở về với con người! Thế cậu nhớ nhé, nhà ông Potsinkov, gác ba…
- Cứ thế nầy thì có lẽ ngài để cho người ta đánh ngài chỉ để hướng cái thú làm ơn làm phúc thôi, ngài Razumikhin ạ…
- Đánh ai? Đánh tớ ấy à? Chỉ nho nhoe một chút thôi tớ cũng vặt mũi đi chứ! Nhà Potsinkov, số 47, hỏi phòng ông viên chức Babuskin…
- Tôi không đến đâu, cậu ạ - Raxkonikov lại quay đi.
- Tớ cuộc là cậu sẽ đến! - Razumikhin quát vọng theo. - Nếu không thì cậu… - Nếu không tới không thèm nhìn mặt cậu nữa đâu! Nầy, thư hẵng, có Zamiotov trong ấy không
- Có
- Cậu có gặp à?
- Có gặp.
- Cậu có nói chuyện à?
- Có nói chuyện.
- Chuyện gì thế? Thôi được, xéo đi, không nói thì thôi. Nhà Potsinkov, số 47 Babuskin, nhớ nhé
Raxkonikov đi đến phố Xadovaya và rẽ vào góc phố. Razumikhin tư lự nhìn theo. Cuối cùng anh khoát tay một cái, bước vào nhà, nhưng rồi bỗng dưng lại ở nữa chừng thang gác.
"Mẹ kiếp - anh nghĩ tiếp, gần như nói to lên, - hắn nói cùng mạch lạc, nhưng lại có vẻ như… Mà mình cũng ngốc nốt. Người điên cũng có thể nói năng mạch lạc chứ! Mà hình như Zoximov sợ nhất cái ấy đấy! - Anh gõ ngón tay vào trán. - Nhỡ ra… sao bây giờ mà lại để cho hắn đi một mình? Có thể là hắn nhảy xuống sông… Chà, mình làm ăn hỏng bét? Không thể được?
Và anh cắm cổ chạy ngược trở lại đuôi theo Raxkonikov: nhưng không còn thấy tăm hơi đâu nữa.
Anh nhổ toẹt một bãi nước bọt và bước mau vào "Lâu đài pha lê" tìm gặp Zamiotov để hỏi cho ra lẽ.
Raxkonikov đi thẳng đến cầu X.; ra đến khoảng giữa cầu chàng đứng lại tựa hai khuỷu tay vào lan can và nhìn ra phía xa. Sau khi chia tay với Razumikhin, chàng thấy mệt mỏi đến nỗi chật vật lắm mới lê được đến đây. Chàng cứ muốn kiếm nơi nào ngồi xuống, hay nằm dài ra giữa đường. Nghiêng mình trên giòng nước, chàng thẫn thờ nhìn ánh phản chiếu cuối cùng màu hồng nhạt của mặt trời sắp tắt, nhìn dãy nha tôi xẫm trong bóng hoàng hôn mỗi lúc một dày đặc thêm, một khung cửa sổ nhỏ ở một gác xép xa xa bên tả ngạn, kính đỏ rực lên như bốc cháy vì tia nắng cuối cùng rọi vào trong chốc lát, nhìn con kênh tối xẫm và dường như chăm chú nhìn xuống giòng nước. Cuối cùng trong mắt chàng thấy hiện lên những vòng đỏ quay tít, các toà nhà chuyển mình, bờ kênh, người qua đường, xe cộ đều quay cuồng nhảy nhót thành vòng. Có lẽ chàng đã ngất đi: nếu bấy giờ không có một cảnh tượng kỳ dị, gớm guốc bỗng khiến chàng giật mình.
Chàng cảm thấy có ai đang đứng cạnh chàng, ngay bên phải; chàng liếc nhìn sang thì thấy một người đàn bà cao, đầu trùm khăn, khuôn mặt hơi dài, gầy xọp, nước da vàng võ, đôi mắt đó sâu hoắn. Người ấy, nhìn thắng vào chàng nhưng hẳn là chẳng trông thấy gì, không phân biệt được ai hết. Người ấy bỗng chống tay phải vào thành cầu, giơ chân phải lên và lần lượt đu cả hai chân sang bên kia lan can nhảy xuống kênh. Giòng nước bẩn tung tóe lên và nuốt chửng mồi trong giáy lát, nhưng mộ phút sau người tự vẫn nổi lên rồi từ từ trôi xuôi theo giòng nước, đầu và chân chìm xuống, lưng nổi lềnh bềnh, chiếc váy phồng lên như cái áo gối.
- Có người tự tử! Có người tự tử? - hàng chục tiếng thét vang lên; họ nhốn nháo chạy lại, hai bên bờ lố nhố những người tò mò, trên cầu, quanh Raxkonikov đã có một đám đông xúm lại, xô nhau chồm cả vào lưng chàng.
- Trời ơi, cô Aphroxinyuska ở nhà tôi mà - gần đâu đây có một giọng đàn bà lu loa - Các ông các bác ơi, cứu cô ấy với! Trăm lạy các ông, các ông vớt cô ấy với!
- Thuyền đâu! Thuyền đâu! - trong đám đông có tiếng quát.
Nhưng không cần đến thuyền làm gì nữa: một người cảnh binh chạy xuống bến, cởi áo khoác, cởi giầy ra và lao xuống nước. Anh ta không phải khó nhọc gì lắm: giòng nước đưa người trẫm mình trôi qua cách bến có hai bước, anh ta đưa tay phải ra túm lấy áo nạn nhân, tay trái đã kịp nắm lấy một cây sào do một người bạn giơ ra cho anh, và lập tức người trẫm mình được kéo lên. Họ đặt cô ta nằm lên mấy phiến đá hoa cương lát bến. Chẳng mấy chốc cô ta mở mắt, ngồi dậy, bắt đầu hắt hơi và xỉ mũi, hai tay cứ xoa xoa chiếc áo ướt sũng một cách ngớ ngẩn. Cô ta lặng thinh không nói gì hết.
- Cô ấy say bí tỉ, các ông ạ, say bí tỉ, - người đàn bà lúc nãy, bây giờ đứng bên cạnh Aphroxinyuska, kể lể - lần trước đã toan thắt cố chết, may người ta cởi dây kịp. Vừa rồi tôi ra cửa hiệu, để con bé ở nhà trông cô ấy thế là có chuyện? Cô ta ở bên cạnh nhà tôi, ông ạ buôn bán nhì nhằng, đây ngôi nhà thứ hai ở cuối phố, kia kìa…
Đám đông tản dần, mấy người cảnh sát vẫn còn loay hoay quanh người tự tử, có ai nói gì léo nhéo về sở cảnh sát… Raxkonikov nhìn cảnh ấy với một cảm giác bình thản và dửng dưng kỳ lạ. Chàng bỗng thấy tơm tởm, "Không, kém lắm, nước… không xong, - chàng lẩm bẩm một mình. - Sẽ không có gì xảy ra hết. - chàng nói thêm, - có gì đâu mà đợi? Còn quận cảnh sát? Tại sao Zamiotov lại không ở quận cảnh sát nhỉ? Mở cửa đến chín giờ cơ mà… Chàng quay lưng ra phía thành cầu và đưa mắt nhìn quanh.
"Thì đi nào! Sao lại không?" - Chàng lẩm bẩm và quả quyết đi về phía sở cảnh sát. Lòng chàng trống trải và tối tăm. Chàng không muốn nghĩ. Ngay tâm trạng ưu tư cũng đã qua, không còn lấy một dấu vết nào của sức quyết tâm lúc nầy khi chàng ra đi "để chấm dứt hẳn tình trạng nầy"! Nó đã nhường chỗ cho một trạng thái mụ mẫm hoàn toàn.
"Đó cũng là một lối thoát! - Chàng nghĩ trong khi uể oải đi chầm chậm trên bờ kênh. - Dù sao ta cũng sẽ chấm dứt, vì ta muốn thế… Nhưng đó có phải là lối thoát không? Thì cũng thế thôi? Cũng vẫn là mấy tấc đất… hê! Nhưng kết liễu như thế thì thật thảm hại? Kết liễu rồi ư? Nói cho họ biết, hay thôi? Chà… quỷ quái! Mình mệt quá rồi - Sao cho chóng đến chỗ nào mà nằm xuống một cái. Xấu hổ hơn cả là những chuyện nầy hết sức ngây ngô. Thôi kệ mẹ nó. Xì, sao lại có thể nghĩ đến những chuyện ngây ngô như thế…".
Muốn đến quận cảnh sát phải đi thẳng mãi qua hai ngã tư rỗi rẽ sang trái: từ đấy chỉ còn mấy bước nữa là đến. Nhưng vừa đi đến ngã tư thứ nhất, chàng dừng lại, ngẫm nghĩ một lát, ngoặt vào ngõ và đi vòng qua hai phố nữa, có lẽ cũng chẳng có mục đích gì, hoặc giả có thể là để trì hoãn thêm một vài phút. Chàng bước đi, mắt nhìn xuống đất. Bỗng dường như có ai ghé sát tai chàng thì thầm một câu gì. Chàng ngầng đầu lên và thấy mình đang đứng trước "ngôi nhà ấy" ngay trước cổng. Từ buổi tối "hôm ấy" chàng chưa lần nào đi qua đây.
Một ý muốn không sao cưỡng được, không sao hiểu nổi, cứ thôi thúc chàng. Chàng đi qua cổng, rẽ ngoặt vào cánh cửa đầu tiên ở bên phải và bắt đầu bước lên cái cầu thang quen thuộc, lên tầng thứ tư. Trên cái thang gác chật hẹp và dốc đứng lúc bẩy giờ tối om. Lên đến mỗi trạm bằng chàng lại dừng chân tò mò nhìn quanh. Ở trạm bằng tầng thứ nhất, khưng kính ở cửa sổ đã tháo hẳn ra. "Hôm ấy vẫn còn" - chàng thầm nghĩ. Và đây là gian phòng gác hai, nơi Mikolai và Mitka làm việc hôm ấy: "Đóng kín; cánh cửa mới sơn lại; thế nghĩa là phòng nầy cho thuê". Và đây, tầng thứ ba, tầng thứ tư. Đây rồi!" Chàng bỗng đớ người ra: cửa vào phòng ấy mở toang, trong phòng đang có người, nghe có tiếng nói chuyện vẳng ra; chàng thật không ngờ.
Lưỡng lự một lát, chàng bước nốt mấy bậc thang cuối cùng và đi vào phòng.
Gian phòng cũng đang được tu sửa lại; trong phòng có mấy người thợ đang làm việc; chàng có vẻ rất lấy làm lạ về điều nầy. Không hiểu sao chàng cứ hình dung là mọi vật sẽ y nguyên như cũ, thậm chí có lẽ hai cái xác cũng vẫn nằm nguyên giữa sàn nhà: thế mà bây giờ mấy bức tường đều trơ trụi, đồ dạc bàn ghế không có lấy một cái nào; lạ thật! Chàng đến ngồi bên bậu cửa sổ.
Có cả thảy hai người thợ đang làm, còn trẻ cả, nhưng tuổi chênh lệch nhau khá nhiều. Họ đang dán giấy mới lên tường, những tấm giấy dán tường màu trắng có điểm hoa màu tím nhạt, thay cho lớp giấy cũ màu vàng trước kia đã sởn rách. Không hiểu sao Raxkonikov thấy thế rất khó chịu, chàng nhìn lớp giấy mới một cách đầy ác cảm, như thế lấy làm tiếc rằng mọi vật đã thay đổi đi như vậy.
Hai người thợ hẳn là đã làm muộn giờ, và đang hấp tấp cuốn giấy lại sửa soạn ra về. Họ đang mải nói chuyện. hầu như không chú ý đến Raxkonikov. Chàng khoanh tay trước ngực và ngồi nghe.
- Sáng hôm ấy, con bé mới đến nhà tớ, - người lớn tuổi hơn nói với bạn, - đến thật sớm, ăn mặc rất diện. Tớ mới bảo: "Nầy sao đằng ấy cứ làm dáng với tôi làm gì thế, muốn trêu thèm thằng nầy đây hẳn?" Con bé nói: "Anh Tit Vaxilievich ạ, từ nay em muốn hoàn toàn tuỳ ý anh, muốn làm gì em cũng được" thế đấy! Mà diện phải biết nhé: trôxng như các cô ở trong báo thời trang ấy, thật y như trong báo!
- Thế báo thời trang là cái gì hở ông bác? - người trẻ tuổi hơn hỏi. Chắc hẳn xưa nay hắn ta vẫn học khôn ở "ông bác" nầy.
- Báo thời trang là thế nầy chú nó ạ. Nó là những tập tô màu, cứ mỗi thứ bảy lại thấy gứl về cho các hiệu thợ may ở đây, ở nước ngoài gửi về, để cho biết người như thế nào thì phải ăn mặc ra sao, đàn ông cho chí đàn bà. Tranh vẽ ấy mà. Đàn ông thì phần nhiều mặc áo đuôitôm, còn như cái mục đàn bà thì lắm thứ áo trông mê đến nỗi cậu có bán hết cả nhà cậu đi cùng chưa ăn thua!
- Ơ, ở cái xứ Piter (3) nầy chẳng thiếu thứ gì nhẩy! - người thợ ít tuổi hăm hở reo lên - ngoài bố mẹ ra thì cái gì cũng có.
- Ờ, ngoài thứ ấy ra thì cái gì cũng có chú mày ạ, - người thợ lớn tuổi kết luận, giọng ra điều dạy bảo.
Raxkonikov đứng đậy đi sang phòng bên, nơi trước kia đặt cái giường, cái rương và cái tủ ngăn; gian buồng không có bàn ghế trông nhỏ hẹp 1ạ lùng. Giấy dán tường chưa thay, trong góc còn hằn rõ chiếc trang thờ dựng tượng thánh. Chàng nhìn quanh một lát rồi trở ra ngồi ở bậu cửa sổ. Người thợ lớn tuổi gườm gườm nhìn chàng.
- Ông hỏi gì ạ? - hắn đột ngột hỏi chàng.
Raxkonikov không đáp, lẳng lặng đứng dậy đi ra cửa cầm lấy dây chuông kéo. Vẫn cái chuông ấy, vẫn cái tiếng sắt tây ấy? Chàng kéo lần nữa, rồi lần thứ ba, lắng tai nghe và hồi tưởng lại. Cái cảm giác ghê rợn, quái gở hôm nào bắt đầu sống lại, mỗi lúc một rõ nét thêm, sinh động thêm, và cứ mỗi tiếng chuông vang lên chàng lại rùng mình, và càng nghe chàng lại càng thấy khoái trá.
- Ông kia có việc gì thế? Ông là ai? - người thợ ra theo, quát hỏi. Raxkonikov trở vào.
- Tôi muốn thuê phòng, - chàng nói - đến xem thử.
- Đang đêm ai lại đi thuê phòng; mà đáng lẽ ông phải đi với bác gác cổng chứ!
- Sàn rửa sạch sẽ rồi; sẽ sơn lại chứ? - Raxkonikov nói tiếp. Không có máu à?
- Máu nào?
- Máu của mụ già vừa bị giết với mụ em gái ấy mà, hôm trước ở đây nó chảy lênh láng thành cả một vũng.
- Nhưng ông là ai mới được chứ? - Người thợ đâm 1o, hỏi gắt.
- Tôi ấy à?
- Ừ.
- Anh muốn biết phải không? Ta đến quận, tôi sẽ nói.
Hai người thợ bỡ ngỡ nhìn chàng.
- Muộn rồi, chúng tôi phải về đây. Đi đi, Alioska. Phải khoá cửa, - người thợ lớn tuổi nói.
- Nào thì đi! - Raxkonikov thản nhiên đáp và đi ra trước, thong thả bước xuống cầu thang.
- Ê, gác cổng - chàng quát gọi khi xuống đến sân, lúc bấy giờ ngay ở lối vào có mấy người đang đứng nhìn khách qua đường: cả hai người gác cổng, một mụ đàn bà, một người lái buôn và vài người nữa.
Raxkonikov đi thẳng về phía họ.
- Ông muốn hỏi gì? - một trong hai người gác cổng hỏi.
- Anh có đến quận cảnh sát? (4)
- Vừa mới đến xong. Ông muốn gì?
- Họ vẫn làm việc chứ?
- Vâng.
- Ông phó quận trưởng có ở đấy không?
- Lúc nãy thì có. Ông muốn hỏi gì?
Raxkonikov không đáp, đứng yên cạnh người gác cổng ngẫm nghĩ một lát.
- Ông ấy đến xem phòng, - người thợ lớn tuổi lại gần nói.
- Phòng nào?
- Phòng chúng tôi đang làm ấy mà. Ông ấy bảo "tại sao lại chùi máu đi? Ở đây có xảy ra ra một vụ giết người, tôi mưốn thuê phòng nầy". Rồi ông ta kéo chuông, đến suýt đứt cả dây đấy. Ông ấy lại bao là "ta đến sở cảnh sát, tôi sẽ nói hết". Ông ta cứ bám lấy chúng tôi.
Người gác cổng băn khoăn cau mày nhìn Raxkonikov từ đầu đến chán.
- Nhưng anh là ai? - hắn hỏi gắt, giọng dữ tợn.
- Tôi là Rodion Romanovich Raxkonikov, cựu sinh viên, tôi ở nhà Sil, trong ngõ kia, gần đây thôi, phòng số mười bốn. Cứ hỏi bác gác cổng, bác ấy biết tôi đấy. - Raxkonikov đáp, giọng uể oải và trầm ngâm, không ngoảnh lại, cứ nhìn đăm đăm ra dãy phố tối om.
- Anh lên phòng ấy làm gì?
- Đến xem.
- Xem cái gì ở đấy?
- Cứ bắt lên quận xem sao! - người lái buôn bỗng nói chen vào, rồi im bặt.
Raxkonikov liếc mắt qua vai, chăm chú nhìn hắn một lát rồi nói, giọng vẫn khẽ và uể oải.
- Đi đi!
- Dẫn hắn ta đi! - người lái buôn được thể nói thêm. - Sao hắn lại đến chỗ ấy, chắc có ý gì đây, hả?
- Say thì không say, mà ăn nói thật lạ lùng, - người thợ lẩm bẩm.
- Anh muốn gì nào. - người gác cổng lại quát; bây giờ hắn đã bắt đầu nổi giận hẳn hoi. - Sao anh cứ dây dưa mãi thế?
- Không dám lên quan à? Sợ chắc? - Raxkonikov nói, giọng ngạo nghễ.
- Sợ cái gì. Anh lôi thôi cái gì?
- Chắc là một tay làm tiền! - Mụ đàn bà nói.
- Thôi nói chuyện với hắn làm gì, - người gác cổng kia nói; đó là một người mu-gích to lớn mặc áo phanh ngực, thắt lưng đeo một chùm chìa khoá!
- Đi đi! Rõ ràng là hạng làm tiền. Xéo đi!
Đoạn nắm lấy Raxkonikov, hắn xô chàng ra đường. Chàng loạng choạng đâm chúi ra ngoài nhưng không ngã. Đứng thẳng người lại, chàng lặng lẽ đưa mắt nhìn qua mọi người một lượt và bỏ đi.
- Người đâu mà kỳ quặc, - người thợ nói.
- Thời buổi bây giờ thật lắm người kỳ quặc, - mụ đàn bà nói.
- Giá cứ dẫn hắn lên quận, - người lái buôn nói thêm.
- Không việc gì phải dây vào, - người gác cổng thứ hai phân giải - Đúng là một thằng làm tiền. Xưa nay vẫn thế, hắn cứ dẫn xác đến nhưng mình mà dây vào thì rồi gỡ không ra đấy… Biết thừa đi!
"Thế ta có đi hay không?" - Raxkonikov thầm nghĩ. Chàng dừng lại ở giữa một ngà tư và đưa mắt nhìn quanh như thể chờ ai quyết định hộ. Nhưng xung quanh không có lấy một tiếng trả lời, mọi vật đều tối om và im lìm như những phiến đá mà chàng đang dẫm lên: mọi vật đều đã chết đối với chàng, đối với mỗi mình chàng…
Bỗng ở phía xa, cách chàng chừng hai trăm bước, cuối dãy phố, trong bóng tối dày đặc, chàng thấy có một đám đông người đang nói xôn xao, kêu la ơi ới. Giữa đám đông có một chiếc xe ngựa đỗ… Một ngọn đèn chập chờn ở giữa phó "Cái gì thế?"
Raxkonikov quay sang phải đi về phía đám đông.
Dường như chàng muốn bấu viu lấy bất cứ cái gì; chàng mỉm cười lạnh lùng khi nghĩ như vậy, bởi vì chàng đã nhất quyết đến sở cảnh sát và biết chắc rằng chỉ lát nữa, tất cả đều sẽ chấm dứt.
 
Chú thích:
(1) Thời ấy ở Nga, trường trung học chỉ có 8 lớp
(2) Tán gẫu thế đủ rồi! (tiếng Pháp)
(3) Tên gọi thân mật Petersburg
(4) Những người gác cổng các toà nhà lớn ở Petersburg có bổn phận phải hàng ngày đến đồn sảnh sát trình báo về những việc xảy ra trong ngày hôm ấy.
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : Mohanoi-Nguyễn Học.
Nguồn: Nhà xuất bản PHỤ NỮ, 2000 (tái bản 2006) - Mohanoi
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 2 tháng 2 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--
Truyện Cùng Tác Giả Anh em nhà Caramazov Bút Ký Dưới Hầm Đêm Trắng TỘI ÁC VÀ SỰ TRỪNG PHẠT