Thật ra thì căn gác trọ của Minh không phải chỉ mới có ba người đàn bà đến thăm như ông Sửu vừa kể. Bà Truyền, mẹ của Minh, cô Nhi, em họ của Minh và hôm nay là Duyên, đều ghé đây vào ban ngày nên ông Sửu mới nhìn thấy. Ông không muốn thấy, ông cũng vẫn thấy, bởi sạp hàng của ông đối diện với căn gác của Minh, chỉ cách một con đường hẹp ngang. Những người khác từng đến với Minh nhiều lần, nhưng ông Sửu không biết vì họ đến ban đêm lúc ông đã dẹp quầy mũ về nghỉ. Các đồng chí của Thành Bộ như nhóm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, hoặc từ Tổng Bộ như Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, từng ăn ngủ hội họp, thảo truyền đơn trên căn gác nhà Minh vài lần mà tất nhiên Minh không kể cho ông Sửu nghe. Ông Sửu rót nước trong phích ra hai cái cốc thủy tinh vàng đục và hỏi: - Cô ấy chắc là người nhà của thầy? Minh hơi bực mình vì có cảm tưởng như ông Sửu đi quá đà, lúc nào cũng tò mò tìm hiểu về những người gặp gỡ của Minh. Nhưng anh lại tự giải thích ngay giùm ông Sửu: Người ta có quí mình thì người ta mới lo lắng cho mình! Anh gật đầu: - Vâng! Cô ấy là vai em họ, mới dưới Hải Ninh lên. Thầy mẹ tôi bảo cô ấy lại đến gặp tôi, nhắn tí việc! Người lạ thì tôi đâu dám cho biết chỗ ở của mình! Thời buổi này, biết tin ai! Ông Sửu nghiêm giọng đáp: - Thầy ạ! Tôi là kẻ văn dốt vũ dát, lại bị trời bắt tội, hỏng mất một chân, chả làm được gì cho đại sự nữa. Hèn mọn như tôi mà được thầy chiếu cố cho ngồi nói chuyện ngang hàng với thầy là tôi cảm kích lắm rồi … Minh vội vàng gạt đi: - Không dám, sao ông lại nói thế! - Chả phải tôi khách sao đâu! Tôi nói là để thầy hiểu rằng lúc nào tôi cũng qúi trọng những người như thầy. Và càng quí thầy thì tôi lại càng lo, chỉ sợ chuyện chẳng lành xẩy đến cho thầy. Tôi muốn đền đáp cái ơn tri ngộ mà thầy dành cho tôi, nên lúc nào tôi cũng nhắc nhở thầy, mong thầy đừng giận. Tôi nghiệm ra rằng: Chín mươi phần trăm bắt bớ Quốc Dân Đảng xẩy ra gần hai năm nay, đều là do nội phản cả, chứ chả phải do mật thám có tài điều tra! Thầy nghĩ lại mà xem! Minh chớp mắt thở dài: - Vâng! Quả có thế! Ông muốn tôi tránh giao tiếp với người lạ chứ gì? Ông Sửu nhấn mạnh: - Ngay cả với người quen thầy ạ. Người quen cũng phải đề phòng! Minh cười: - Vậy là tôi phải đề phòng ngay cả ông nữa! Vì ông là người quen! Nói câu nửa đùa nửa thật ấy, Minh chợt nhớ đến lời của Lê Hửu Cảnh. Theo Cảnh thì rõ ràng Quốc Dân Đảng đang bị vỡ vì nội phản, nhưng cũng có thể thêm bàn tay Đông Dương Cộng Sản Đảng nhúng vào. Cảnh chỉ không biết việc tố giác hoạt động của Quốc Dân Đảng với thực dân Pháp là chủ trương của Tổng bộ đảng Cộng Sản hay chỉ là hành vi riêng lẻ của một số cá nhân đảng viên. Vài lần Cảnh từng nói đến điều này với Nguyễn Thái Học, nhưng lần nào cũng bị đảng trưởng gạt phăng đi vì cho rằng Cảnh nghi oan những người đồng chí hướng. Mới đây, gần đến ngày tổng khởi nghĩa, Cảnh càng bồn chồn nóng ruột, chạy đi tìm cô Giang trên Yên Bái để bày tỏ nỗi lo ngại ấy thì xem chừng cô có vẻ xiêu lòng, đồng ý với Cảnh. Cô ưu tư bảo Cảnh: - Anh Học thì thẳng thắn lắm. Anh ấy cứ lấy lòng quân tử mà đo bụng kẻ tiểu nhân. Nếu em không trưng được bằng cớ gì cụ thể thì khó mà làm cho anh Học tin. Cảnh chì chiết: - Chờ có bằng chứng cụ thể thì mình bị bắt hết rồi còn đâu! Ngẫm nghĩ một chút, cô Giang nhìn Cảnh tội nghiệp nhắc lại: - Anh đừng nói gì cả. Anh cứ để cho em. Các anh ở Tổng Bộ đang nghi là người cầm đầu phe chủ hòa. Huống chi anh cũng biết anh ghét Cộng Sản cho nên anh có nói ra, người ta cũng sẽ bảo anh vì thành kiến mà vu oan cho đảng Cộng Sản! Cảnh khổ sở gật đầu. Anh không muốn nói nhưng cứ phải nói. Không thuyết phục được các đồng chí ở Tổng Bộ thì anh tâm sự với những người thân tín như Minh để dặn dò họ phải đề phòng. Riêng ông Sửu ngồi một chỗ thì những tin tức ông thu lượm được chỉ cho ông thấy một đìều đau lòng là Quốc Dân Đảng đang bị nội phản quá nhiều. Ông chưa bao giờ nghĩ đến việc Đông Dương Cộng Sản Đảng cũng là thủ phạm góp phần bán đứng Quốc Dân Đảng cho giặc. Minh vỗ vai ông và nói: - Dù sao tôi cũng cảm ơn ông. Ông dặn thì tôi phải nghe, vì ông trãi đời hơn tôi rất nhiều! Dứt lời, Minh uống cạn tách trà và đứng dậy cáo từ, băng qua đường … Hôm sau, Duyên dậy sớm hơn thường lệ. Cả đêm cô chập chờn thao thức nhớ đến Minh. Đời Minh, đó là lần đầu tiên cô có dịp gặp riêng một người con trai mà cô ấp ủ tình cảm từ lâu. Gặp riêng trong căn phòng vắng, tuy chưa nắm bàn tay nhau, thậm chí chưa nói được một câu tình tứ nào, nhưng Duyên đã thấy xao xuyến như mở ra một chân trời yêu đương rực rỡ làm cô trăn trở không ngủ được. Không ngủ được vì bên cạnh niềm vui bất ngờ là gặp được Minh. Duyên lại thấy xót xa vì nhìn rõ hoàn cảnh éo le bế tắc. Cho dù Minh có thiện cảm đậm đà với Duyên đi chăng nữa rồi cũng chẳng đi đến đâu bởi Duyên đang mang nặng lời thề hiến thân cho đoàn thể, không cách nào bỏ cuộc được! Nằm lăn qua lăn lại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, có lúc Duyên tự trách mình quá mềm yếu. Cô từng là Bí thư chi bộ, giảng bài động viên các đồng chí, thế mà giờ đây lại chùn bước thoái lui chỉ vì một chuyện tình vớ vẩn! Duyên thấy cần phải phấn đấu, quên phứt Minh để quay về với nhiệm vụ. Nhưng nghĩ là một chuyện. Trái tiiết đến. Báo chí An Nam hoặc lờ đi, hoặc chỉ tường thuật một cột tin nho nhỏ gọi là “hội kín nổi loạn tại một vài tỉnh Bắc Kỳ”! Tuyệt vọng hơn cả là bản tin Nguyễn Thái Học bị bắt, coi như ngọn lửa hy vọng bị phụt tắt hòan toàn. Ông Sửu phân vân hai ba lần hỏi Minh: - Tin ấy có đúng không thầy? Hay là sở mật thám bịa ra để làm mất tinh thần đảng viên và đồng bào? Minh biết những người kỳ vọng ở Nguyễn Thái Học đều nghĩ như thế, giống như cô Giang. Nhưng Cảnh đã xác nhận. Sự thật chứ không phải tin đồn. Minh gật đầu đáp nhỏ: - Bị bắt thật rồi! Minh đang định kể lại diễn tiến câu chuyện ở ấp Cổ Vịt mà Cảnh đã cho Minh biết, ông Sửu chợt ngắt lời: - Có ai tìm thầy kia kìa! Thấy có người con gái thập thò trước cảnh cổng nhỏ dẫn lên gác nhà mình, Minh đứng dậy trố mắt trông sang rồi từ từ bước qua. Nhìn cái dáng phụ nữ thon nhỏ, Minh cứ tưởng là cái Nhi con bà dì, hoặc người thân nào ở dưới quê lên, ghé thăm anh. Đến gần giáp mặt, anh vẫn không nhận ra cô Giang, bởi anh chỉ gặp có một lần khi theo Cảnh dự hội nghị Đức Hiệp hồi tháng 5 năm ngoái. Huống chi những ngày kề cận khởi nghĩa, cô ăn ngủ thất thường, bao nhiêu mối lo âu làm thân hình cô gầy rạc hẳn đi và nét mặt tiều tụy không cách nào che giấu được. Cô Giang gật đầu khẽ nói: - Anh Minh phải không? Tôi cần gặp anh Cảnh! Bấy giờ Minh mới nhớ ra, giật mình kêu lên nho nhỏ: - Ồ! Chị Giang! Bất ngờ quá! Vâng. Anh Cảnh đang ở trên gác. Mời chị lên! Rồi Minh lật đật mở cánh cổng đưa cô Giang vào. Anh dáo dác nhìn hai bên đường trước khi khép cánh cổng, cùng cô Giang lên cầu thang. Trong nhà, Cảnh đang nằm ngửa, phanh ngực áo, mắt mở trừng trừng nhìn lên nóc nhà. Tương lai của đảng như một bức màn đen dày đặc căng ra trước mắt. Đảng viên như một bầy gà con bị diều hâu tấn công, tan tác mỗi người một nơi. Mất Nguyễn Thái Học là mất hẳn một điểm tựa lớn, làm lung lay bao nhiêu niềm tin của bao nhiêu đồng chí. Xứ Nhu thì đã chết, Phó Đức Chính cũng bị bắt. Tất cả những cột trụ của đảng đều gãy đổ. Cảnh có cảm tưởng mình đang ngồi trên một con thuyền nhỏ, bơ vơ giữa dòng sông mêng mông mà con thuyền không có người lái! Nghe tiếng cửa mở, Cảnh ngồi bật lên, ngoái đầu lại. Nhìn thấy cô Giang, Cảnh xúc động quá, nước mắt tự dưng trào ra. Minh khép cửa cài then, dè dặt tiến vào kéo ghế mời. Cô Giang đặt cái giỏ xuống chân rồi nhìn Cảnh nghẹn ngào lên tiếng: - Có tin anh Học bị bắt. Chả biết đúng hay sai? Cảnh ngồi trên mép giường, khẽ gật đầu. Anh nói nhỏ: - Cả Sư Trạch và Nguyễn Như Liên nữa! Cô Giang ngồi bệt xuống sàn nhà, úp mặt vào hai đầu gối và khóc nấc lên từng cơn. Khăn vấn xổ tung ra. Mái tóc dài chảy xuống, rũ rượi như người có đại tang. Các đồng chí trên Bắc Giang đã kể hết đầu đuôi việc Nguyễn Thái Học bị bắt, nhưng cô vẫn còn nuôi chút hy vọng. Bây giờ thì chút hy vọng hão huyền ấy đã hoàn toàn mất hẳn khi Lê Hửu Cảnh xác nhận. Minh đứng lóng ngóng chẳng biết làm gì, đành tới ngồi bên Cảnh. Tất cả những diễn tiến bất lợi cho đảng từ hôm khởi nghĩa đến nay, Cảnh đều đã kể hết cho Minh nghe, kể cả tin đảng trưởng bị bắt mà Cảnh mới biết đây hai hôm. Cảnh đứng dậy, kéo ghế lại gần cô Giang và nói: - Bốn ngày họp với anh Học bên Gia Bình, tôi đã hết lời van xin anh ấy ra nước ngoài. Bên Vân Nam cũng cử người về đón. Nhưng anh Học dứt khoát không đi! Thôi thì anh ấy đã chọn con đường ở lại để nằm gai nếm mật cùng với anh em. Thấy đồng chí gặp hoạn nạn, anh ấy không nỡ bỏ. Tôi giận anh ấy bướng bỉnh, nhưng cũng phục anh ấy dũng cảm! Cô Giang không nói gì, cứ tiếp tục nức nở. Minh vừa mũi lòng vừa lo sợ vì lúc đó tiếng khóc của cô hơi lớn, sợ hàng xóm nghe thấy và đặt nghi vấn, bởi nhà Minh xưa nay vốn không có đàn bà! Minh đưa mắt nhìn Cảnh mấy lần như nhắc nhở. Nhưng Cảnh cũng không dám lên tiếng bảo cô đừng khóc! Thôi thì đành cứ để cho cô xóa bớt nỗi sầu bằng những giòng nước mắt. Nhìn cái tay nải của cô Giang trên sàn nhà, sát bức vách, Cảnh sực nhớ ra một điều quan trọng, vội nhoài người cúi xuống, mở ra và thọc bàn tay vào lục lọi. Một nải chuối đang ăn dở dang. Mẩu bánh Tây. Bộ quần áo nâu. Chiếc áo bông mùa đông. Cái khăn lau mặt bằng vải thô. Mấy miếng cau khô và lọ dầu. Hành trang đường trường của một thiếu nữ tuổi mới đôi mươi chỉ vỏn vẹn có thế. Dĩ nhiên Cảnh không quan tâm đến những thứ ấy. Rong ruổi trên đường cách mạng thì như thế là thường. Có hôm chính Cảnh cũng đi tay không chỉ có mỗi bộ đồ đang mặc trên người. Gặp chỗ vắng, lội ùm xuống ao hay mương rạch, tắm một cái cho đỡ nóng rồi leo lên, lại mặc bộ đồ cũ vào người. Gian khổ đã quen bởi ai cũng phải chấp nhận. Cảnh thọc tay sâu xuống đáy, và quả nhiên đúng như anh dự đoán, anh moi được khẩu súng đã nạp đạn của cô Giang. Cảnh vội lấy ra đem giấu đi trong khi cô Giang vẫn gục mặt khóc. Cảnh nhớ lại hôm ở đền Hùng, cô Giang đã xin Nguyễn Thái Học một khẩu súng để chết theo Nguyễn Thái Học khi cần. Minh ngơ ngác theo dõi, thấy Cảnh nhét khẩu súng lục vào lưng quần, phủ vạt áo sơ mi che ngoài. Minh hết nhìn Cảnh rồi lại nhìn cô Giang. Cảnh tiến lại, quì xuống bên cạnh cô Giang và bảo: - Anh Học bị bắt là một thiệt hại lớn cho đảng. Không phải chỉ riêng cô đau buồn, mà tất cả mọi người đều đau buồn. Tôi cũng mất ăn mất ngủ từ hôm hay tin. Nhưng chúng ta phải làm gì cho anh Học, cho đảng chứ không phải ngồi đây mà khóc! Khóc không cứu được anh Học, không cứu được đảng! Im lặng một chút, cô Giang nâng gấu váy lau nước mắt, vấn lại khăn rồi quay sang hỏi Cảnh: - Anh định làm gì bây giờ? Cảnh mừng rỡ đáp: - Làm gì thì cũng phải triệu tập đại hội đảng. Nhân sự còn lại bấy nhiêu, mình gom lại bấy nhiêu, cùng vạch kế hoạch cho những ngày sắp đến. Đồng chí Minh đây sẽ giúp chúng ta một tay! Chắc cô cũng còn nhớ Minh có theo tôi sang Đức Hiệp tháng 5 năm ngoái. Đồng chí Minh dạo trước sinh hoạt trong tổ đảng của đồng chí Viên ở Thành Bộ. Cô Giang gật đầu: - Tôi nhớ! Anh Học cũng có nhắc đến anh, gọi là “Minh nhà báo”. Minh đứng dậy bảo cô Giang: - Chị ngồi lên ghế cho đỡ mỏi chân! … Anh Cảnh nói đúng đấy chị ạ! Phải tìm cách đối phó ngay với tình thế mới! Cô Giang đã lấy lại phần nào điềm tỉnh. Cô nói: - Anh Cảnh. Anh ấn định ngày họp đi, rồi tìm cách liên lạc với các đồng chí trong nhóm “cải tổ” của anh. Gặp nhau càng sớm càng tốt. Cảnh hăng hái gật đầu: - Tôi cũng đang định như thế. Việc liên lạc thì phải nhờ anh Minh giúp hộ một tay, vì anh Minh chưa bị địch nghi ngờ, có giấy chứng nhận nhà báo, đi lại dễ dàng. Minh nhìn Cảnh gật đầu: - Vâng, anh để đấy cho em! Cô Giang đột ngột đổi đề tài, hỏi Cảnh: - Anh vừa bảo Nguyễn Như Liên cũng bị bắt rồi ư? Cảnh gật đầu: - Bị bắt rồi! Cô Giang ngậm ngùi cúi xuống. Cô còn nhớ nguyên hình ảnh anh sinh viên 20 tuổi, bí danh Ngọc Tỉnh, từ Phú Thọ cùng với 300 đảng viên dân sự lên tham gia trận Yên Bái. Tuy chưa có kinh nghiệm chiến trường, nhưng Ngọc Tỉnh hò hét xung phong và lăn sả vào quân Pháp, coi cái chết nhẹ như bông. Cảnh lại nói: - Đồng chí Nho, em ruột của anh Học, nghe đồn cũng bị bắt! Nghe Cảnh nhắc đến em ruột của Nguyễn Thái Học đang bị giam trong Hỏa Lò, cô Giang lại liên tưởng ngay đến chị ruột của mình là Nguyễn Thị Bắc, chi bộ trưởng chi bộ phụ nữ, cũng đang bị kìm kẹp trong sở mật thám. Cô ngẫng lên quắc mắt bảo Cảnh: - Mối thù này lớn lắm! Phải trả, không cách này thì cách khác! Cảnh hài lòng: - Đúng! Mình bắt tay vào việc ngay! Thế là ngay hôm ấy, Cảnh giao cho Minh công tác liên lạc mời họp. Nhóm của Cảnh gồm những nhân vật chính là Nguyễn Xuân Huân, Lê Tiến Sự, Nguyễn Đôn Lâm, Phạm Văn Hể và Nghiêm Toản cùng một số đồng chí khác ở cấp thành bộ và tỉnh bộ. Cảnh muốn tìm Ký Con Đặng Trần Nghiệp, nhưng anh đã trốn khỏi Hà Nội từ sau đêm khởi nghĩa. Mật thám dán hình Ký Con khắp nơi, kèm theo 5.000 đồng tiền thưởng. Vì vậy Ký Con và toán ám sát không dám lưu lại thủ đô. Ngồi trong phòng họp, Cảnh bùi ngùi nhớ lại bao nhiêu khuôn mặt tri kỷ buổi ban đầu, nay chẳng còn ai. Do lời đề nghị của cô Giang, đại hội bầu Lê Hửu Cảnh lên nắm quyền đảng trưởng thay thế Nguyễn Thái Học. Nguyễn Xuân Huân làm phụ tá. Cô Giang làm cố vấn và Minh “nhà báo” làm thư ký. Cảnh bị đẩy lên làm đảng trưởng trong tình thế hết sức tuyệt vọng vì các chi bộ khắp nơi trên toàn lãnh thổ Bắc Kỳ, chả biết đơn vị nào còn, đơn vị nào mất. Mà dù có còn hoạt động đi chăng nữa thì việc liên lạc cũng gần như bị tê liệt hoàn toàn, mỗi nơi phải tự sinh hoạt theo từng hoàn cảnh riêng của mình, không có tiếng nói thống nhất từ tổng bộ. Sau tổng khởi nghĩa, sự mất mát quá lớn lao về nhân sự cộng thêm cái tin Nguỵễn Thái Học bị bắt, Nguyễn Khắc Nhu tự tử chết, làm đảng viên khắp nơi bị giao động tinh thần, mất hết niềm tin vào khả năng chiến thắng của đảng. Cảnh không thể nào khôi phục lại được. Nhiều đồng chí đang trốn tránh, đêm ngày chỉ tìm cách lẻn sang Trung Hoa, không muốn ở lại chiến đấu nữa. Mật thám Pháp thì phấn khởi tinh thần, coi Quốc Dân Đảng chỉ là một đám tàn quân, tung vài mẻ lưới nữa là xong! Giữa tình thế khốn đốn ấy, để gây lại uy tín cho đảng, cô Giang tức tốc họp với tổng bộ và đưa ra vài kế hoạch cụ thể. Lúc này, sau những cơn vật vã thảm sầu, cô đã bình tỉnh trở lại và thấy cần phải tạo niềm tin trong quần chúng và nhất là hàng ngũ đảng viên. Cảnh và cô cũng đã gián tiếp liên lạc được với Nguyễn Thái Học trong tù và cam kết với đảng trưởng là anh em bên ngoài vẫn hoạt động như thường. Cô nói: - Việc đầu tiên tổng bộ phải làm là thi hành bản án tử hình đội Dương! Tên phản bội này đã làm hỏng hoàn toàn kế hoạch tổng khởi nghĩa của ta, giết hại bao nhiêu người của cách mạng! Mọi người nhao nhao đồng ý ngay. Thật ra thì sau khi Phạm Thành Dương công khai trở mặt, rút súng bắn Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính ở nhà Lý Cả, tòa án cách mạng đã tuyên án tử hình cả hai cha con đội Dương. Ngày 22 tháng 12 năm 1929, Nguyễn Xuân Huân cùng Nguyễn Văn Nho định thanh tóan cả hai cha con là Phạm Huy Du và Phạm Thành Dương tại nhà đội Dương, số 34 Ngõ Hồng Phúc sau phố Hàng Đậu. Nhưng hôm ấy chỉ có giáo Du đi dạy về, có xe kéo riêng đưa đến tận nhà để nghỉ trưa. Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, lúc ấy mới 17 tuổi, dáng người thấp bé, trắng trẻo hiền lành, bước đến thưa chuyện rất lễ phép, gọi giáo Du bằng thầy, trao cho giáo Du tờ giấy có ghi bản án rồi bắn hai phát súng xuyên tim và đùi. Giáo Du té xuống chết tại chỗ. Người phu xe sợ quá bỏ chạy một mạch về nhà ở bãi Phú Xá! Vụ xử giáo Du ở thanh thiên bạch nhật tại con phố đông người qua, làm chấn động Hà Thành, nhất là khi có bản án đeo ở cổ. Mật thám quả quyết Ký Con là thủ phạm, bởi lúc ấy cái tên Ký Con nổi như cồn vì hành tung xuất quỉ nhập thần vô cùng gan dạ. Ít ai bịết người bắn giáo Du lại là một cậu học sinh mặt non choẹt, có sự hỗ trợ của tay thiện xạ Nguyễn Xuân Huân đứng đằng sau. Vũ Đình Phú, người giới thiệu Dương với Nguyễn Thái Học, cũng trở mặt theo Tây, nên cũng bị xử tử chết như giáo Du. Phạm Thành Dương tội nặng hơn cha, nhưng từ ngày lộ tông tích, Dương sợ quá xin chuyển ngành, sang làm việc cho sở mật thám và ẩn mình luôn trong đó, tránh ra ngoài. Thành ra cái án tử hình của Dương mà Nguyễn Khắc Nhu thay mặt đảng tuyên bố, giờ này vẫn chưa thi hành được. Nghe cô Giang đề nghị, Nguyễn Xuân Huân nói: - Tôi chưa giết được thằng giặc ấy thì tôi vẫn còn nợ các đồng chí đã bị nó hại. Tôi xin lĩnh công tác này, đích thân tôi sẽ xử tử nó! Cô Giang lại nói: - Giết đội Dương chỉ là việc nội bộ. Muốn tạo lại uy tín lớn cho đảng, phải tổ chức ám sát toàn quyền Pasquier và thằng tay sai Vi Văn Định. Đánh lớn không được thì bây giờ ta đánh lẻ! Cảnh phân vân nói: - Giết được Pasquier thì nhất rồi! Nhưng hơi khó, vì ít có cơ hội lại gần nó. Vi Văn Định cũng thế! Cô Giang dứt khoát: - Phải nghiên cứu, phải tìm cách móc nối với người nào thân cận Pasquier rồi chờ dịp ra tay! Một đồng chí tênTô Phúc Dịch phát biểu: - Pasquier thì tôi không có cách nào đến gần. Nhưng Tổng Đốc Thái Bình Vi Văn Định thì tôi xin nhận. Tôi biết đường đi nước bước của nó! Mấy tháng nay, nó càn quét lực lượng của ta đến tận gốc rễ. Tội ấy không tha được! Xin tổng bộ cứ thảo bản án, giao cho tôi. Giết xong, tôi sẽ buộc vào cổ nó! Cảnh mừng rỡ kết luận: - Pasquier thì tổng bộ sẽ nghiên cứu sau. Trước mắt, đồng chí Huân phụ trách xử tử đội Dương. Đồng chí Dịch xử tử Vi Văn Định. Thi hành càng sớm càng tốt, nhưng phải hết sức cẩn thận, đừng để đảng bị thiệt hại thêm người nào nữa! Hội nghị giải tán, chỉ còn lại cô Giang, Cảnh và Minh. Ba người trở lại căn gác nhà Minh, ngồi ăn khoai lang luộc uống nước vối. Cảnh bảo Minh: - Chốc nữa cậu thảo hộ tôi bản án kết tội toàn quyền Pasquier và tổng đốc Vi Văn Định! Minh chưa kịp đáp thì cô Giang nói: - Bản án Vi Văn Định thì nhờ anh Minh. Còn toàn quyền Pasquier thì anh để cho tôi. Tôi sẽ đọc, nhờ anh Cảnh viết hộ, cả tiếng Tây lẫn tiếng ta! Minh nhìn rõ cái hào khí cách mạng bừng bừng trong lòng cô Giang qua một thời gian ngắn làm việc chung, khiến Minh cảm thấy xấu hổ. Anh được tiếng là khí phách, là ngang tàng từ thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Thế mà nay lại thua kém cả một phụ nữ! Nghĩ thế, Minh lên tiếng hỏi: - Chị Giang, lúc này tình hình khó khăn, vai trò của Chi Bộ Phụ Nữ rất quan trọng … Cô Giang ngắt lời: - Chi Bộ Phụ Nữ thật ra mới chỉ có một chị Bắc bị địch bắt ở Yên Bái. Tất cả những chị em khác đều còn nguyên, nhưng tạm thời phân tán mỗi người mỗi nơi! Cảnh nói: - Tôi đang định nhờ chị làm cách nào bắt liên lạc với chi bộ Phụ Nữ. Minh nói đúng. Phải nhờ các chị ấy liên lạc với các Tỉnh Đảng bộ, xem mỗi nơi còn mất thể nào! Rồi từ đó Tổng Bộ mới định kế hoạch cho những ngày sắp tới! Cô Giang quả quyết: - Tôi sẽ làm việc ấy. Nguy hiểm lắm, nhưng tôi sẽ làm. Minh Nói: - Mấy tỉnh như Bắc Ninh, Bắc Giang, Yên Bái thì tạm thời chị nên lánh mặt vì chắc chắn chúng nó đang rình để bắt chị! Cô Giang suy nghĩ một chút rồi bất ngờ hỏi Cảnh: - Anh Cảnh! Có thể nào mình phá ngục Hỏa Lò để giải thoát cho anh Học và các đồng chí trong ấy không? Cảnh đang cắn củ khoai, giật mình khựng lại nhìn cô Giang vì không ngờ cô có ý tưởng táo bạo như vậy! Minh lại càng ngạc nhiên hơn vì thấy cô Giang quá … lảng mạng! Nội việc đề nghị ám sát tòan quyền Pasquier đã là không tưởng rồi vì từ sau vụ Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Melin, những vị toàn quyền kế tiếp cũng như viên chức cao cấp của chính quyền bảo hộ, đi đâu cũng cắt đặt người bảo vệ cẩn mật, không cho người lạ đến gần. Thanh tóan Pasquier đã là chuyện đội đá vá trời, huống chi đòi tấn công ngục thất Hỏa Lò! Cảnh cũng cùng một ý như Minh, nhưng không muốn gạt phắt ước muốn của cô Giang. Ông ra chiều đăm chiêu nói: - Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy. Cứu được anh Học là cứu được đảng. Chính bởi vậy từ trước đến nay tôi vẫn cứ đề nghị anh Học nên sang Tàu, bởi anh Học còn thì linh hồn của đảng vẫn còn …. Giả như lực lượng của ta còn mạnh như trước ngày tổng khởi nghĩa, thì tôi có ngại gì mà không tập trung đánh phá Hỏa Lò một trận để cứu hàng nghìn tù nhân chính trị ở trong đó ra. Mình chỉ cần đánh vào, bên trong sẽ nổi loạn, giết cai ngục và phá nhà tù giống như ngục Bastille ở Paris trong cuộc cách mạng 1789! Nhưng cô nghĩ xem, bây giờ người không còn, hoặc còn mà không liên lạc được. Bom đạn lại cũng không còn. Thằng đội Dương đã dẫn Tây đi tịch thu hết sạch của chúng ta. Lấy gì để tấn công! Cô Giang nghe Cảnh phân trần, buồn bã thở dài. Cảnh lại thêm: - Không biết cô đã vào thăm ai trong Hỏa Lò chưa? Nếu đã vào thì chắc cô cũng biết cách sắp đặt bên trong và sự canh phòng của Tây kỹ lưỡng như thế nào! Minh chen vào: - Vâng. Em đã bị nhốt mấy tháng ở trong ấy. Em biết. Mặt tiền dọc trên đường Rue de la prison chỉ có một cánh cổng sắt duy nhất, nếu tấn công thì phải tấn công vào đấy. Bên trong có đến ba lớp cổng sắt. Qua một mảnh sân lại thêm 2 lớp cổng sắt nữa, rồi mới đến khu nhà giam … Cảnh ngắt lời: - Các mặt khác cũng thế. Muốn đánh thì phải dùng rất nhiều tạc đạn, bộc phá, chất nổ lọai mạnh và bom hạng nặng để phá tường. Tất cả những thứ ấy, giờ này ta không còn Minh hiểu ý Cảnh, phụ họa theo: - Hôm nọ chị có nói: Lúc này không đánh được trận lớn nữa mà chỉ đánh lẻ được thôi. Tôi thấy tạm thời mình phải chịu vậy thôi chị ạ! Cô Giang buồn rầu không nói gì nữa. Ngày 8 tháng 3, Ngô Hải Hoằng, Nguyễn Thanh Thuyết và hai đồng chí nông dân gốc Phú Thọ tham dự trận Yên Bái, bị lên máy chém ở Yên Bái. Cô Giang nhớ lại hình ảnh dũng cảm của cai Hoằng mà lòng quặn thắt xót xa. Trước giờ xuất quân trong rừng sơn, cai Hoằng rút phắt thanh gươm chém ngang cây sơn và ra nghiêm lệnh: - Đã đến giờ xung phong giết giặc. Ai mà bàn ngang thì sẽ như cây sơn này! Tôi tình nguyện giết quan ba Jourdain. Nếu không giết được nó, tôi sẽ nộp đầu tôi thay thế! Quả nhiên cai Hoằng đã giữ đúng lời hứa, xông pha lửa đạn chỉ biết tiến chứ không biết lùi. Khi bị bắt ra trước tòa, chánh án Hội Đồng Đề Hình Poulet Osier – thanh tra chính trị mới bổ nhiệm đặc trách xử án vụ Quốc Dân Đảng – bảo cai Hoằng: - Mày thật là kẻ vô ơn! Quan ba Jourdain là quan thầy của mày, đối xử hết sức tử tế với mày mà mày nở giết ông ấy đầu tiên khi nổi loạn! Cai Hoằng hiên ngang đáp: - Đại úy Jourdain quả thật rất tốt đối với tôi. Nhưng đó là tình riêng. Tôi giết ông ta vì bổn phận của tôi đối với đảng. Tình riêng không thể lớn hơn nghĩa công được! Osier lại hỏi: - Đảng của mày là đảng nào? Ngô Hải Hoằng nhấn mạnh: - Đảng của tôi là Việt Nam Quốc Dân Đảng! Osier hỏi câu ấy vì dư luận Pháp lúc đó cứ bị ám ảnh bởi thế lực cộng sản do Liên Xô điều động. Bên mẫu quốc chưa chú ý nhiều đến Quốc Dân Đảng bởi Quốc Dân Đảng phát triển nhanh quá, chưa có thời gian để quần chúng chú ý. Thậm chí sau đêm tổng khởi nghĩa, một số báo chí Paris đã chạy tin bừa bãi rằng: Có khoảng 60 đảng viên cộng sản cùng một số binh sĩ nổi loạn! Đến ngay như Ký Con mà mật thám cũng nghi là Cộng Sản! Vì không muốn giam tù nhân Quốc Dân đảng lâu trong ngục, sợ có biến, nên mọi thủ tục pháp lý tiến hành rất nhanh. Ngày 10 tháng 2, đánh Yên Bái. Ngày 27 tháng 2, xử án. Và ngày 8 tháng 3, đưa lên đoạn đầu đài! Sau cái tin 4 đồng chí đầu tiên bị lên máy chém, cô Giang nghĩ ngay đến Nguyễn Thái Học và các đồng chí khác chắc chắn cũng sẽ như vậy. Cho nên cô bàn với Cảnh: - Anh Cảnh! Có thể nào mình tập trung lực lượng, đánh vào pháp trường Yên Bái để giải cứu các đồng chí của mình không? Cảnh vốn là người gan dạ nhưng không liều lĩnh. Anh nhìn cô Giang tội nghiệp, giải thích: - Thứ nhất, mình không còn lực lượng vũ trang. Nói đúng ra là còn, nhưng không liên lạc được. Thứ nhì, ngày đưa các đồng chí của mình lên máy chém, tất nhiên Tây sẽ canh phòng rất nghiêm ngặt. Thứ ba, quan trọng hơn cả, là mình không biết trước được ngày nào chúng sẽ thi hành bản án. Mà không bíêt trước được ngày giờ thì làm sao ước hẹn được các đồng chí của mình tập trung về đấy! Ấy là chưa kể, chắc gì mai kia chúng nó sẽ xứ tử các đồng chí của mình ở Yên Bái. Bất ngờ, chúng nó có thể đưa máy chém đi nơi khác cũng chưa biết chừng! Cô Giang cũng biết trước câu trả lời của Cảnh sẽ như vậy. Nhưng cô vẫn muốn liều mạng một trận để cứu Nguyễn Thái Học vào phút chót. Ở Hỏa Lò, ngày 3 tháng 2, thân mẫu Nguyễn Thái Học, khuê danh Nguyễn Thị Quỳnh, từ làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên được Tây cho vào thăm con. Nguyễn Thái Học quì lại và nói: - Con đành cam tội bất hiếu với mẹ, vì trung hiếu không thể vẹn hai đường! Xin mẹ tha tội cho con! Tổng Đốc Hà Đông Hòang Trọng Phủ cũng vào nhìn mặt Nguyễn Thái Học vì Quốc Dân Đảng đã xử tử cháu ông ta. Phu tò mò hỏi Nguyễn Thái Học: - Lúc thầy bị bắt, thầy có súng trong tay sao không bắn trả? Nguyễn Thái Học đáp: - Mấy người tuần phu bắt tôi chỉ là thuộc hạ tay sai, tôi không nỡ giết. Tôi chỉ muốn giết Tây và bọn tham ô quan lại mà thôi! Hoàng Trọng Phu ngượng ngùng bỏ ra. Pháp kiều ở Hà Nội bấy giờ rất hiếu kỳ vì uy danh Nguyễn Thái Học cũng như Quốc Dân Đảng từng làm cho họ mất ăn mất ngủ 2 năm qua. Nay nghe tin hùm thiêng sa lưới, họ rủ nhau kéo vào xem dung mạo Nguyễn Thái Học như thế nào. Có đến khoảng 100 phụ nữ đòi gặp Nguyễn Thái Học. Giám đốc sở mật thám Bắc Kỳ là Amox chiều ý họ, đích thân dẫn họ vào Hỏa Lò. Các bà các cô đầm đều gọi là “general Nguyen Thai Hoc”. Nhưng Amox xua tay bảo các bà: - Không nên gọi Học là tướng. Vì Học chỉ là một tướng … cướp mà thôi! Nguyễn Thái Học mắng Amox bằng tiếng Pháp: - Ông nên lễ độ một chút! Tôi làm người cách mạng cứu nước tôi! Amox muốn thị oai trước mặt phụ nữ, nên giơ thẳng ba-toong vụt mạnh ngang vào mặt Nguyễn Thái Học, dù ông bị trói cả chân tay. Các bà đứng vây quanh, nhiều người bất bình kêu lên và che mặt quay đi. Bị rụng hai cái răng cửa, Nguyễn Thái Học ngẫng lên mắng: - Đó là văn minh của nước Pháp chúng mày, đánh người đang bị trói! Thế mà chúng mày đòi sang khai hóa dân tôc tao! Amox ngượng ngập mời mọi người giải tán. Ngày 23 tháng 3, Nguyễn Thái Học và 80 đồng chí được dẫn ra trước Hội đồng đề hình thiết lập tại Yên Bái, vẫn do Poulet Osier ngồi ghế chánh án. Tuy gọi là phiên xử công khai, nhưng vì phòng họp quá chật chội, sức chứa chỉ được vài chục người mà thực dân lại muốn chắc ăn, không để những người ủng hộ Quốc Dân Đảng vào trà trộn, sợ xẩy ra hô hoán gì thì chúng mất mát. Cho nên chỉ ai có thân thế và có lập trường thân Tây, mới được cho vào. Minh cố gắng xin dự với tư cách nhà báo, nhưng không được, vì chỉ có nhà báo tiếng Tây mới được vào tòa. Nguyễn Thái Học khẳng khái tự nhận hết trách nhiệm thủ lãnh cuộc khởi nghĩa và không cần ai biện hộ bởi tòa án này chỉ là hình thức giả tạo của cường quyền mà thôi. Phó Đức Chính cũng hùng hồn tự nhận mình đã thảo truyền đơn kêu gọi dân chúng vùng lên, đồng thời soạn kế hoạch cho cuộc tổng khởi nghĩa. Ông dứt khoát không xin khoan hồng, không xin ân xá. Ông nói lớn: - Được chết cho tổ quốc là một vinh dự! Tại sao phải xin ân xá! Cô Nguyễn Thị Bắc thì lớn tiếng mắng bọn thực dân xâm lăng và bảo chúng hãy về Py cô có muốn đi ra bờ hồ không? Tôi đưa cô đi. Cả ngày hôm nay, cô muốn đi đâu cũng được! Duyên nén tiếng thở dài: - Em ghé thăm anh một tí rồi phải về ngay chứ làm sao đi được! Chả có cớ gì để nói với người ta! Gặp anh như thế này là đã vi phạm qui định rồi! Minh chép miệng than: - Phiền nhỉ! Thế công tác của cô bây giờ là làm gì? Người ta gọi cô xuống đây để nấu cơm thôi hay sao? Duyên ngượng ngùng khai hết cho Minh nghe: - Em còn bực hơn anh ấy chứ! Chả là thế này. Nhà thuốc Vĩnh An Đường chỉ là cái trạm giao liên thôi. Em đến đây một hai ngày rồi sẽ có người đưa đi chỗ khác. Nghe nói là Hải Phòng hay Hòn Gai gì đó. Đi làm công tác vô sản hóa trong giới thợ thuyền. Nhưng xuống đến đây thì bất ngờ tình hình khó khăn vì bị mật thám theo dõi. Thành ra họ nói với em là nán lại chờ ở hiệu thuốc Bắc. Chả biết đến bao giờ! Minh cười chen vào: - Thành ra bỗng dưng hiệu thuốc Vĩnh An Đường có người đi chợ thổi cơm! Duyên cũng cười theo: - Nhưng cũng nhờ thế mà em gặp được anh! Minh bưng tách trà trao cho Duyên và bảo: - Cứ như cô thì không khéo nay mai cô sẽ không còn ở đây nữa. Chừng ấy biết bao giờ mới gặp lại cô! Duyên đỡ cốc nước, miệng nói “Em xin anh!” rồi buồn rầu cúi xuống bảo: - Đêm qua nằm mãi chả ngủ được, em cũng nghĩ như anh. Nhưng em tự an ủi, em xuống Hà Nội chả có ai quen biết, gặp được anh như thế này cũng quí lắm rồi. Chuyện mai sau biết thế nào mà lường! Không khéo rồi em lại gặp chị Hậu em trong Hỏa Lò cũng chưa biết chừng …. À! Lâu nay hình như anh không về Hải Ninh? Hay là anh về mà không cho em biết! - Vâng! Lâu rồi tôi không có về. Mẹ tôi có xuống tận đây thăm tôi hai lần. Mẹ tôi bảo lão lý Bân được lệnh theo dõi tôi, thành ra khuyên tôi đừng về! … Cô uống nước đi kẻo nguội! Duyên đưa tách nước trà lên nhấp từng ngụm nhỏ. Minh nhắc lại: - Vậy là cô không đi xem cảnh Hà Nội được! Tiếc nhỉ! Duyên đứng dậy, khom người đặt tách nước trên bàn trước mặt Minh và nói: - Thôi, em phải đi chợ. Nắng lên rồi. Em phải đi để kịp về thổi bửa trưa. Em xin phép anh! Cô cúi xuống xach giỏ rồi cầm nón bước ra. Minh vội vàng ra trước, chạy xuống cầu thang đứng chờ Duyên. Anh đẩy cánh cửa nhìn hai bên theo thói quen, rồi quay lại bảo Duyên: - Tiếc quá cô chả ngồi lâu được! Đành chờ đến chủ nhật sau vậy! Duyên gật đầu, đội nón lên. Cô nhìn Minh tha thiết rồi bước nhanh ra đường. Gần trưa, Duyên ở chợ về, đang ngồi lặt rau đay ở sân sau thì một người đàn bà tuổi khoảng ngòai ba mươi, gánh đôi quang gánh đi thẳng từ ngoài cửa chính vào tận bếp. Duyên ngẫng lên ngơ ngác nhìn nhưng chưa kịp hỏi thì ông Chu tất tả chạy vào và nói: - Nhà về đấy ư? Sao chuyến này đi lâu thế? Tôi đợi sốt cả ruột! Hóa ra đó là Tịnh vợ ông Chu, vắng nhà từ hôm Duyên đến đây. Tịnh đặt quang gánh, cầm nón quạt mồ hôi lia lịa. Chị không đáp lời chồng mà chỉ đăm đăm nhìn Duyên, Duyên buông bó rau vào rổ, đứng dậy, cúi đầu chào: - Em chào chị! Ông Chu giải thích với vợ: - Các anh ấy gửi ở đây để chờ nhận công tác! Sát tường có cái lu nước lớn chứa nước mưa, Tịnh bước lại, cầm cái gáo dừa múc nước uống ừng ực. Đi bộ từ nhà ga về đây, mồ hôi loang loáng trên mặt, dính bết vào hai bên tóc mai và đẫm ướt lưng áo. Chị buông cái gáo và hỏi: - Lâu chưa? Mấy hôm rồi? Ông Chu đưa cái khăn vải cho vợ lau mặt và đáp: - Từ hôm nhà vừa đi! Duyên chen vào: - Thưa, ba tuần rồi! Tịnh khẽ kêu lên kinh ngạc: - Ba tuần rồi, lâu thế cơ à! Cùng với câu nói ngắn ngủn ấy, Tịnh đăm đăm nhìn Duyên dò xét. Duyên tuy là cô gái quê, nhưng trẻ trung và mặn mà, đến ở nhà chị đã ba tuần lễ chỉ có chồng chị bên cạnh ngày đêm. Tịnh thoáng thấy lo lắng vì ngờ vực. Chồng Tịnh, ông lang Chu, vốn không phải là người đứng đắn, bằng chứng là đã từng bỏ vợ con để lấy Tịnh. Huống chi, ông Chu cũng chẳng phải là người có nhiệt tình cách mạng đích thực. Chỉ vì lấy Tịnh mà ông tham gia và nhận làm giao liên cho đoàn thể. Nhà thuốc Vĩnh An Đường là nơi tiếp nhận các đồng chí thoát ly để chờ bố trí công tác. Nhưng từ trước đến nay, mới chỉ có bốn người mà toàn là đàn ông. Mà bốn người ấy chỉ ngủ qua một hai đêm rồi đi ngay. Duyên là phụ nữ đầu tiên đến ở đây, lại kéo dài đến ba tuần lễ trong lúc Tịnh vắng nhà! Biết đâu, trong lúc nửa đêm về sáng, thằng chồng của Tịnh chả mò mẫm vào giường của Duyên! Trong hòan cảnh trốn tránh như thế này, dù Duyên có bị ông Chu làm càn thì cô cũng đành cắn răng im lặng chớ chả nhẽ chạy đi kêu đội xếp để tự tố cáo lạy ông tôi ở bụi này Ông Chu chưa kịp lên tiếng giải thích thêm về trường hợp của Duyên thì phải bỏ lên nhà vì có khách vào mua thuốc. Duyên tiếp tục ngồi xuống lặt rau. Tịnh đứng nhìn một chút rồi cũng kéo cái ghế thấp lại ngồi bên cạnh Duyên và gợi chuyện: - Cô nấu gì đấy? - Em nấu bát canh rau ngót với tôm nõn. - Thế à! Tôi cũng đang thèm ăn canh rau ngót. Anh Tự với anh Cảnh cũng thích ăn canh rau ngót lắm. Lần nào ghé đây cũng đòi ăn cho bằng được! Cứ bảo ăn vào mát ruột! Tịnh ngừng lại vì chợt nhớ ra là không nên tên những đồng chí lãnh đạo Thành Bộ. Duyên có biết Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh là ai đâu mà đề cập đến họ. Tịnh đổi đề tài: - Quên chưa hỏi, cô tên gì? - Em là Ly. Vũ Thị Ly. - Thế có ai liên lạc, giao công tác gì chưa? - Thưa chưa. Em chờ sốt cả ruột. Anh Chu bảo, đường dây giao liên bị mật thám theo dõi, tạm thời phải ngưng mọi hoạt động. Ai ở đâu, tạm thời cứ ở đấy! Tịnh gật đầu nhất trí: - Đúng đấy cô ạ! Đáng lẽ tôi về từ tuần trước kia. Mấy lần mua vé xe hỏa rồi, lại phải bỏ. Có hôm tôi ra ga, leo lên tàu rồi, lại phải leo xuống! - Sao thế hở chị? - Thấy có đứa khả nghi nó theo dõi, là mình phải tìm cách nào tháo thân ngay. Cũng có khi mình đóan nhầm, nhưng cẩn tắc vô áy náy! Tôi để ý thấy mật thám nó không bắt mình ở ga lớn. Nó chờ mình xuống ga nhỏ dọc đường nó mới bắt. Trường hợp anh Túc với chị Nghiêm đều như thế cả. Mật thám nó theo từ Ga Hàng Cỏ. Nó có biết chắc là người của mình nhưng nó chờ dọc đường mới bắt! Rồi nhân tiện, Tịnh giảng cho Duyên những kinh nghiệm công tác của mình trong mấy năm qua, bao nhiêu lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Duyên ngồi yên lắng nghe, nghĩ đến Hậu trong Hỏa Lò, rồi lại miên man nghĩ đến chính mình, chả biết mai này trên đường cách mạng có thoát được màng lưới của mật thám hay không? Hai chị em đang nói chuyện thì ông Chu từ nhà ngoài bước vào, lấy những gói hàng từ hai cái thúng của vợ, chất lên giường. Đó là những bao thuốc Bắc gói trong giấy báo, cùng với vài xấp vải, thêm ít khoai lang, đậu phọng chưa bốc vỏ. Nói chung, những thứ ấy chỉ để che mắt mật thám, làm như Tịnh thật tình đi buôn bán mà thôi. Ông Chu mở một gói thuốc Bắc và quay sang hỏi vợ: - Bao giờ nhà lại đi? Sẳn mối ngờ vực trong lòng, Tịnh gắt nhẹ: - Vừa mới về đến nhà, ngồi chưa nóng đít lại hỏi bao giờ đi! Duyên mĩm cười không nói gì. Thấy Tịnh về, Duyên mừng lắm vì từ nay không phải sống một mình với ông Chu. Nhưng Duyên lại giật mình lo ngại. Nếu Tịnh giành lấy công việc đi chợ hằng ngày, thì Duyên không còn cơ hội nào để gặp Minh nữa! Tịnh phủi tay đứng dậy và bảo: - Cô ở nhà nấu cơm nhé! Tôi phải chạy đi một tí! Dứt lời, Tịnh cầm nón bước nhanh ra cửa. Ông Chu buông gói thuốc chạy nhanh theo vợ, gọi giật lại và hỏi: - Nhà đi đâu đấy? Tịnh đứng lại trong khung cửa, gắt nhẹ: - Đi gặp người ta chứ còn đi đâu! Ông Chu hiểu hai tiếng “người ta” tức là các đồng chí lãnh đạo Thành Bộ Hà Nội mà Tịnh có nhiệm vụ báo cáo tình hình ở biên giới. Nhưng ông Chu lại kéo hẳn vợ vào sau quầy thuốc và gắt lại: - Chỉ được cái nhanh nhảu đoảng! Cơ quan đang bị theo dõi, không đến đấy được nữa. Anh Lê Tiến bị bắt rồi! Thành Bộ tạm thời mỗi người trốn một nơi, đến đấy là chui đầu vào rọ ư! Tịnh lặng người đứng yên, ông Chu giục: - Thôi. Vào nhà tắm đi, rồi ăm cơm! Tịnh vẫn đứng yên, tay buông rơi cái nón xuống chân. Khá lâu chị mới run run hỏi lại: - Anh Lê Tiến bị bắt rồi ư? Bị bắt ở đâu? Cùng với câu hỏi não nuột ấy, chị nhớ lại những lần Lê Tiến cùng các đồng chí ở Tổng Bộ kéo lại đây ăn cơm và sôi nổi bàn chuyện hoạt động. Nhớ nhất là cái dạo Tiến công tác ở biên giới, sang Quảng Châu gặp Tịnh đang bị sốt rét nặng. Tiến nấu cháo cho Tịnh ăn mấy hôm liền trước khi Tiến trở về Hà Nội. Tiến thua Tịnh vài tuổi, có nụ cười và ánh mắt hiền hòa nhất trong đám những người cách mạng mà Tịnh từng giao tiếp. Cho nên cái tin Tiến bị bắt không khỏi làm Tịnh bàng hoàng trong khoảnh khắc. Bàng hoàng vì thương Tiến đã đành, mà còn vì sợ Tiến khai ra địa chỉ nhà thuốc Vĩnh An Đường, làm liên lụy luôn đến vợ chồng Tịnh. Tịnh nhắc lại: - Có biết bị bắt ở đâu không? - Nghe nói ở ngõ Lò Rèn! Tịnh lại sửng sốt kêu lên lần nữa: - Chết! Ngõ Lò Rèn ư? Thế thì ông Mão, ông Kiệt chắc cũng bị bắt cả rồi! Chu yên lặng gật đầu. Nhà ông chính là trạm giao liên từng nhận Kiệt và Mão từ thôn quê thoát ly xuống đây – giống như Duyên hiện nay – tá túc ở nhà Tịnh cả tuần lễ trước khi bố trí về cơ quan in truyền đơn ở Ngõ Lò Rèn. Những cơ quan, những địa điểm hoạt động của đảng viên, thường thì chỉ có các đồng chí ở Thành Bộ được quyền biết. Riêng Tịnh vì là nhân vật giao liên nồng cốt, thường đưa người theo sự bố trí của Thành Bộ, nên Tịnh cũng nắm được một vài địa chỉ trong nội thành. Tịnh thở dài cầm nón quay vào bếp. Duyên đã nhặt xong rổ rau, đang múc nước ra chậu để rửa. Thấy Tịnh, Duyên ngẩng đầu lên bảo: - So với anh Chu, chị trẻ quá! Em thật không ngờ! Em cứ tưởng chị phải … lớn hơn nhiều! Hóa ra nom chị chỉ mới …. ngoài hai mươi! Nghe lời khen mà Tịnh đoán là thật lòng, Tịnh bổng thấy có thiện cảm ngay với Duyên. Chị vui vẻ kéo khúc củi trong bếp ra, ngồi xuống nói chuyện với Duyên. Tịnh hãnh diện kể: - Trẻ gì nữa cô ơi! Hơn ba mươi rồi! Ông bà mình có câu “gái ba mươi tuổi đã toan về già” cơ mà! Với lại, dầm mưa giãi nắng như tôi, trẻ thế nào được mà trẻ! Cô tính xem, ngủ bờ ngủ bụi, lắm khi phải trốn chui trốn nhủi, có đêm thức trắng không chợp mắt, giữ được mạng sống, không để lọt vào tay giặc là may rồi, chứ còn nói gì đến nhan sắc Duyên gật đầu cảm phục: - Chị giỏi thật! Giỏi mà gan dạ! Em phục chị lắm! - Cảm ơn cô! Tôi bị sốt rét ngã nước mất hai năm, da cứ vàng bủng đi, nom sợ lắm. May mà có thuốc của anh Chu nên bây giờ mới dứt hẳn! - Vâng. Nom chị hồng hào như thế này, ai mà biết được đã có thời chị bị sốt rét! Tịnh rất hài lòng về lời khen kín đáo của Duyên. Chị đổi đề tài: - Cô ở đây cả mấy tuần lễ, chắc cũng sốt ruột lắm, phải không? Trường hợp của cô là lâu nhất đấy. Nhỻng nhiều lần khuyên Nguyễn Thái Học xuất ngoại. Nhưng chính Cảnh, giờ đây dù bao nhiêu nguy hiểm vây quanh, Cảnh lại chọn con đường ở lại để xây dựng đảng. Lê Hửu Cảnh đi Hải Phòng hy vọng sẽ gặp được Ký Con Đặng Trần Nghiệp ở dưới ấy, nhưng xuống tới nơi thì các đồng chí cho biết Ký Con đã trốn sang Nam Định nên hai người không có dịp tái ngộ. Trước khi rời Hà Nội, Cảnh cùng Nguyễn Xuân Huân ghé qua nhà Minh ở Khâm Thiên để dặn dò vài công việc. Minh đòi thoát ly theo Cảnh nhưng Cảnh không đồng ý. Theo Cảnh, các cơ quan của đảng thuộc Thành Bộ Hà Nội đều bị giặc phát giác. Chỉ còn một địa điểm duy nhất là căn gác nhà Minh ở trọ. Minh phải bám lấy để làm chỗ giao liên khi cần thiết. Cảnh nắm tay Minh và dặn: - Cậu cứ ở đây. Tôi sẽ quay lại gặp cậu! Tôi đã dặn cô Giang, nếu cần liên lạc với tôi thì cứ cho cậu biết! Thỉnh thoảng tôi sẽ cho người đến gặp cậu! Thế nào cô Giang cũng cần đến cậu! Rồi Cảnh lấy ra mảnh giấy nhỏ có ghi địa chỉ trạm giao liên ở Hải Phòng, trao cho Minh và bảo: - Cậu học thuộc địa chỉ này và xé bỏ mảnh giấy đi. Tôi đã dặn cậu nhiều lần, nguyên tắc căn bản là không bao giờ để lại bút tích gì cả. Ngô nhỡ địch khai thác được! Minh nhét mẫu giấy vào túi rồi dè dặt hỏi: - Chị Giang có đi chuyến này với hai anh không? Nguyễn Xuân Huân đáp thay: - Không. Chị ấy phải nán lại Hà Nội chờ nghe tin tức các đồng chí trong Hỏa Lò. Phân vân một chút. Minh lại hỏi: - Anh có tính sang Vân Nam không, anh Cảnh? Cảnh quả quyết: - Tôi ở lại. Nhất định ở lại. Tổng Bộ giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi đi sao đành! Đồng chí Huân đây và tất cả nhóm chúng tôi đều ở lại, nhưng nếu gặp Ký Con, tôi sẽ khuyên cậu ấy nên qua bên kia biên giới, vì hình ảnh của cậu ấy bị giặc dán khắp nơi, khó lòng mà thoát được. Trường hợp Ký Con thì nên xuất ngoại! Rồi Cảnh chia tay, cùng Huân lên đường. Minh nói: - Nếu hai anh gặp anh Doãn, nhớ cho em gửi lời thăm! Cảnh gật đầu bước đi. Doãn tức là bí danh của Ký Con Đặng Trần Nghiệp. Kể từ đêm ném bom ở Hà Nội để làm kế nghi binh hỗ trợ cho các trận đánh tại các tỉnh, Ký Con bị giặc truy lùng gay gắt với hàng vạn cáo thị và hình chụp dán khắp đó đây kèm theo món tiền thưởng tương đương với Nguyễn Thái Học là 5 ngàn đồng. Biết không thể lưu lại Hà Nội, Ký Con tìm đường sang Hải Dương, tạm trú tại nhà một đồng chí làng Dư Hàng, huyện An Chương. Nương náu một thời gian, Ký Con thấy nơi đấy bất ổn vì mật thám tung hoành dữ dội. Anh liền trốn qua Nam Định, tá túc trong nhà một đồng chí ở làng Năng Tĩnh, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, quê hương của Trần Tế Xương. Lẽ tất nhiên, Ký Con chẳng dám ở đâu lâu vì sợ lộ tông tích. Với số tiền thưởng quá lớn, với hình ảnh và cáo thị dán khắp nơi, dễ gì anh thoát được. Tay sai làm việc cho Tây muốn lấy điểm với quan thầy cũng nhiều, mà những kẻ không óan thù với Ký Con nhưng tham tiền thì cũng lắm. Anh luôn luôn là cái mồi ngon cho chúng. Bởi vậy, ở Nam Định được vài đêm anh đã thấy không ổn. Anh nói với chủ nhà: - Mai tôi đi sớm anh ạ! Tôi linh cảm thấy ở đây không yên! Chủ nhà nhìn Ký Con thương cảm. Mới 22 tuổi, mặt non trẻ, da dẻ hồng hào trông như một cậu học sinh nhút nhát, thế mà 2 năm qua Ký Con đã tạo được những thành tích kinh thiên động địa. Chủ nhà vốn cảm phục sự gan dạ của Ký Con nên ngỏ ý ân cần giữ anh lại: - Lúc này cậu đi đâu cũng chả yên! Bắc Ninh và Bắc Giang là hai cái nôi của đảng, giờ này bật gốc hết. Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái, rồi ngay cả Hưng Yên, Hải Phòng cũng chẳng còn đất dung thân. Thôi thì cứ tạm ở lại đây chứ đi đâu bây giờ! Ký Con trầm ngâm nói: - Tôi định quay lại Hải Phòng! Có thể gặp anh Cảnh dưới ấy! Chủ nhà ngậm ngùi nói: - Tùy đồng chí thôi! Nếu đồng chí không muốn nán lại đây với tôi thì sáng mai nên đi thật sớm. Tôi có sẳn đôi quang gánh, đồng chí giả làm người bán rong buổi sớm, chúng nó không để ý! Ký Con đồng ý. Rồi hai người nằm bên nhau thì thầm cả đêm, ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của hai năm sóng gió nhưng hào hùng vừa qua. Những yếu nhân rường cột của đảng mà Ký Con đã từng tiếp xúc, từng sát cánh hoạt động, giờ này hầu như chẳng còn ai. Không bị xử tử thì cũng bị lưu đày biệt xứ. Nhắc tới mà cả hai không cầm được nước mắt. Mãi đến gần sáng, chủ nhà mới bùi ngùi bảo Ký Con: - Thôi, đồng chí nghỉ một tí đi. Lấy sức chốc nữa lên đường! Sau câu nói ấy, cả hai cùng im lặng, nhắm mặt nhưng không ai ngủ được vì những ưu tư đang trĩu nặng trong đầu. Bấy giờ ở Nam Định và Thái Bình, Đông Dương Cộng Sản Đảng đã thành lập vài chi bộ khá mạnh. Lùi trở lại nửa năm trước, tức là tháng giêng năm 1930, khi Quốc Dân Đảng đang ráo riết chuẩn bị tổng khởi nghĩa, thì những đảng viên Tân Việt Cách Mạng Đảng có khuynh hướng Cộng Sản, đứng ra thành lập một tổ chức lấy tên là Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, địa bàn hoạt động chính là Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Như vậy, trên thực tế có ba nhóm Cộng Sản: Thứ nhất, Đông Dương Cộng Sản Đảng, do Nguyễn Đức Cảnh bí danh Cả Trọng, Ngô Gia Tự bí danh Sĩ Quyết, Trần Văn Cung bí danh Quốc Anh, Đỗ Ngọc Chu bí danh Phiếm Chu, Trịnh Đình Cửu, Dương Hạc Đính, Nguyễn Phong Sắc và Kim Tôn thành lập tại phố Hàm Lòng Hà Nội tháng 3 năm 1929. Đây là nhóm Cộng sản tiên phong tại quốc nội, bất chấp sự ngăn cản của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Thậm chí Trần Văn Cung từng phát biểu công khai tại hội nghị: - Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tuy đi sát lập trường quốc tế vô sản, nhưng đồng chí ấy chỉ ở nước ngoài, không về hoạt động tại quốc nội, nên không thể nắm vững tình hình như chúng ta! Ngô Gia Tự thì cứ nhắc đi nhắc lại mãi một câu: - Trong điều kiện phứt tạp hiện nay, Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội không còn đủ khả năng lãnh đạo cuộc cách mạng đến thành công. Để phù hợp với yêu cầu cấp bách của nhân dân, đã đến lúc vai trò lãnh đạo của cách mạng phải giao lại cho giai cấp công nhân. Không còn đường nào khác! Thế là nhóm này hăng say khai tử Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội để thay bằng bảng hiệu Đông Dương Cộng Sản Đảng, giao cho Nguyễn Đức Cảnh xúc tiến soạn thảo các văn kiện đảng. Rồi ngày sau đó, nhóm này phân tán đi khắp các tỉnh bộ để thuyết phục họ bỏ tên cũ lấy tên mới. Dĩ nhiên chẳng phải ai cũng nghe, bởi nhiều người đứng vào Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội chỉ để đánh Tây, chứ chọn hẳn chủ nghĩa Cộng sản thì họ chưa có ý niệm dứt khoát. Dù sao đi nữa, đây cũng là những viên gạch đầu tiên xây dựng cho tòa nhà Cộng Sản tại Việt Nam, để lót đường trải thảm cho ngày vinh quang của Nguyễn Ái Quốc sau này. Thứ hai: An Nam Cộng Sản Đảng mới thành lập hồi tháng 11 năm 1929 tại miền Nam. Nhóm này không muốn nằm trong vòng ảnh hưởng của nhóm Bắc Kỳ, nên ra một tờ báo riêng lấy tên là Bônsêvich và công bố điều lệ riêng cho đảng của mình. Bolsevik (bônsêvich) theo cách dùng của Lenin có nghĩa là Ủy Ban, là thành viên của đám đông, của đại đa số quần chúng tức là giới vô sản (prolateriat), cần dùng bạo lực để nắm chính quyền. Thứ ba: Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn vừa ra đời ngày 1 tháng 1 năm 1930. Nhóm này thoát thai từ đảng Phục Việt, sau đổi thành Tân Việt Cách Mạng Đảng với Tôn Quang Phiệt, Trần Phú, Vương Thúc Oánh. Các đảng viên Tân Việt có khuynh hướng quốc gia từ đây trở thành bơ vơ rút lui khỏi đảng, hoặc gia nhập đoàn thể khác, hoặc không hoạt động gì nữa. Tình trạng tam phân giữa ba nhóm cộng sản cùng hiện diện, đưa đến việc tranh giành quần chúng và không tránh khỏi sự bất hòa. Nhìn thấy nguy cơ đó, nhân dịp tết Canh Ngọ, mùng 3 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đang ở Thái Lan, khẩn cấp triệu tập đại hội ở Hồng Kông, mời đại biểu 3 nhóm cộng sản quốc nội sang họp bàn việc thống nhất. Gọi là thống nhất, nhưng thật ra hai nhóm kia phải nhập chung vào Đông Dương Cộng Sản Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Biết thế nên Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn không cử đại biểu sang dự. Muốn cho họ khỏi tự ái, Nguyễn Ái Quốc liền bỏ danh xưng Đông Dương Cộng Sản Đảng, đặt ra một cái tên mới là Đảng Cộng Sản Việt Nam và kêu gọi hai nhóm kia đứng vào. Cái lợi thế của Nguyễn Ái Quốc là ông nhân danh chỉ thị của quốc tế cộng sản để trấn áp và ép buộc 3 nhóm phải ngồi chung vào một chiếu. Đảng viên phải nghe lời, bởi cộng sản tự căn bản là một đảng quốc tế do Liên Bang Xô Viết đứng đầu. Nguyễn Ái Quốc chính là nhân vật Việt Nam duy nhất được quốc tế cộng sản ủy thác hoạt động tại Đông Dương, cho nên tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc cũng chính là tiếng nói của Liên Bang Xô Viết. Nhóm nào không nghe là đi ngược lại đường lối quốc tế vô sản Liên Xô sẽ không công nhận. Hội nghị Hồng Kông chỉ có 2 phái đoàn tham dự từ mùng 3 đến 7 tháng 2 năm 1930. Nhưng 3 tuần sau, tức ngày 24 tháng 2, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn cũng phải xin gia nhập. Cái thế tam phân từ đó qui về một mối dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau này. Nguyễn Ái Quốc đã thành công và từ đây trên nguyên tắc, Đảng Cộng Sản Việt Nam được chính thức khai sinh. Tuy nhiên trên thực tế, người ta vẫn quen gọi là Đông Dương Cộng Sản Đảng hàm ý bao trùm luôn cả ba nước Việt Miên Lào. Hai tháng sau, Nguyễn Ái Quốc nới rộng địa bàn hoạt động, thành lập thêm một số chi bộ cộng sản tại Vientien và Nam Vang, để dùng với danh nghĩa đông dương khi báo cáo thành tích lên Liên Xô. Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản tiên phong, mọi hoạt động đều theo đúng đường lối cộng sản quốc tế. Nhưng cho đến thời điểm ấy, ông vẫn chưa muốn công khai công bố sự thành hình của đảng công sản tại Việt Nam vì đa số quần chúng còn dè dặt với hai tiếng “cộng sản” và vì các quốc gia Tây phương đang đồng loạt nhìn ra hiểm họa lâu dài của chủ nghĩa cộng sản. Dựng bảng hiệu Đảng Cộng Sản sẽ rất khó hoạt động. Nhưng đám thanh niên tân học đàn em Nguyễn Ái Quốc thì lại rất nóng lòng muốn đứng dưới lá cờ cộng sản bởi vì sứa hấp dẫn quá mãnh liệt của chủ nghĩa mới mẻ này đã lôi cuốn họ. Muốn đạt được hai mục tiêu là giải phóng dân tôc và xóa bỏ bất công xã hội thì không có con đường nào hay hơn lý thuyết cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã chiều ý họ nên phải ra mặt mà thôi! Chứ với ông thì thời điểm ấy chưa đúng lúc!