Chương 11

Cả ngày thứ hai tôi vẫn chưa hết bàng hoàng. Tôi trải qua hết tiết này đến tiết khác chỉ chờ nghe tiếng chuông reo tan học. Tôi đã gọi điện đến bệnh viện trước khi đi học và họ báo cho tôi biết Vee đang được đưa vào phòng phẫu thuật. Tay trái của Vee đã bị gãy. Tôi rất muốn đến thăm nó nhưng phải đợi đến chiều, khi thuốc mê hết tác dụng và nhân viên y tế đã đưa nó về phòng bệnh. Tôi nhất thiết phải nghe Vee kể về vụ tấn công trước khi nó quên hết các chi tiết hay thêm mắm thêm muối vào. Bất cứ chi tiết nào nó nhớ được đều có thể lấp vào chỗ trống trong bức tranh chưa hoàn thiện và giúp tôi đoán ra ai đã làm việc này.
Đến buổi chiều, sự tập trung của tôi chuyển từ Vee sang người phụ nữ bên ngoài cửa hàng Vitoria’s Secret. Cô ta là ai? Cô ta muốn gì? Có lẽ chỉ là trùng hợp khi Vee bị tấn công chỉ vài phút sau khi cô ta đi theo nó, nhưng bản năng của tôi không đồng ý. Tôi ước gì có thể trông thấy hình dáng người phụ nữ đó rõ hơn. Chiếc áo nỉ có mũ rộng lùng thùng, quần jean cùng cơn mưa đã giúp cô ta ngụy trang thành công. Đó có thể là…Marcie Millar. Nhưng sâu thẳm bên trong, tôi lại cảm thấy điều đó không đúng lắm.
Tôi ghé qua tủ để đồ để lấy sách sinh học. Tôi bước vào lớp và thấy ghế Patch bỏ trống. Thường thường cậu ta vẫn đến vào phút chót đúng lúc chuông reo inh ỏi, nhưng rồi chuông đã reo và thầy đã đứng trên bục giảng bắt đầu giảng về trạng thái cân bằng tâm lý mà vẫn chẳng thấy Patch đâu.
Tôi ngẫm nghĩ về chiếc ghế trống của Patch. Một giọng nói mơ hồ sâu thẳm trong óc tôi cho rằng sự vắng mặt của cậu ta có thể có liên quan đến vụ tấn công Vee. Cũng hơi lạ khi cậu ta lại vắng mặt vào buổi sáng ngay sau hôm vụ tấn công xảy ra. Và còn cái cảm giác lạnh lẽo ngay trước lúc tôi nhìn ra ngoài cửa hàng Vitoria’s Secret và nhận ra rằng mình đang bị theo dõi. Lúc nào tôi có cảm giác như thế, Patch đều đang ở gần.
Lý trí tôi nhanh chóng lên tiếng gạt bỏ sự dính dáng của Patch. Có thể cậu ta bị cảm lạnh. Hoặc có thể xe cậu ta bị hết xăng trên đường và cậu ta đang bị kẹt lại cách xa trường hàng dặm. Hoặc có lẽ ở quán Bo’s đang có một trận đấu bi-a với số tiền cược rất cao và cậu ta cho rằng sẽ có lợi cho mình hơn là một buổi chiều học về những phức tạp của cơ thể con người.
Cuối giờ, thầy McConaughy ngăn tôi lại trên đường ra khỏi lớp. “Chờ chút, Nora.”
Tôi quay lại và xốc ba lô lên vai. “Dạ?”
Thầy đưa cho tôi một mảnh giấy đã được gấp lại. “Cô Greene có ghé qua trước giờ và bảo thầy đưa cho em cái này,” thầy nói.
Tôi nhận lấy tờ giấy. “Cô Greene ạ?” Tôi không có cô giáo nào tên như thế cả.
“Bác sĩ tâm lý mới của trường. Cô ấy vừa đến thay Tiến sĩ Hendrickson”.
Tôi mở tờ giấy ra và đọc thông điệp được viết nguệch ngoạc bên trong:
Nora thân mến!
Cô sẽ thay Tiến sĩ Hendrickson làm bác sĩ tâm lý mới của trường. Cô nhận thấy em đã vắng mặt trong hai buổi học gần đây với Tiến sĩ Hendrickson. Hãy đến gặp cô để chúng ta có thể làm quen nhé. Cô đã viết một bức thư cho mẹ em để bà biết về sự thay đổi này.
Chúc em mọi điều tốt đẹp nhất.
Cô Greene.
“Cám ơn thầy”, tôi nói rồi gấp tờ giấy lại nhét vào trong túi.
Ngoài hành lang, tôi hòa mình vào đám học sinh. Giờ không trốn tránh được nữa – tôi phải đến đó. Tôi thẳng tiến qua các hành lang cho đến khi trông thấy cánh cửa đóng kín của văn phòng Tiến sĩ Hendrickson. Có một bảng tên mới trên cửa, đó là một tấm đồng thau bóng loáng gần trên cánh cửa gỗ sồi xám xịt in dòng chữ: CÔ D.GREENE, TIẾN SĨ TÂM LÝ CỦA TRƯỜNG.
Tôi gõ cửa, và một thoáng sau nó mở ra. Cô Greene có làn da sáng không tỳ vết, đôi mắt xanh thẳm, đôi môi căng mọng cùng mái tóc vàng mềm mại buông xõa xuống khuỷu tay. Tóc cô được rẽ ngôi giữa trên đỉnh đầu, ôm lấy khuôn mặt trái xoan duyên dáng. Một cặp kính mắt mèo màu ngọc lam án ngữ trên sóng mũi, chiếc váy ngắn thêu hình chữ chỉ màu xám và chiếc áo cánh lụa hồng tôn thêm vẻ nghiêm chỉnh và trang trọng. Cùng lắm thì cô chỉ hơn tôi năm tuổi.
“Chắc em là Nora Grey. Trông em không khác mấy so với tấm ảnh trong hồ sơ”, cô nói và bắt tay tôi thật chặt. Giọng cô gãy gọn, nghiêm túc.
Cô lùi lại, ra hiệu cho tôi vào văn phòng.
“Em uống gì không, nước lọc nhé?” Cô hỏi.
“Có chuyện gì với Tiến sĩ Hendrickson thế ạ?”
“Thầy ấy nghỉ hưu sớm. Cô đã để ý đến công việc này từ lâu nên vào thay thế thầy ấy. Cô từng sống ở bang Florida, nhưng cô sinh ra ở Portland này và bố mẹ cô vẫn sống ở đây. Thật tuyệt khi lại được trở về gần với gia đình”.
Tôi quan sát văn phòng nhỏ. Nó đã thay đổi rất nhiều kể từ lần cuối cùng tôi đến đây vài tuần trước. Những giá sách kềnh càng giờ chất đầy những cuốn sách bìa cứng đầy tính học thuật na ná giống nhau – tất cả đều được đóng bìa màu trung tính và mạ chữ vàng lấp lánh. Trước đây Tiến sĩ Hendrickson thường lấy giá sách để đặt những bức ảnh gia đình, nhưng giờ tôi chẳng thấy tấm ảnh nào về đời tư của cô Greene trên đó cả. Bên cửa sổ vẫn treo cây dương xỉ cũ, nhưng dưới sự chăm sóc của Tiến sĩ Hendrickson, nó có màu nâu chứ không phải màu xanh thế này. Chỉ vài ngày ở với cô Greene mà trông nó đã khỏe mạnh và đầy sức sống. Một chiếc ghế màu hồng có họa tiết hình cánh hoa kê cạnh bàn, vài cái hộp chuyển đồ vẫn chất đống ở góc bên kia.
“Cô đi làm từ hôm thứ sáu”, cô giải thích khi thấy tôi nhìn chăm chăm vào những cái hộp chuyển đồ. “Cô vẫn chưa tháo dỡ xong đồ đạc. Em ngồi đi”.
Tôi hạ ba lô xuống và ngồi trên chiếc ghế bồng. Chẳng có gì trong căn phòng nhỏ này gợi ý cho tôi về tính cách của cô Greene. Bàn làm việc của cô xếp một chồng hẹp hồ sơ – không ngăn nắp, nhưng cũng không bừa bộn – và một cái tách trắng đựng thứ gì đó giống như trà. Không có dấu hiệu gì của nước hoa hay nước xịt phòng. Màn hình máy tính của cô đen ngòm.
Cô Greene lom khom trước một tủ hồ sơ phía sau bàn, lôi ra một túi hồ sơ sạch sẽ rồi ghi tên tôi lên nhãn bằng bút dạ đen. Cô đặt nó lên bàn cạnh hồ sơ cũ của tôi – vốn dính vài vết cà phê của Tiến sĩ Hendrickson ngày trước.
“Cô đã dành cả ngày cuối tuần xem xét các hồ sơ của Tiến sĩ Hendrickson. Chỉ có cô với em biết thôi nhé, chữ viết của thầy ấy khiến cô đau cả đầu, vì vậy cô đã chép lại tất cả các hồ sơ. Cô rất ngạc nhiên khi thầy ấy không dùng máy tính. Thời buổi này ai lại đi viết tay chứ?”
Cô ngồi lại xuống chiếc ghế xoay, bắt tréo chân và mỉm cười lịch thiệp với tôi: “Nào, sao em không kể với cô một chút về những lần em gặp Tiến sĩ Hendrickson trước đây? Cô khó mà hiểu được những ghi chép của thầy ấy. Có vẻ hai người đang bàn đến những cảm nghĩ của em về công việc mới của mẹ em?”
“Nó không còn mới nữa đâu. Mẹ em đã làm việc đó được một năm rồi”.
“Mẹ em trước đây chỉ ở nhà nội trợ, đúng không? Và sau khi bố em qua đời, bà đã phải đi làm cả ngày…” Cô liếc vào đống hồ sơ của tôi. “Bà làm cho một công ty đấu giá nhỉ? Công việc của bà là dàn xếp những vụ đấu giá dọc vùng duyên hải phải không?” Cô nhìn tôi qua cặp kính. “Điều đó chắc đòi hỏi phải vắng nhà nhiều!”
”Mẹ con em muốn ở trong căn nhà trại đó,” tôi nói, giọng đề phòng. “Mẹ con em không thể trả nổi tiền nợ thế chấp nếu bà làm ở gần nhà”. Tôi không hẳn thích thú những buổi gặp với Tiến sĩ Hendrickson, nhưng tôi không đời nào ủng hộ việc ông nghỉ hưu và bỏ tôi lại cho cô Greene thế này. Dường như cô ấy đang cố sức đào bới vào mọi ngõ ngách sâu kín nhất trong cuộc đời tôi.
“Đúng, nhưng em hẳn phải cô đơn lắm khi phải ở một mình trong căn trại đó?”
“Nhà em có một người giúp việc, chiều nào bà ấy cũng ở với em cho đến chín giờ tối”.
“Nhưng người giúp việc thì không thể giống mẹ được”.
Tôi nhìn ra cửa. Một hành động khá công khai và lộ liễu.
“Em có bạn thân không? Bạn trai? Một người mà em có thể nói chuyện cùng khi người giúp việc của em không…hợp với em cho lắm?” Cô nhúng túi trà vào tách rồi đưa lên miệng nhấp một ngụm.
“Em có một người bạn thân”. Tôi quyết định nói thật ít vì càng nói ít, cuộc gặp này càng ngắn đi. Cuộc gặp này càng ngắn đi, tôi càng có thể đến thăm Vee sớm.
Lông mày cô Greene nhướng lên. “Bạn trai à?”
“Không”.
“Em là một cô bé hấp dẫn. Chắc hẳn phải có ai đó khác giới quan tâm đến em chứ?”
“Thế này ạ”, tôi nói kiên nhẫn nhất có thể. “Em thật sự cảm kích khi cô đang cố gắng giúp em, nhưng em đã có một cuộc nói chuyện y hệt thế này với Tiến sĩ Hendrickson vào năm ngoái, khi bố em mất. Kể lại nó với cô cũng chẳng ích gì. Em cảm thấy như mình đang phải quay ngược thời gian và khơi lại chuyện đó lần nữa. Vâng, đó là một bi kịch khủng khiếp và em vẫn phải đối mặt với nó hằng ngày, nhưng những gì em thực sự cần là tiếp tục sống và hướng về phía trước.”
Đồng hồ trên tường kêu tích tắc.
“Chà”, cuối cùng cô Greene mỉm cười. “Thật thú vị khi biết được quan điểm của em, Nora. Đó là điều cô đang muốn tìm hiểu. Cô sẽ ghi lại những cảm nghĩ của em vào hồ sơ. Em còn muốn nói gì nữa không?”
“Không”. Tôi cười để xác nhận rằng sự thực là mình vẫn đang rất ổn.
Cô lật qua vài trang trong hồ sơ của tôi. Tôi không biết Tiến sĩ Hendrickson đã lưu lại những nhận xét gì trong đó, và tôi không muốn chờ đợi ở đây lâu hơn để tìm hiểu về điều đó.
Tôi nhấc ba lô lên và dịch ra mép ghế. “Em không muốn rút ngắn thời gian của buổi gặp này, nhưng em cần phải đến một nơi lúc bốn giờ.”
“Ồ?”
Tôi không muốn kể về vụ của Vee với cô Greene. “Em đến thư viện để nghiên cứu,” tôi nói dối.
“Môn gì vậy?”
Tôi nói câu trả lời đầu tiên nảy ra trong óc: “Sinh học ạ”
“Nhắc đến việc học, em học hành sao rồi? Em có vướng mắc gì không?”
“Không ạ”.
Cô Greene giở tiếp vài trang nữa trong hồ sơ của tôi. “Điểm số rất xuất sắc”, cô nhận xét. “Hình như em đang kèm một bạn cùng bàn ở lớp Sinh học tên là Patch Cipriano?” Cô ngẩng lên, rõ ràng muốn nghe tôi xác nhận lại.
Tôi ngạc nhiên khi nhiệm vụ kèm cặp của tôi cũng đủ quan trọng để được đưa vào hồ sơ của bác sĩ tâm lý ở trường. “Bọn em vẫn chưa có buổi học nhóm nào. Thời gian biểu của bọn em không khớp nhau ạ”. Tôi nhún vai như để nói: Cô có thể làm gì được chứ?
Cô gõ nhẹ hồ sơ của tôi lên mặt bàn, sắp xếp những tờ giấy bị long ra thành một chồng ngay ngắn rồi nhét vào hồ sơ mới mà cô đã dán nhãn bằng tay. “Cô muốn nói trước với em là cô sẽ nói chuyện với thầy McConaughy về việc đặt ra những giới hạn nhất định cho những buổi học nhóm của hai em. Cô muốn tất cả các buổi học đó đều phải được tổ chức ở trường, dưới sự giám sát trực tiếp của một giáo viên hay một thành viên nào đó trong ban giám hiệu. Cô không muốn em kèm Patch bên ngoài trường. Cô thực sự không muốn hai em gặp riêng nhau”.
Tôi nổi da gà. “Sao ạ? Có chuyện gì vậy ạ?”
“Cô không thể nói được”.
Lý do duy nhất tôi có thể nghĩ tới cho việc cô Greene không muốn tôi ở một mình với Patch là vì cậu ta thật nguy hiểm. Quá khứ của mình có thể làm cậu sợ - cậu ta đã nói thế trên điểm xuất phát của trò Archangel.
“Cám ơn em. Cô sẽ không giữ em nữa”, cô Greene nói rồi sải bước về phía cửa ra vào. Cô mỉm cười, nhưng nụ cười có phần chiếu lệ.
Rời văn phòng cô Greene, tôi gọi điện ngay đến bệnh viện. Vee đã được phẫu thuật xong nhưng vẫn phải nằm trong phòng hồi sức và không ai được vào thăm trước bảy giờ tối. Tôi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ. Tôi tìm chiếc Fiat ở bãi đỗ xe của học sinh và chui vào, hy vọng một buổi chiều làm bài tập ở thư viện sẽ khiến mình đỡ sốt ruột vì chờ đợi.
Tôi ở thư viện cả chiều, và trước khi tôi kịp để ý đến thời gian, mặt trời đã lặn tự lúc nào. Bụng tôi sôi ùng ục trong không gian yên tĩnh của thư viện, và những suy nghĩ của tôi lập tức hướng về chiếc máy bán hàng tự động ngay phía trong cửa ra vào.
Chỗ bài còn lại có thể để sau, nhưng vẫn còn một bài tập cần làm ngay trong thư viện. Nhà tôi chỉ có một chiếc máy vi tính cổ lỗ với dịch vụ Internet quay số, thế nên sử dụng máy tính ở thư viện sẽ giúp tôi khỏi phải la hét và bứt tóc không cần thiết. Tôi cần viết bài đánh giá về vở kịch Othello để nộp cho biên tập viên tạp chí điện tử lúc chín giờ, và tôi tự hứa rằng sẽ chỉ đi mua đồ ăn sau khi đã hoàn thành nó.
Thu dọn sách vở xong, tôi tiến về phía thang máy. Trong thang máy, tôi bấm nút đóng cửa nhưng chưa bấm số tầng ngay. Tôi lấy điện thoại và lại gọi đến bệnh viện.
“Chào cô ạ”, tôi nói với cô y tá trả lời điện thoại. “Bạn cháu đang hồi phục sau phẫu thuật, và khi cháu gọi đến chiều nay, bác sĩ bảo tối nay bạn ấy sẽ được ra khỏi phòng hồi sức. Tên bạn ấy là Vee Sky. Cô có thể kiểm tra giúp cháu xem khoảng mấy giờ bạn ấy được về phòng không ạ?”
Một thoáng ngừng và có tiếng gõ bàn phím lách cách. “Các bác sĩ sẽ đưa bạn cháu về phòng riêng trong vòng một giờ nữa”.
“Giờ thăm bệnh kết thúc lúc nào ạ?”
“Tám giờ”.
“Cám ơn cô”. Tôi tắt máy và ấn nút tầng ba.
Lên tầng ba, tôi theo biển chỉ dẫn đến phòng tư liệu, hy vọng rằng nếu đọc được vài bài phê bình về kịch trong báo địa phương, cảm hứng viết lách của tôi sẽ bùng phát.
“Cho em hỏi”, tôi nói với cô thủ thư ngồi sau bàn tư liệu, “em đang tìm những số báo Portland Press Herald từ năm ngoái, đặc biệt là những số có bài phê bình kịch nghệ ạ”.
“Chúng tôi hiện không lưu những số báo đó trong phòng tư liệu”, cô nói. “nhưng nếu em tra cứu trực tuyến, chắc chúng vẫn được lưu trữ trên mạng đấy! Đi dọc hành lang đằng kia và em sẽ thấy phòng máy tính bên tay trái”.
Trong phòng máy, tôi bật một chiếc máy tính. Tôi đang định chìm đắm vào nhiệm vụ cao cả của mình thì một ý nghĩ lóe lên. Trời đất! Sao tôi lại không nghĩ ra sớm hơn nhỉ? Nhìn quanh để chắc chắn không có ai đang nhìn trộm mình, tôi gõ trên Google cụm từ “Patch Cipriano”. Có thể tôi sẽ tìm thấy một bài báo nào đó hé lộ về quá khứ của cậu ta. Hoặc blog của cậu ta chẳng hạn.
Tôi cau mày trước kết quả tìm được. Chẳng có gì. Không Facebook, không MySpace, không blog. Như thể con người ấy không hề tồn tại.
“Quá khứ của cậu ra sao hả Patch?” Tôi lẩm bẩm. “Thực sự thì…cậu là ai?”
Nửa tiếng sau, tôi đã đọc được vài bài phê bình và mắt mờ dần đi. Tôi tra cứu tất cả các tờ báo ở Maine. Có một đường dẫn đến trang web của trường dự bị Kinghorn. Phải mất vài giây tôi mới nhớ ra cái tên quen thuộc này: Elliot đã chuyển đến từ trường dự bị Kinghorn. Tôi chợt nảy ra ý định ngó qua nó xem sao. Nếu ngôi trường đó ưu tú như Elliot từng tuyên bố, có lẽ nó sẽ có một trang web đàng hoàng.
Tôi nhấp chuột vào đường dẫn đó, mở trang lưu trữ và ngẫu nhiên chọn ngày 21 tháng 3 năm nay. Trong giây lát tôi đã trông thấy một tiêu đề:
NGHI PHẠM TRONG VỤ GIẾT NGƯỜI
TẠI TRƯỜNG DỰ BỊ KINGHORN
Tôi kéo dịch ghế lại gần hơn, mắt sáng bừng khi nhìn thấy một thứ ít ra cũng thú vị hơn những bài phê bình kịch nghệ.
Một nam sinh mười sáu tuổi của trường dự bị Kinghorn vốn bị tình nghi trong vụ án Vụ thắt cổ trường Kinghorn đã được thả và tuyên bố vô tội. Khi thi thể của nữ sinh mười tám tuổi Kirsten Halverson được tìm thấy trong tư thế treo cổ tại khuôn viên tường Kinghorn, cảnh sát đã hướng mũi nghi ngờ vào nam sinh năm hai Elliot Saunders. Người ta đã thấy Saunders đi với nạn nhân vào đêm cô gái chết.
Óc tôi mãi mới tiêu hóa được thông tin này. Elliot bị nghi ngờ có liên quan đến một vụ giết người?
Halverson làm nhân viên phục vụ ở quán Blind Joe’s. Cảnh sát xác nhận rằng có người đã nhìn thấy Halverson và Saunders đi với nhau trong khuôn viên trường vào đêm thứ bảy. Đến sáng chủ nhật thì thi thể của Halverson được phát hiện. Tuy nhiên, Saunders đã được thả vào chiều thứ hai sau khi một bức thư tuyệt mệnh được tìm thấy trong căn hộ của Halverson.
“Có tìm thấy gì hay ho không?”
Tôi giật mình khi giọng nói của Elliot vang lên đằng sau. Tôi quay ngoắt lại và thấy cậu ta đang dựa vào khung cửa, mắt nhíu lại, vẻ mặt khá nghiêm nghị. Tôi bỗng thấy lạnh người, mặt tái đi.
Tôi khẽ đẩy ghế sang bên phải, cố che đi màn hình máy tính. “Mình…mình vừa làm xong bài tập. Cậu thì sao? Cậu đang làm gì thế? Mình không nghe thấy tiếng cậu vào. Cậu đứng đó bao lâu rồi?” Giọng tôi lạc hẳn đi.
Elliot rời khỏi khung cửa và bước vào. Tôi mò mẫm tìm nút tắt màn hình.
Tôi nói: “Mình đang cố tìm chút cảm hứng để viết bài đánh giá kịch nộp cho biên tập viên tối nay”. Tôi vẫn đang nói quá nhanh. Cái nút ở đâu nhỉ?
Elliot nhòm qua tôi. “Đánh giá kịch?”
Những ngón tay tôi chạm phải một cái nút, và tôi nghe tiếng màn hình phụt tắt. “Mình xin lỗi, cậu vừa nói là cậu đang làm gì ở đây thế?”
“Mình đang đi qua thì thấy cậu. Có gì không ổn sao? Cậu có vẻ…hơi hốt hoảng.”
“À…chắc là mình bị tụt huyết áp”. Tôi vơ giấy tờ sách vở thành một đống và nhét vội vào ba lô. “Mình chưa ăn gì từ sau bữa trưa”.
Elliot ngoắc cái ghế gần đó và kéo nó đến bên tôi. Cậu ta ngồi ngược trên nó và ghé lại gần, xâm phạm khoảng không gian riêng tư của tôi. “Mình giúp cậu viết bài đánh giá nhé!”
Tôi né ra. “Chà, cậu tốt thật đấy, nhưng giờ mình đang định nghỉ. Mình phải đi kiếm thứ gì đó để ăn. Đã đến lúc nghỉ ngơi rồi. ”
“Để mình mua đồ ăn tối cho cậu”, Elliot nói. “Gần đây có quán ăn nào không?”
“Cám ơn, nhưng mẹ mình đang đợi mình. Bà đã đi vắng cả tuần và tối nay sẽ về”. Tôi đứng dậy và cố vòng qua cậu ta. Cậu ta giơ điện thoại ra, nó đụng vào rốn tôi.
“Gọi cho bà đi.”
Tôi nhìn xuống điện thoại và nặn ra một cái cớ. “Mình không được phép đi chơi nếu hôm sau phải đi học.”
“Hãy nói dối, Nora. Hãy nói với bà rằng việc làm bài tập mất nhiều thời gian hơn cậu tưởng. Hãy nói với bà rằng cậu cần ở thư viện thêm một tiếng nữa. Bà sẽ không nhận ra sự khác biệt đâu”.
Giọng Elliot bỗng có vẻ cáu kỉnh mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe thấy. Đôi mắt xanh lá của cậu ta ánh lên một tia nhìn lạnh lẽo rất lạ lùng, còn miệng thì mím lại.
“Mẹ mình không thích mình đi chơi với những anh chàng bà chưa từng gặp,” tôi nói.
Elliot cười, nhưng nụ cười đó chẳng hề ấm áp. “Chúng ta đều biết cậu không quá quan tâm đến những quy tắc của mẹ cậu, vì tối thứ bảy vừa rồi cậu đã đến Delphic với mình mà?”
Tôi lẳng lặng khoác ba lô lên vai, túm chặt cái quai rồi len qua Elliot và bước vội ra khỏi phòng máy. Tôi chợt nhận ra rằng nếu cậu ta bật màn hình lên, cậu ta sẽ nhìn thấy bài báo – nhưng lúc này tôi chẳng thể làm gì khác được.
Đi được nửa đường đến bàn tư liệu, tôi khẽ liếc về phía sau. Những bức tường bằng kính dày cho thấy trong phòng máy không có ai. Chẳng thấy Elliot đâu cả. Tôi quay lại chỗ máy vi tính, nhìn quanh cảnh giác đề phòng cậu ta trở lại. Tôi bật màn hình lên, bài báo về vụ giết người vẫn còn đó. Gửi một bản sao đến cái máy in gần nhất, tôi nhét nó vào trong kẹp tài liệu, tắt máy rồi chạy vội ra ngoài.