au lần ốm đến nỗi phải cạo trọc đầu, đưa đi Sài Gòn chữa trị mất mất tháng trời, bé Út cũng lần hồi phục với một vết thương lòng khủng khiếp, không bao giờ nguôi ngoai và cũng không biết tỏ cùng ai. Từ đó, không hiểu sao khi nhìn thấy bất kỳ một gã đàn ông nào, những hình ảnh gớm ghiếc về người ba nuôi lại hiện về trong đầu bé Út. Khi dẫn Út về, má đưa qua chào cha. Nhìn đứa con gái ruột ốm o xanh xao, mặt mày ngơ ngơ thất thần, đứng trước mặt cha ruột mà nó cứ cúi gầm mặt nhìn xuống đất, cạy miệng cũng chỉ lí nhí nói trong họng được mỗi câu chào cha, ông Hội đồng Mía nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu. Không hiểu ông nghĩ gì. Cầm cây gậy ba-toong bóng loáng trên tay quơ quơ trước mặt má, cha nói. - Thôi đưa nó về bên này ở…. - Dạ,…. Nhưng…. – Má sẽ sàng. - Không nhưng gì hết, - Cha sẵng giọng, - Đưa nó về bên đây. Con gái lớn rồi ở tuốt miệt ngoài đó sanh hư. - Dạ, - má cúi đầu. Nhà này từ lớn đến bé, từ bà chánh đến các bà thứ cho đến các anh, chú … xưa nay đâu có ai dám cãi lời cha đâu. Một tiếng của cha là quân lệnh như sơn, tất cả răm rắp phải nghe, huống hồ má lại là người ở trong nhà thì làm sao mà dám cãi. Cuộc đời bé Út từ đó thay đổi hẳn, khổ ải hơn rất nhiều, mà thật ra thì đã thay đổi từ sau cái lần đau đớn ấy. Út lớn rồi. Đến bây giờ thì Út mới có dịp sống gần cha, trong một nhà với người cha ruột uy quyền này. Năm ấy Hội đồng Mía cũng đã gần 70, và thói trăng hoa cũng suy giảm sau mấy chục năm ăn chơi trác táng, phung phí sức lực. Má của Út là người đàn bà cuối cùng của cha, vì thế mà Út có tên là Út. Một căn nhà gạch thật rộng, cao hai tầng, xây theo kiểu tây nằm đường bệ giữa khu vườn xanh um, bát ngát. Nhà có một con gà trống cồ bằng sứ nằm tuốt trên đỉnh, đây là món quà có từ hồi những năm 1930 khi quan chủ tỉnh người Pháp vốn là bạn thân của cha, sau khi hồi cố hương có tặng cha con gà này làm kỷ niệm. Bên trong nó có gắn một cổ máy lên dây thiều, để mỗi sáng gà gáy te te nghe rất ngộ. Con gà này một thời là niềm kiêu hãnh của ông hội đồng, chiều chiều rảnh là cha hay chống gậy ra trước nhà, vuốt râu ngắm ngía con gà, gật gù ra vẻ đắc ý lắm. Đến trào năm năm mươi, một sáng mãi không nghe thấy gà gáy. Người gác gà quên không vặn dây thiều đã bị cha đánh cho một trận thừa sống thiếu chết, đòi đuổi đi, anh ta van lạy mãi cha mới cho ỡ lại. Thế rồi chưa đầy một tuần sau, hôm đó trời mưa rất to, do sợ trễ giờ gá gáy, anh ta leo lên vặn giây thiều, lóng ngóng thế nào, trựơt chân té chết, biến thành ma oán. Trong đại gia đình của cha hết Bà Ba lại bà Tư ốm lăn lóc, thêm một người anh và một người chị chết bất tử, cha phải rước thành tuốt từ ngoài trung vào cúng kiếng, trấn ếm mới êm và từ đó cha bỏ hẳn chuyện thuê người gác gà vặn giây thiều. Tuy nhiên hồi gắn con gà lên làm rất công phu, phải đập hẳn một mảnh gạch để xây lại nên nay nếu đập bỏ nhìn nó trơ trơ thế nào nên đành để thôi. Sau mấy mươi năm con gà trống bằng sứ vẫn vêu mỏ kiêu hãnh nhìn lên trời nhưng nó cứ bạc dần, bạc trơ hết cả màu sứ, nay trông thảm hại lắm. Nhu con gà rù vậy, đấy là lời nói thầm của mọi người chứ không ai dám nói trước mặt cha, có mà bị đánh chết. Trên căn nhà lớn ấy, ngoài gian giữa để thờ và một cái phòng khách thật to với những bộ ghế cẩn xà cừ bóng loáng, sang trọng ở giữa thì chỉ có duy nhất hai phòng ngủ của cha ở lầu một, còn lại là những dãy nhà dọc ngang bao xung quanh là nhà của các bà chánh, thứ cùng các anh chị lớn. Tuy là đại điều chủ miệt vườn, giau có nổi tiếng nhưng khi trẻ cha của Út có thời gian đi học bên Tây, biết nhiều. Nét văn minh duy nhất mà cha còn duy trì lại là cho tất cả con cái ăn học nên người. Đứa nào có chí tiến thủ, ham học là cha đồng ý ngay. Ngược lại đứa nào lớn không muốn học chỉ muốn làm ăn thì cha cho vốn mua ruộng vườn tách riêng ra để làm ăn. Nhờ vậy, điều mà đến bây giờ Út vẫn biết ơn cha là, tuy là thứ con rơi tôm tép lép vế nhất trong nhà nhưng sau khi về ở với cha thì Út vẫn được đi học, dù là con gái, trong khi các chị lớn tuổi chưa mười tám thì đa phần đã lấy chồng. Chị nào cũng có chồng làm lớn trên quận hoặc buôn bán lớn ngoài chợ, hoặc cũng là chủ đất cò bay thẳng cánh, chỉ có điều chị nào cũng dốt, đa phần là biết chữ lom lem và quên nhiều hơn nhớ. Cha ư? Một người đàn ông mập mạp, thấp đậm, người tròn. Tóc bạc búi ngược, chòm râu dài tới ngực. Mặt mày phương phi, giọng nói sang sảng và đi đâu làm gì, kể cả khi ngồi ăn cơm lẫn khi vào giường ngủ rồi bao giờ cũng có cây gậy ba toog bên mình. Cây gậy bằng gỗ tếch có cẩn ngà voi và xà cừ, trên đỉnh gắn một viên ngọc trai lớn, quanh đầu bọc vàng 18, chạm trổ rồng trên thân gậy, nghe đâu lấy mẫu từ Hoàng Gia Xiêm đem về. Cây gậy bóng loáng, dài thượt là nỗi ám ảnh kinh hoàng, sợ hãi của cả đại gia đình cha lẫn kẻ ăn người ở, tá điền cho đến người dân trong vùng Hàm Luông. Hễ ai không làm cha vừa ý thì cứ gậy ba toong ba đập cho thừa sống thiếu chết. Có lần đánh người ở mạnh đến nỗi văng cả viên ngọc gắn trên đầu gậy. Người dân vẫn gọi lén cha sau lưng là Hội đồng Cọp. Sau cái lần Việt Minh nổi dậy năm 1945, lấy ruộng đất chia cho người nghèo và tý nữa bắt được cha để đem ra xử tội, may mà cha cải trang thành thường dân, bám ghe mành, lén trốn kịp về Sài Gòn ở mấy năm liền mãi sau 1954 khi Việt Minh tập kết rút hết ra Bắc thì cha mới dám về xứ lại và từ đó, cha ít sử dụng cậy gậy ấy với người ngoài nữa. Thế nhưng trong nhà thì từ bà chánh cho đến các bà thứ lẫn đám con cái vẫn luôn luôn bị nếm mùi ở cây gậy ấy nếu không làm cha vừa lòng. Nè … nè … không vâng lời … nè… Tiếng gậy vung rít lên kèm theo những tiếng kêu thét nhỏ nức nở trong đau đớn. Không ai dám kêu to bởi cha rất ghét điều ấy và đã làm cho cha ghét thì còn bị ăn đòn nhiều hơn. Út cũng dăm ba lần bị đòn rồi nên nhiều năm sau này khi đã trở thành một người đàn bà tóc bạc của tuổi năm mươi, thỉnh thoảng trong giấc mơ của mình, cô Út vẫn còn nghe tiếng gậy rít lên. Trong đầu Út rõ mồm một, từng vết khắc, mảnh cẩn lẫn viên ngọc lớn trên đầu chiếc gậy ba toong của cha. Năm Út lên năm tuổi, có sự dèm pha của các bà vợ mà cha cho hai má con Út ra ngoài gò làm nhà ở chung với mọi người, năm Út lên mười ba tuổi thì cha lại bắt má đem Út về ở chung với đại gia đình. Cuộc sống ngoài gò, tuy có phần cơ cực nhưng rất chan hòa, đều là dân nghèo làm ruộng với nhau nên mọi người rất đùm bọc yêu thương nhau. Tuy má Út vẫn mang danh là vợ của Hội đồng Mia, nhưng bà con xung quanh đều hiểu rằng cảnh vợ hờ con tạm, cơ cực hơn cả kẻ ăn người ở khác trong nhà bởi sự ghen ghét của những bà vợ khác. Vì thế mọi người rất thương và không phân chia gì. Tuổi thơ êm đẹp lội ruộng bắt cá, vô đìa giăng câu, đêm nằm ngắm sao trời với những ước mơ bay bổng của Út chính là thời gian ở ngoài gò. Má cả ngày vô trong để hầu hạ các bà, nhưng tối khuya má vẫn về với Út. Và dù cho có khuya lắc khuya lơ thì bao giờ Út cũng thức, chong đèn chờ má về, hôm nào má về sớm mang theo ít đồ thừa trong nhà cha thì hai má con còn có bữa ăn khuya thú vị, còn nếu không cũng là bữa cơm mắm cá ấm cúng của hai má con. Út thương má lắm. Cả đời làm phận kẻ tôi đòi cho gia đình cha từ hồi còn nhỏ cho đến khi lớn, được cha chú ý, thương và sanh một đứa con gái là Út, nhưng địa vị của má trong căn nhà ấy vẫn không ngóc đầu lên hơn mấy phân tay. Vẫn là kẻ ăn người ở mà thậm chí còn bị các bà vợ lớn hành hạ nhiều hơn vì tức tối ghen tuông thấy má được cha thương nhiều. Đi, lúc nào cũng lật đật, mặt luôn cúi gằm nhìn xuống đất, lớn lên có hiểu biết Út còn nhận ra một điều là không bao giờ trong đời mình mà má dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt ai. Ăn nói luôn thì thầm và luôn miệng dạ, thưa, bẩm, riết thành câu nói quen miệng, đến nỗi khi chết cũng vậy. Nhìn má nhiều lúc Út thấy thương trào nước mắt. Sao cuộc đời má khổ ải quá, khổ từ khi mới sanh đến khi chết, công lý trên đời này ông trời bỏ đâu hết trơn rồi. Nghe con gái than oán, má ôm con, vuốt vai vỗ về, chắc tại khiếp trước má con mình nặng nợ ai đó nên kiếp này phải trả con ạ, trách làm chi mang tội. Út không tin, không thể nào một con người khốn khổ và hiền lành như má mà ông trời lại nỡ lòng nào đày đọa như vậy, chẳng qua ông ấy thiên vị người khác. Mà có lẽ vậy thiệt phải không má?