- 12 -
Về những đổi thay…

     ói cho ngay, một thành phố đang được tôn vinh bằng mỹ từ “Hòn ngọc Viễn Đông”, nếu một khi bị xuống cấp tệ hại đến như thế thì cũng phải mất một thời gian dài.
Vào thời điểm cuối tháng Tư-1975, Sài Gòn đã không chìm trong khói lửa như nhiều nơi khác. Một vài quả đạn pháo kích nổ trong sân bay hay bên ngoài thành phố không làm sứt mẻ đi chút nào những dinh cơ tráng lệ, những con đường tình mơ mộng đã được ghi vào nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật mà sự lan tỏa và truyền tụng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ..
Về mặt tâm thức, ở Sài Gòn cũng như những nơi khác, nhiều người cũng đã thở phào khi thấy cuộc chiến triền miên, vô vọng nay đã chấm dứt. Tính sổ ra thì kẻ thắng, người thua dẫu sao cũng đều là đồng bào ruột thịt cả. Vậy tại sao khi tiếng súng đã im rồi, cả hai phía lại không rũ bỏ hết những hàng rào ngăn cách do cuộc chiến đã dựng lên để cùng nắm lấy tay nhau mà xây dựng lại đất nước. Người yêu nước thương nòi, hẳn ai mà không nghĩ thế.
Vì vậy, trong giờ phút lịch sử đã sang trang, dân chúng khắp mọi nơi gần như đã đổ hết ra đường phố để chứng kiến giây phút lịch sử, giây phút người Việt Nam không còn cầm súng bắn giết nhau, không còn bị những thế lực ngoại bang thúc ép để tiếp tục cuộc chiến nồi da xáo thịt. Đó là chưa kể, cũng vì tò mò, người dân thành phố muốn nhìn quang cảnh bộ đội tiến vào Sài Gòn, xem “họ” ra sao, nhân dáng, thực lực thế nào, và thái độ cũng như cung cách hành xử của họ trong cương vị của kẻ chiến thắng. Phải nói rõ những tâm trạng ấy để xóa đi cái luận điệu huênh hoang tuyên truyền của báo chí Nhà Nước khi nói rằng tất cả dân chúng Sài Gòn đã đổ hết xuống đường để “hân hoan chào đón đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn ra khỏi ách xâm lược Mỹ!”.
Có thể nói, ngoại trừ những kẻ nằm vùng thì dĩ nhiên là mừng vui, hân hoan, còn tuyệt đại đa số dân chúng thì làm gì có ai nôn nao chờ đón quân CS tiến vào Sài Gòn. Chuyện ấy hư thực thế nào, tưởng bây giờ thì cũng đã rõ rành rành ra rồi. Nó cũng đã rõ như cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đội danh nghĩa dân chúng miền Nam nổi dậy cùng với lá cờ khác biệt của nó đã tan xèo như bong bóng mà ngay đến cả nhiều nhân vật chủ chốt của Mặt Trận này cũng phải thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng!
Tuy nhiên, chỉ mới một, hai ngày sau 30-4-75, thì đường phố Sài Gòn dĩ nhiên vẫn đỏ rực mầu sắc của hai thứ cờ. Một lá thì nền đỏ, trên có sao vàng, còn một lá thì nền nửa xanh nửa đỏ, giữa cũng có sao vàng. Mãi cho tới lúc này, dân Sài Gòn cũng chưa phân biệt được anh nào là bộ đội đến từ miền Bắc, và anh nào là lính của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Mà cũng chẳng ai cần thấy phải rạch ròi về cái sự ngoắt ngoéo lịch sử này vì dẫu sao thì chế độ miền Nam cũng đã sụp đổ rồi. Các vai trò trên sân khấu chính trị, những chiêu bài, những danh xưng dù tự phát hay được nhào nặn từ miền Bắc xa xôi ….tất cả rồi cũng trôi vào quá khứ.
Lòng dạ mọi người bây giờ chỉ còn thấy phân vân: có thực là mình sẽ không bị phân biệt đối xử hay là sẽ rơi vào cái cảnh “hàng thân lơ láo, phận mình ra sao” mà thôi.
Sáng ngày 1 tháng 5, tôi đạp xe một vòng để quan sát thành phố đang đổi chủ và tình cờ đi ngang qua ngôi trường Nguyễn Bá Tòng ở đường Bùi thị Xuân.
Trong sân trường, tôi thấy người ta tụ tập đông nghẹt, hỏi ra mới biết là dân chúng thuộc khu vực này được lệnh tụ tập để tham dự mít tinh chào mừng Ngày Quốc Tế Lao Động. Vì tổ chức vội vã, nên trong sân trường không có khán đài cho quan khách ngồi tham dự mà cũng chẳng thấy có biểu ngữ giăng ngang chào mừng ngày lễ lớn.
Chen chân sát vào nơi tổ chức, tôi chỉ thấy có mấy toán lố nhố xếp hàng nom không mấy nghiêm chỉnh và về ăn mặc thì nom rõ ra là một lực lượng ô hợp. Kẻ mặc quần dài, người quần đùi, kẻ đi dép, người chân đất. Toàn bộ võ khí thì nom rất thô sơ, hầu hết đều đeo lựu đạn và mang súng trường. Có người lại còn cầm cả gậy tầm vông hay mã tấu nữa. Họ đứng trước một rừng cờ do dân chúng được huy động mang theo. Đám cán bộ cách mạng thì lác đác dăm bẩy người. Họ dễ bị nhận diện do ở chiếc quần dài đen và áo cánh đen, trên cổ có khoác thêm cái khăn rằn ri, biểu tượng của những cán bộ ở R (tức Rừng) về. Lại cũng có cả những viên cán bộ đến từ miền Bắc, đầu đội nón cối, chân đi dép râu và mặc quần áo mầu xanh bộ đội nữa.
Tới giờ khai mạc, tiếng hô Chào cờ vang lên nghe hùng dũng mặc dù chẳng có đến một cái loa phóng thanh phụ trợ. Thế rồi những tiếng hát cất lên. Lời lẽ lộn xộn. Chỗ này hát khác chỗ kia. Như thể:
- Vùng lên, nhân dân Việt Nam anh hùng…
- Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước…
- Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
Những tiếng cất lên loạc choạc ấy bỗng biến bầu không khí đang trang nghiêm trở thành lộn xộn rồi nhốn nháo. Một cán bộ chỉ huy của nhóm nào đó vội vã lớn tiếng ra lệnh:
- Quốc ca! Quốc ca trước!
Rồi như thấy mặt nhiều người ngớ ra, ông ta lại nhắc nhở:
- Đoàn quân Việt Nam! Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới ấy! ….Không phải Vùng Lên Nhân dân Miền Nam anh hùng…
Vài tiếng hát chưa kịp ngưng, sau lời giải thích bỗng như bị teo lại rồi tắt ngóm. Mọi người còn ngơ ngác nhìn nhau thì viên chỉ huy lại cao giọng:
- Nào..Một …hai…ba….Đoàn quân Việt Nam đi sao vàng phấp phới...Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…Cờ in máu….
Có vài ba tiếng lẻ tẻ phụ họa nhưng phần đông chẳng ai thuộc để hát theo, thậm chí có người còn chưa nghe tới bài hát này lần nào. Cho nên, lệnh hát thì hô lên rồi mà chỉ thấy mấy người ở hàng đầu lí nhí cất tiếng lên, nghe đã rời rạc mà lại còn sai cả điệu nữa. Tôi bỗng mỉm cười, tự nhủ thầm:
- Bài này mình thuộc và còn hát đúng hơn cả cái đám hiện diện ở đây.
Đúng như vậy! Là dân Hà Nội từ năm 1945, ai chả biết bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Nhưng những du kích ở miền Nam hay ngay cả cánh quân gọi là Chủ Lực Miền hỏi có mấy ai biết đến bài này. Nó đã được giấu biến kể từ khi xuất hiện những cuộc nổi dậy được tô vẽ là do quần chúng tự phát đứng lên đấu tranh để giải phóng miền Nam.
Phải chứng kiến màn chào cờ độc đáo như vừa kể, đầu óc tôi bỗng nẩy sinh một ý tưởng bất ngờ: “Chuyện lợi dụng danh nghĩa thì trong đám lãnh đạo, ai cũng biết rồi. Nhưng Sài Gòn mới giải phóng được đúng có một ngày mà đã toan tính triệt nhau sớm sủa đến vậy sao?”
Tôi không biết mấy anh chiến sĩ, du kích đứng trong hàng ngũ vừa rồi đã suy nghĩ gì về cái sự thay đổi bài ca, nhưng cứ nhớ đến những vẻ mặt ngỡ ngàng của họ và những tiếng hát lúng búng trong miệng không rõ nên lời, tôi không khỏi thấy ngậm ngùi. Tất cả đều chỉ là những người dân hiền lành chất phác bị xúi giục hay thúc đẩy lao vào cuộc chiến mà thôi.
Cho nên, hẳn họ cũng sẽ ngỡ ngàng khi trong quá khứ họ vẫn chỉ có một bài hát chính thức: “Vùng lên! Nhân dân miền Nam anh hùng! Vùng lên! Xông pha vượt qua bão bùng….” mà họ vẫn thường hùng dũng cất lên trong bao nhiêu năm dài băng rừng, xuyên núi, lao mình vào khói lửa.
Vậy mà bây giờ, chỉ trong khoảnh khắc đã phải đem sổ toẹt hết! Rồi lập trường có phải thay đổi không, tổ chức ra sao, lãnh đạo thế nào…..tất cả đều thay đổi hết sao? Ôi, niềm tự hào cao ngất và lòng tin tưởng dũng mãnh trong trái tim một con người đâu có phải là thứ hàng hóa vật chất mà dễ đổi thay trong một sớm một chiều.
Sau này tôi lại biết thêm rằng chuyện xẩy ra ở sân trường Nguyễn Bá Tòng bữa hôm ấy chỉ là một sự nôn nóng có tính cục bộ. Việc xóa bỏ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đương nhiên là một nhu cầu có tính sách lược nhưng làm gì thì cũng cần phải có lớp lang, lộ liễu quá sẽ chẳng hay ho gì.
Quả nhiên, chỉ ít lâu sau đó, nào việc tổ chức Hội Nghị Hiệp Thương thống nhất đất nước, nào tổ chức Tổng Tuyển Cử Quốc Hội trên cả nước, nào đổi tên nước thành Cộng Hòa XHCN/VN, nào đổi tên Sài Gòn thành T/P Hồ Chí Minh…v..v..tất cả diễn ra một cách tuần tự, đầy đủ ý nghĩa ngõ hầu êm thắm xóa đi một thực thể vốn đã từng làm chóa mắt biết bao nhiêu chính trị gia khù khờ trên thế giới.
Đến ngay những người trong cuộc, chắc hẳn cũng đã nếm mùi cay đắng của sự ruồng bỏ phũ phàng. Tại một nhà in Hợp Doanh ở đường Phạm Ngũ Lão, tôi đã thấy mấy bà cán bộ phụ nữ có vẻ thuộc thành phần cao cấp thường hay lui tới để lo chăm sóc tờ báo ra hằng tuần lấy tên là tờ Phụ Nữ Giải Phóng, cơ quan của Hội Phụ Nữ Giải Phóng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Hẳn họ có biết bao niềm vui sướng và tự hào khi tờ báo trước đây ở trong khu chỉ xuất bản lúi xùi, in ấn xấu xí, cốt ra cho có mặt, nay thì ấn loát đẹp đẽ, phát hành rộng rãi công khai ở Sài Gòn.
Thế nhưng đứa con tinh thần của những chị Bẩy, chị Chín, những vị cán bộ cấp cao ấy cũng chẳng tồn tại được bao lâu. Bởi nó không thể hiện diện cùng một lúc với tờ Phụ Nữ, cơ quan của Hội Phụ Nữ Trung Ương ấn hành ở Hà Nội. Làm gì có chuyện “một quốc gia tồn tại trong một quốc gia được”. Cộng sản là độc quyền! Các bà, các chị vốn tự hào mình giác ngộ cách mạng, vậy mà có một điều giản dị như thế cũng không nghĩ ra để còn cố vớt vát vài hy vọng hão huyền.
Cho nên tờ báo của các chị đã âm thầm dẹp tiệm sau ngày Bầu cử Quốc Hội Thống Nhất Đất Nước và những con người phụ nữ đầy nhiệt huyết kia, tôi không biết họ đã đi đâu, về đâu. Nhưng chắc số phận của họ cũng sẽ giống như những huyền thoại về đoàn quân tóc dài của Bến Tre đất thép, thành đồng do chị Ba Nguyễn thị Định làm tư lệnh. Mọi tài liệu ca ngợi thành tích, tuyên dương công trạng của các “chiến sĩ gái” trong thời chiến, sau cuộc tổng tuyển cử tất cả cũng đã tan xèo theo mây khói.

*

Nói đến bầu cử, tôi lại nhớ đến cuộc mít tinh lớn lao được tổ chức khoảng giữa năm 1976 để chào mừng kết quả cuộc Tổng Tuyển cử trên cả nước. Hầu như tất cả nhân dân thành phố Sài Gòn đều được huy động tập trung tại đường Thống Nhất để vừa nghe diễn văn vừa tham gia diễu hành.
Học sinh các lớp trong trường của tôi hôm đó cũng phải tham dự và được lệnh của Ban Giám Hiệu tập trung ở trước cổng trường ngay từ sáng sớm, lúc chưa tỏ mặt người. Mỗi trò được phát một lá cờ giấy cầm tay. Dĩ nhiên là chỉ có cờ đỏ sao vàng. Ngoài ra, dẫn đầu mỗi lớp học còn có một tấm biểu ngữ do hai trò giăng ngang, trên có hàng chữ: “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự Do”. hay là: “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội”.
Đám giáo viên chúng tôi cũng được cắt cử đi theo để trông nom học trò và giữ trật tự. Con đường Thống Nhất đông nghẹt những người với cờ xí, biển ngữ và những bó hoa cầm tay. Ở xế vườn hoa trước Dinh Độc Lập, phía có đặt những trụ sở của các công ty thì ở ngay sát bờ tường, tôi thấy Ban Tổ Chức đã dựng lên nhiều gian chạy dài, quây kín bằng những tấm cói hay tấm bạt nylon xanh trên có kẻ những chữ bằng vôi bột thật to: “Nhà Đái Nam”, “ Nhà Đái Nữ”.
Phải thức dậy đi biểu tình từ sáng sớm, lại đứng phơi nắng đến xế trưa, cái khoản giải quyết nhu cầu cá nhân dĩ nhiên là rất cần thiết. Tổ chức được nơi giải tỏa như thế cũng đã là chu đáo quá rồi, mặc dù nó vẫn còn có giới hạn. Bởi chỉ đái thôi, không được ỉa. Tôi biết chắc như vậy vì có nhiều nơi nếu cho phép “đủ lệ bộ” thì đã ghi rõ ràng:“ Nhà Đái-Ỉa Nam”, “Nhà Đái-Ỉa Nữ”. Chữ nghĩa cách mạng vừa gọn ghẽ, vừa rạch ròi, giới bình dân tất ai cũng hiểu. Dân Sài Gòn thoạt nghe thì có thấy chối tai, nhưng riết rồi cũng quen đi.
Sau này, dân chúng còn kháo nhau bệnh viện Từ Dũ cũng đã đổi bảng hiệu trở thành “Xưởng Đẻ”. Thoạt nghe tôi đã không tin, nhưng cách tốt nhất để kiểm chứng coi đúng hay sai là phải đi đến tận nơi tìm hiểu. Vì thế tôi đã tạt qua bệnh viện này vài lần, vừa nghe ngóng, vừa hỏi thăm nhưng không có ai xác nhận với tôi là bệnh viện này đã đổi tên cả. Ngay cả cái bảng hiệu chắn ngang trên cổng vào, tôi vẫn thấy cái tên cũ là Bệnh Viện Từ Dũ, với mầu sơn cũ kỹ chưa có dấu vết gì gọi là đã được chỉnh sửa.
Như vậy, “xưởng đẻ” là chuyện bịa đặt, mua vui, cũng có thể là có ý đồ bôi bác. Rồi sau này, vì chờ đợi mãi không thấy cái bảng “Xưởng Đẻ” ấy trương lên thì dư luận lại viện cớ là do dân chúng chống đối dữ quá nên nhà nước bỏ ý định đổi tên. Nhưng lại bịa chuyện nữa! Làm gì có chuyện cái nhà nước này “sợ dân chống đối”!
Trong quá khứ, còn có biết bao chuyện động trời gấp cả triệu lần như thế mà vẫn được đem thi hành, Đảng và Nhà nước đâu có sợ hãi gì ai?
Lấy ngay một ví dụ cụ thể. Cũng vào thời gian khoảng cuối năm 1976, các nhà in, các tòa báo, các cơ quan nhà nước được lệnh ban ra là:
“Kể từ nay, mọi dấu gạch nối đặt trong các tên riêng như Hà-Nội, Bắc-Ninh, Hải-Phòng…. đều phải loại bỏ để viết thành Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Phòng. Nhưng đặc biệt dấu gạch nối giữa hai chữ Trường-Chinh thì phải ngoại trừ, nghĩa là khi viết ra thì vẫn phải có gạch nối!”
Trường Chinh là bí danh của ông Đặng Xuân Khu, khi đó (1976) đang là Ủy viên Trung Ương Đảng kiêm Chủ tịch Quốc Hội Thống Nhất, và sau này thăng lên Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước, rồi Tổng Bí Thư Đảng CSVN thay thế Lê Duẩn khi ông này qua đời.
Mọi thứ tên riêng đều phải thay đổi cách trình bầy, trừ tên một người! Hỏi có khi nào một con người lại dám có thái độ ngang nhiên và ngạo mạn, ngồi xổm một cách chính thức và công khai lên dư luận cả nước đến như vậy không? Ấy vậy mà báo chí cứ phải răm rắp tuân theo. Cái sự “phong kiến” mà chế độ này muốn đánh đổ thì chính nó lại tỏ ra còn phong kiến hơn ai hết!
Khốn khổ nhất là thợ xếp chữ ở các nhà in trong Nam. Sơ xẩy một chút, bỏ hay không bỏ dấu gạch nối cho đúng quy định, lập tức sẽ có vấn đề ngay, bởi trên đầu của họ vẫn còn bị lơ lửng treo lên bản án có tên là “ tàn dư Mỹ Ngụy”.

*

Nói chuyện ngôn ngữ thì hầu như dân chúng càng sống lâu năm dưới chế độ XHCN thì cung cách vận dụng chữ nghĩa càng mang vẻ sắc bén và cay độc. Cụ thể nhất là cứ nhìn vào con số đông đảo của những người từ miền Bắc kéo vào thăm bà con thân nhân trong Sài Gòn để hàn huyên trăm nghìn nỗi nhớ hay tíu tít chuyện trò. Ngôn ngữ dễ dàng bộc lộ nhất là ở trong những dịp này. Vì thế tôi cũng đã học được nhiều từ ngữ mới hay những cách ví von. Như nghề dạy học, ở trong Nam cùng lắm thì chỉ gọi là “nghề bán cháo phổi”, nhưng ngoài Bắc thì nói là “đem cấu phổi bỏ vào dạ dầy!”. Thật kinh khủng. Chữ nghĩa cụ thể và tàn bạo cứ như những mũi tên phóng thẳng vào tim óc người nghe.
Tôi cho rằng, có lẽ khi con người phải triền miên đương đầu với những nỗi khó khăn trong đời sống thì bản năng của nó sẽ thường trực trỗi dậy để sẵn sàng thích ứng mà tồn tại. Ngôn ngữ sử dụng hàng ngày vì thế cũng phải thích ứng theo.
Buổi mít tinh chào mừng thắng lợi của cuộc Bầu Cử Quốc Hội Thống Nhất vào sáng hôm ấy không xẩy ra “sự cố” đáng tiếc nào. Riêng lớp của tôi, thì “khâu” trật tự tưởng là sẽ không “giản đơn” nhưng lại được các học sinh chấp hành “tốt”. Tinh thần kỷ luật, trật tự rất đáng “biểu dương”. Các Thầy giáo, cô giáo cũng “đảm bảo” thi hành “tốt” nhiệm vụ được giao phó…
Đấy là đại cương nội dung phần báo cáo mà tôi đã phải viết ra để nạp cho Ban Giám Hiệu nhà trường. Xét ra, mới chỉ có chưa đầy một năm làm việc trong vai trò Tổ trưởng Nhóm Lý-Hóa-Sinh mà chữ nghĩa của tôi đã có phần phong phú và “nhuần nhuyễn” thêm ra. Hầu như những từ ngữ mà tôi đã sử dụng khi cần viết bản tường trình, làm biên bản hoặc giáo án, chúng đã có vẻ như trôi tuồn tuột ra khỏi ngòi bút mà không bắt tôi phải nghĩ ngợi gì.
Điều đáng sợ hơn cả là tôi lại biết rõ những gì tôi vừa viết ra chỉ là những chuyện tầm phào đến chính tôi cũng không tin ở nó. Bởi nó không mang bất cứ một tinh thần liên đới trách nhiệm nào của người viết đối với nội dung vừa được chính hắn viết ra. Khi chợt nhận ra điều này (mà bao lâu nay tôi không để ý), tôi bỗng hốt hoảng như một kẻ chợt phát hiện ra rằng mình đang bị lây lan bởi một căn bệnh hiểm nghèo.
Nó thực sự là thứ bệnh gì, tôi không thể nói rõ, nhưng hầu như tôi thấy mình đã bắt đầu ứng xử rất giống với những bà con, họ hàng thân thuộc đến từ miền Bắc. Họ đa phần chẳng có quyền cao chức trọng gì để mà phải gìn giữ, nhưng rõ ràng hầu như ai cũng có một thứ áo giáp sẵn sàng giương ra để phòng thủ. Cái thứ áo giáp này hiện ra thôi thì đủ muôn hình vạn trạng. Gặp ai thì nhìn trước ngó sau. Nói năng thì lập trường chính trị cứ phải cương lên nhiều lần. Chả thế mà dân gian đã có câu: Ngang lưng thì thắt lập trường. Đầu đội chính sách, tay cầm chủ trương. Đặc biệt là những ánh mắt thì cứ đổi thay liên tục khi đang đối diện với một người còn xa lạ, chưa quen. Và dĩ nhiên là đầy dẫy sự dối trá. Tôi không hiểu đấy là sự thể hiện của những tâm trạng lúc nào cũng mang vẻ sợ hãi, bất an hay đó là những thói quen cảnh giác của những người đã bị tiêm nhiễm nhìn đâu cũng thấy kẻ thù?
Có thể là cả hai, nhưng sự sợ hãi có vẻ là điều chính yếu, mà sản phẩm của sợ hãi luôn luôn là sự dối trá thường xuyên.