Chương 13

Dục Thủy không bao giờ hỏi chàng sẽ làm gì. Nàng không nhắc nhở tới cái ngày độc ác ấy, cái ngày nàng đọc thư Monicạ Chàng nghĩ nàng tiếp tục không thay đổi, cẩn thận làm chàng vui lòng, và bây giờ không còn thắc mắc nữa, nàng tìm được sự bình tĩnh. Chàng vô cùng sung sướng thấy thế. Nàng hiểu theo cái lối Nhật bản của nàng. Nàng biết ơn chàng, và nàng sẽ không đòi hỏi gì cả. Khi Giáng Sinh lại gần, cha chàng viết thư cho biết cha mẹ chàng sẽ rất sung sướng nếu chàng trở về thăm cha mẹ một mình, dù là một ngày cũng được.
Cha chàng viết một cách xin lỗi. "Ba cho rằng là một Phật tử, vợ con sẽ không có liên hệ gì tới ngày Giáng Sinh, như chúng tạ Ba sẽ đến thăm con nếu ba chỉ có một mình. Nhưng mẹ con sẽ sung sướng nếu con trở về. Mẹ con không đề nghị chuyện này. Đây là ý kiến của bạ"
Chàng đưa lá thư cho Dục Thủy, và nàng đọc mà không thay đổi nét mặt. Nàng nói ngay lập tức, "Dĩ nhiên đây là bổn phận của anh. Anh phải về thăm. Em sung sướng ở đây. Có lẽ em sẽ yêu cầu ông bà Sato mời em ăn tối. Xin hãy để em được hạnh phúc - hãy vâng lời ba anh, James."
Nhưng nàng không tới nhà ông bà Sato, mặc dù chàng đã ra đi rồi. Không ai hỏi thăm nàng và nàng cô đơn một mình với Lạc Nhị Vì chỉ một mình với Lạc Nhi, nàng nói chuyện với nó, giải thích nàng không biết phải làm gì cho nó. Nàng yêu cầu nó tha thứ, quỳ xuống như thể nó đã sinh ra rồi, và lớn lên và đứng trước mặt nàng, như một con người.
"Con hiểu chứ, Lạc Nhị Đây không phải là điều mẹ mong ước như thế." Nàng nói với nó trong sự im lặng của đời nàng, bằng sự giao cảm trực tiếp với nó và những lời nói cảm xúc của nàng bò vào tâm trí chưa thức tỉnh của nó. Nàng bảo nó, "Có hai căn nhà tốt mà con có quyền sinh ra: đó là nhà của thân phụ mẹ, và nhà của thân phụ bố con. Tại sao không có một phòng nào dành cho con trong hai căn nhà ấy thì bây giờ mẹ không thể giải thích cho con được. Tại Nhật Bản, thân phụ của mẹ, tức là ông ngoại Sơn Điền của con, thì tức giận mẹ. Khi ông biết ở đây người ta không coi trọng Phật giáo, tại đây có một đạo luật, thì chắc hắn ông sẽ tức giận lắm. Mẹ không có một sự trả lời nào cho ông ngoại con, bởi vì ông ngoại đúng còn mẹ sai. Mẹ nghĩ tại vì mẹ sinh ra là một công dân ở đây, mẹ đúng. Nhưng Lạc Nhi ơi, có một đạo luật chống lại con và mẹ. Mẹ không thể thay đổi được luật ấy, và bố con cũng không thay đổi được. Vì thế mẹ không thể cho bố con biết về con. Đừng hỏi mẹ tại sao. Xin con tha thứ cho mẹ."
Nàng nói những lời như thế trong im lặng với thai nhi hầu như mỗi ngày. Cái luật ấy, giống như một tảng đá lớn giữa đường, cái trở lực không di chuyển được mà ngay cả tình yêu cũng không thể phá hủy được. Bởi vì bây giờ nàng hiểu James không chỉ yêu nàng mà thôi. Chàng cũng yêu tổ tiên, cha mẹ, ngôi nhà, cái nơi chàng sinh ra. Đây là những thứ tình yêu tốt đẹp và nàng không thể trách chàng đã có những tình yêu ấy. Những tình yêu ấy phân ly nàng ra khỏi chàng và nàng là một kẻ xa lạ với những tình yêu cổ ấy. Chàng cần phải yêu trong cái khung cảnh của dân tộc chàng và nàng thì xa lạ với cái dân tộc ấy. Bây giờ nàng biết chàng chưa đủ mạnh để từ bỏ những cái cổ và chỉ bám vào nàng thôi, để cùng với nàng tạo ra một thế giới mới mà trước kia chưa có. Nàng có thể làm điều này, nhưng chàng không thể. Không thể trách chàng được, và nàng giải thích điều này cho Lạc Nhi.
Trong khi đó nàng không thấy cô đơn. Nàng còn ăn rất khoẻ nữa, nhớ rằng Lạc Nhi bây giờ đang lớn lên thành một đứa trẻ mạnh mẽ trong nàng. Nhưng nàng sẽ làm gì khi James trở lại? Nàng không thể che giấu chàng mãi được. Nàng không nghĩ ra câu trả lời, và nàng cứ tiếp tục sống.
Vào ngày cuối năm, khi James chưa về, nàng nghe thấy có tiếng gõ cửa. Nàng dón dén ra mở cửa, hơi hoảng sợ, và đoán có lẽ là ông bà Sato, tới để biếu quà cho nàng. Nàng thận trọng mở cửa. Hoà Lang đang đứng đó! Nàng trông thấy chàng, mạnh mẽ và cao lớn, ăn mặc đúng thời trang tây phương, có cả nón, gậy và bao tay, bộ mặt mịn màng của chàng mỉm cười, và trong tay chàng là một bó hoa.
"Hoà Lang!" Nàng kêu lên, không tin mắt mình, và bỗng nhiên vô cùng sung sướng.
Chàng nói, "Tôi đã báo cho cô biết tôi tới New York vì công việc."
Nàng kêu lên, "Dạ, xin mời vào - xin mời vào." Nàng rất vui mừng nàng đang mặc một kimono Nhật Bản. Nàng mặc kimono này khi James ra đi, vâng theo một vài động lực mà nàng không cố hiểu. Nàng vừa mới chải tóc, vì nàng ngủ suốt buổi chiều. Nhưng trong apartment không có gì ăn.
Chàng bước vào phòng, cởi áo choàng, bỏ nón, gậy và bao tay xuống. Chàng dò hỏi, giọng thân ái, "Cô ở nhà một mình à?"
Nàng nói dễ dàng, "James về nhà một vài ngày."
"Thế còn cổ"
"À, tôi khoẻ lắm. Rất khoẻ!"
"Nhưng cô không đi về nhà anh ta với anh tả" Chàng đứng bề thế và im lặng trước mắt nàng.
Nàng lắc đầu. "Chưa đâu."
"À," chàng lẩm bẩm. Chàng ngồi xuống và nàng ngồi xuống chiếc ghế dài. Chàng lẩm bẩm, tiếp tục nhìn nàng thương mến, "Hãy cho tôi biết sự thực. Dục Thủy, chúng ta là bạn cũ mà."
Nàng trả lời, "Để tôi bỏ hoa vào nước trước đã." Nàng cầm bó hoa vẫn còn trên tay chàng, và thấy chàng mua loại hoa súng rất thơm. Vào mùa này tại Kyoto có rất nhiều.
Nàng thú nhận, "Tôi sợ nó là hoa hồng đỏ."
Chàng lắc đầu, "Tôi ngu đến thế sao?"
Rồi dĩ nhiên chàng trông thấy cái mà James chưa trông thấy. Chàng cảm thấy sự hiện hữu của một đứa con.
Chàng lại lẩm bẩm. "Như vậy, cô không cô đơn ở đây. Còn có đứa nhỏ thứ ba nữa."
Nàng cúi đầu trên những bông hoa trong lúc cắm hoa. "James chưa biết."
Hoà Lang có vẻ ngạc nhiên. Chàng mở to mắt và cong đôi môi dầy. "Tại sao người chồng lại không biết. Có phải anh ta không muốn có con?"
Nàng ngồi xuống bên cạnh bàn nơi những bông hoa đứng trong cái chậu, và ngửi hương thơm của hoa. Nàng kể cho chàng biết về cái đạo luật. Nàng kể cho chàng biết tất cả bằng một vài lời. Điều đó thực là giản dị, rõ ràng và không thay đổi được. Nàng thấy nàng có thể nói mọi thứ dễ dàng mà không khóc. Chàng hiểu, và chàng nghe, không xen lời, khuôn mặt bình thản của chàng thỉnh thoảng hơi xúc động.
Khi nàng nói xong, chàng thở dài và ngửa ra ghế. "Tuy vậy không cho chồng cô biết, cô có công bằng không? Có thể đứa bé sẽ thay đổi anh ta hoàn toàn."
Nàng mau lẹ lên tiếng, "Không, không. Anh không hiểu. Ở đây một đứa con không quan trọng gì. Đứa con không thể thay đổi mọi thứ như chúng tạ Tại đây, những thế hệ không tùy thuộc vào nhau."
"Dẫu sao - "
"Không," nàng mau lẹ trả lời quyết liệt. Nàng thấy rằng nàng đã quyết định rồi. Nàng sẽ không bao giờ cho James biết về Lạc Nhi.
"Dục Thủy, cô sẽ làm gì?" Hoà Lang dịu dàng dò hỏi. Chàng kinh hoàng trước cái chàng khám phá tại đây.
Chàng đã rất yêu Dục Thủy trong cái phong cách trong sáng của chàng, và khi chàng biết chàng mắt nàng, chàng đau đớn, nhưng không đau đớn một cách tức giận và lâu dài. Cơn đau này dịu đi thành một ác cảm về hôn nhân với bất cứ một người nào khác. Chàng mong đợi cơn đau này sẽ qua đi, và quả thực chàng đã định nếu thấy Dục Thủy được hạnh phúc một lần nữa, chàng sẽ giải tỏa trái tim cho một cuộc hôn nhân khôn ngoan và thích hợp với một thiếu nữ nào đó mà cha mẹ chọn cho chàng, và sẽ đem lại cho cha mẹ những đứa cháu nội, và cho chàng một gia đình trong thế hệ chàng. Mọi người phải có con cái.
Dự định của chàng tan vỡ ngay lập tức vì Dục Thủy, vì chàng đã trông thấy nàng, và chàng gần như khích động như chưa bao giờ như thế.
"Tôi không biết tôi phải làm gì," nàng trả lời, đầu gục xuống trên những bông hoa súng. "Tôi chỉ biết cái điều tôi sẽ không làm."
Hòa Lang thở dài và trả lời, "Cô nên quay về nhà cha cộ Ñt nhất để cho đứa nhỏ sinh ra tại Nhật Bản. Ở các viện mồ côi có nhiều những đứa trẻ như vậy, cô hiểu không. Người Mỹ đã tạo ra rất nhiều đứa con giống như nó. Nó chỉ là thêm một đứa nữa thôi."
"Không," nàng trả lời.
Hòa Lang lẩm bẩm, "Không cả trở về quê hương nữa ử"
Hai người ngồi im lặng, cùng cảm thấy sức nặng đáng sợ của sự sinh đẻ không tránh khỏi. Nàng trông thấy chàng vươn tâm hồn, trái tim phấn đấu.
Chàng nói sau một lúc, nhưng cũng cùng một giọng. "Và cô nữa, cô có còn yêu người Mỹ này không?"
Nàng vội ngẩng đầu lên trước câu hỏi này. Câu hỏi của Hoà Lang, và chính nàng cũng tự hỏi nhiều lần. Phải, nàng yêu James, nhưng là một tình yêu đã chết. Nàng sẽ mãi mãi yêu chàng, nhưng không hy vọng. Hai người đáng lẽ không nên gặp nhau. Họ sinh ra xa cách nhau, họ đáng lẽ phải sống và chết ở hai đầu trái ngược của trái đất. James không phải là người bạn đường của nàng, và nàng cũng không phải là người bạn đường của chàng. Thần thánh đã ly tán hai người, nhưng họ đã bất tuân cái luật vĩnh cửu của thần thánh. Nàng cảm thấy không chống lại được nữa nhưng không tuyệt vọng. Nàng chỉ cảm thấy một nỗi buồn sâu xa như chính đời nàng.
Nàng trả lời giản dị. "Yêu anh ta không có ích gì cho tôi nữa."
Hai người ngồi im lặng thật lâu. Cuối cùng chàng nói, ngập ngừng và rất khéo léo. "Tôi ước muốn nói được vài lời. Tôi không biết nói thế nào. Xin tha thứ cho tôi nếu tôi nên im lặng mà cứ lên tiếng."
Nàng không quay lại, và trả lời, "Xin cứ nói đỊ"
Chàng liếm môi. "Nếu cô muốn trở về Nhật Bản một mình, xin cô trở lại với tôi."
Mùi ngạt ngào của hoa súng bỗng nhiên quá nhiều và nàng đẩy cái chậu ra xạ Nàng hiểu ngay lập tức. Nếu nàng không có con, chàng sẽ muốn nàng làm vợ."
Nàng trả lời, "Tôi có con rồi."
Chàng không nhìn mắt nàng. Chàng nhìn xuống hai bàn tay tái trắng đặt trên đầu gối. Chàng nói, "Tôi ước gì có thể giữ đứa trẻ này. Quả thực tôi muốn thế lắm. Muốn nó cho tôi, nếu tôi chỉ có một mình, không phải nghĩ tới cha mẹ, tổ tiên thì tôi sẽ làm thế. ít nhất, tôi tin rằng tôi sẽ làm thế."
Chàng rất thành thực, lo lắng, ao ước đại lượng và nhất định là tử tế. Nàng hiểu tất cả điều này, nhưng niềm đau khổ của nàng không vơi đi. Nàng nói, "Tôi cám ơn anh. Một lúc nào đó tôi có thể nhớ tới những điều anh vừa nói. Tôi không biết."
Nàng ngồi dậy một cách quả quyết. Một lời nói thêm nữa sẽ là quá nhiều. Nỗi sầu buồn đã tràn đầy con người nàng rồi. Nàng sẽ tan vỡ nếu nói thêm một lời nữa.
Nàng nói bằng một giọng lạnh lùng và bước vào bếp. "Tôi phải pha trà mời anh chứ. ít nhất tôi cũng có trà. Tôi lười quá không chịu đi mua thêm gì cả."
Chàng để nàng pha trà, ngắm nàng qua chiếc cửa mở. Chàng không có ý nghĩ giúp đỡ nàng, vì chàng quen được hầu hạ rồi, và nàng cũng không mong đợi chàng khác thế. Nàng bưng vào cái bình trà bằng sơn mài và hai tách trà xanh, một món xa xỉ mà nàng giữ trong nhà cho riêng nàng. Trà xanh, trà Nhật Bản, thì nhiều sinh tố và nàng uống nhiều lắm. Bây giờ nàng cũng uống khi nàng mời chàng, cầm tách trà trong vòng cong của bàn tay.
Nàng nói, "Xin cho tôi biết về cha mẹ tôi. Cha mẹ tôi không viết thư cho tôi, mặc dù tôi viết cho cha mẹ tôi hai lần rồi."
Chàng trả lời, "Tôi biết. Tôi tới thăm ba cô trước khi tôi đi Hoa Kỳ, và ông ấy cho biết ông ấy vẫn còn chua chát đau đớn lắm. Ông ấy vẫn tin rằng cô nên vâng lời ông tạ"
Nàng đặt tách trà xuống, và can đảm nói, "Xin anh nói cho ba tôi biết ba tôi đúng."
Chàng kinh ngạc. "Dục Thủy, cô là người quá kiêu hãnh!"
Nàng tủi nhục nói, "Tôi không còn kiêu hãnh nữa. Tôi không thể chống lại luật pháp của Hoa Kỳ. Luật ấy nằm trong trái tim của người ta ở đây. Nó là một cảm xúc. Họ làm luật theo trái tim họ, và họ có những cảm xúc như thế. Tôi làm gì được? Tôi đi đâu để đứa con có thể sinh rả Nó không có nơi nào để nằm xuống."
Khi nói đến đây, nàng bỗng mất hết mọi kiêu hãnh và kiềm chế. Cái sự bình yên chết chóc mà nàng sống trong những ngày qua tan vỡ từ tim nàng, và nàng bắt đầu khóc thảm thiết đau đớn, hai tay ôm mặt và người nàng gục lên gục xuống.
Hoà Lang hoảng hốt thành khích động. Chàng đặt tách trà xuống và đứng đấy một mình, vò hai bàn taỵ Chàng không dám đụng vào người nàng. Chàng nói, "Bây giờ đau buồn khóc lóc thế này rất nguy hiểm cho cộ Dục Thủy, vì sự an nguy của cô, khóc lóc thế này không tốt."
Chàng chờ đợi, thở dài và lẩm bẩm, cho tới lúc nàng bỗng xấu hổ ngừng lại. Nàng chùi mặt bằng bằng ống tay áo và hỏi, "Anh sẽ còn ở lại đây, ở Hoa Kỳ?" Chàng cảm thấy dễ chịu và trả lời, "Vài tháng. Dĩ nhiên bây giờ tôi sẽ ở lại cho đến lúc cô biết cô phải làm gì. Xin cho tôi biết cô sẽ làm gì; ít nhất tôi cầu xin điều này. Đây là địa chỉ của tôi. Nếu tôi đi vắng thì cũng chỉ đi sang các thành phố lân cận vài ngày cho công việc thôi. Tôi sẽ để lại tên thành phố để cô có thể gặp được tôi."
Nàng cầm lấy tấm danh thiếp và bỏ vào một cái hộp không trên bàn phòng khách. Nàng nói, "Nếu anh không nghe gì về tôi, có nghĩa là tôi không cần phải viết."
Chàng nhấn mạnh. "Nhưng quả thực cô phải cho tôi biết."
Nàng đành phải hứa, biết rằng chàng sẽ không ra về cho tới lúc nàng hứa. "Hòa Lang, tốt lắm. Tôi sẽ viết cho anh biết quyết định của tôi. Có thể không ngay lập tức đâu."
Chàng trả lời, "Tôi có lời hứa của cô rồi."
Rồi chàng ra đi, thận trọng với nón, bao tay và chiếc gậy. Hai người cúi chào thật sâu trước cửa, và nàng chờ đợi tại cửa, cho tới lúc thang máy lên, và hai người lại cúi chào nhau rất thấp, trong khi người điều khiển thang máy ngạc nhiên nhìn chăm chú. Bây giờ thật rõ ràng với nàng về cái nàng phải làm, hoàn toàn cho phúc lợi của Lạc Nhị Quả thực không có chỗ cho nó trên đời này.

*

Ngày James trở về thăm cha mẹ, Dục Thủy nói, mặt đỏ lên vì e thẹn. "James, em sẽ không viết thư cho anh trong lúc anh về thăm nhà đâu."
Chàng đang bỏ chiếc sơ mi sạch sẽ vào va lị "Tại sao không?"
"Em nghĩ như thế là không vâng lời mẹ anh. Nó giống như bí mật đi vào căn nhà mà mẹ anh ngăn cấm."
Chàng phản đối, "Em kỳ quá. Em không tức giận vì anh đi phải không?"
"Không đâu James. Em chỉ không viết thư thôi, vì lịch sự với mẹ anh. Em muốn vâng lời mẹ anh."
Vì thế chàng không mong đợi nhận được thư nàng. Thoạt đầu chàng không nghĩ đến chuyện này. Khi chàng bước vào cái phòng khách lớn, chàng cảm thấy những xúc động tuổi thơ của chàng, sự dễ chịu, niềm tin rằng ở đây mọi người đều mạnh khỏe. Hồi trước khi chàng về nhà vào dịp Giáng Sinh từ quân trường Lexington, chàng nhớ lại sự thoải mái của tâm hồn. Ở đây là bình yên, ở đây là chấp nhận, ở đây chàng được yêu quý.
Thật đúng như ngày xưa khi mẹ chàng chạy vội ra qua những chiếc cửa mở của phòng khách. Chàng quay nhìn mẹ với một tình yêu ám ảnh lâu đời. Bà vươn mở rộng hai tay, vải của chiếc áo choàng màu bạc xám bay trên cánh tay và phủ chân bà.
"Con yêu quý!"
Hai cánh tay bà ôm lấy chàng, và cái mùi nước hoa quen thưộc xông vào mũi chàng.
"Chào mẹ - " cái giọng nói đàn ông rổn ràng của chàng không còn cái vẻ run sợ của cái tâm hồn đứa trẻ bên trong nữa.
"Chào mừng con về, darling -."
"Tại sao mẹ biết con về? Con nghĩ đây là một sự ngạc nhiên cho mẹ."
Bà lùi lại, cười rộ lên, khuôn mặt đẹp đẽ của bà trông rất trẻ dưới những cuộn tóc màu bạc, tất cả sống động với tiếng cười chiến thắng.
"Ba con không thể che giấu mẹ được gì, dù là chỉ trong một lúc. Mẹ biết! Thực là một Giáng Sinh tốt lành, darling."
Chiếc áo màu xám lại choàng lấy chàng giống như một mạng nhện nhẹ. Chàng cảm thấy những ngón tay mảnh gầy nhưng mạnh mẽ của mẹ nắm lấy tay phải của chàng. "Lại ngồi gần lò sưởi. Ba mẹ chưa làm xong cây Giáng Sinh. Con phải trèo lên đỉnh treo ngôi sao như trước kia con vẫn làm. Mẹ không có ngôi sao ở đó trong những năm con đi xa nhà. Monica hôm nay lại uống trà với chúng tạ"
Bà khẽ nhắc đến tên Monicạ Không để cho chàng tìm hiểu lý do, bà quay lại
gọi to, "Monica, nó về rồi. Bác đã bảo cháu nó sẽ về mà. Bác biết thế!"
Monica bước vào phòng. Hai người gặp nhau lúc nào cũng thân thiết. Monica nói, "Ngồi xuống đi. Em đang pha trà. Mẹ anh hôm nay có vẻ lười lắm."
Mẹ chàng kêu lên, "Đó là bởi vì bác rất sung sướng."
Mọi người nghe thấy tiếng rít của chiếc cửa nặng nề của phòng thư viện, tiếng bước bằng dép da, và cha chàng bước vào. "Ai nói đến trà đấy? Bảo nó pha cho tôi một ly rượu Martinị James, con uống một ly với ba không? Để đàn bà uống trà."
"Vâng, con theo ý bạ" Hai bố con bắt tay nhau mạnh mẽ và buông vội nhau ra.
Tên đầy tớ da đen vào pha rượu, và khẽ chào người chủ trẻ tuổi mới về nhà. "Merry Christmas. Cậu James mạnh khoẻ không?"
Sự hoàn hảo này vẫn tồn tại trong cái thành phố nhỏ này, ngay bên ngoài Richmond trong tiểu bang Virginia, và James suy nghĩ với tất cả sức mạnh của mình, chàng sẽ gìn giữ cái hoàn hảo này trong một thế giới bất toàn. Sự hoàn hảo thì hiếm hoi lắm, nó đáng quý lắm và không thể mất đi, cái hòn đảo trong một vùng biển bão táp, an toàn trong sự quay cuồng của tai họa. Chàng bỗng nhiên để ý đến cái đẹp của mỗi căn phòng, những bông hồng vàng, những bông hồng trong nhà kiếng mà mẹ chàng trồng trong một thế giới làm ra bom nguyên tử, những chiếc màn cửa kéo ra tại cửa sổ phía tây mở ra trước hoàng hôn mùa đông cuối cùng, ngọn lửa nhảy múa từ những khúc củi trong lò sưởi, những chiếc ghế phủ vải sa tanh, và sàn nhà đánh bóng và những tấm thảm dầy, những căn phòng mở vào phòng khác, tất cả đều bóng loáng và sạch sẽ, bề ngoài trông như là tự nhiên không mất công và cũng không tốn kém. Nhưng chàng biết cái giá tốn kém để giữ căn nhà như thế. Nhưng chàng có quyền thừa kế, trừ phi chàng lựa chọn vất đi tất cả. Thực là điên rồ!
Và Monica ngồi tại đó bên cạnh cái bàn khảm bằng gỗ hồng trên đặt một bộ đồ trà bằng bạc, cũng là một món đồ thừa kế, là của chàng để được hưởng cùng với tất cả những thứ khác, và nàng sẽ trông giống thế mãi, dù tuổi nào, bởi vì nàng được ân sủng với sắc đẹp và nàng thuộc về đây. Đạo luật ấy ở đây, cái luật bảo vệ, và chàng có thể dùng cái luật ấy làm nơi trú ẩn nếu chàng bắt buộc phải làm thế.
Những ngày trôi qua trong sự huy hoàng, Chàng treo ngôi sao lên cao và đóng lại cái vai trò một đứa bé. Những cái vớ dài được treo dưới những bệ lò sưởi bằng đá mà ông tổ chàng đã mua từ một căn nhà bên Pháp lâu lắm rồi, và mọi người cười đùa vào buổi sáng ngày Giáng Sinh trước những quà tặng, những con khỉ con gấu nhỏ bé từ Thụy Sĩ, nhưng trong cái vớ dài của chàng, chàng tìm thấy một cái ghim cà vạt bằng ngọc đen, trước kia của ông nội chàng và là một tài sản quý giá.
Mẹ chàng gặp đôi mắt trách móc với một nụ cười.
"Một lúc nào đó, thế thì tại sao không là bây giờ? Mẹ không muốn chồng chất mọi thứ cùng một lúc. Mẹ đã bảo cha con rằng mẹ muốn cho con bây giờ những gì mẹ muốn cho con. Chúng ta sẽ nói về chuyện này vài hôm nữa."
Một vài hôm nữa có nghĩa là luôn luôn là ngày hôm sau, và ngày hôm sau nữa, và cuối cùng hoãn lại bởi vì luật sư của gia đình đi nghỉ lễ Giáng Sinh tại Miami, và mãi ngày đầu năm mới trở về. Mẹ chàng nói ngày trước Tết cũng quan trọng như ngày Giáng Sinh, bởi vì là buổi dạ vũ. Monica tổ chức nhiều buổi dạ vũ trong dịp này.
Vì thế trong lúc chàng khiêu vũ với Monica thì cuộc đối thoại này diễn ra.
Monica nói, "Chúng tôi cố gắng không nói đến chuyện này."
Chàng cãi lại, "Tôi cố gắng không nghĩ đến nữa."
"Vẫn chưa có dự tính gi hả?"
"Chưa."
"Trong lúc mẹ anh giăng một mạng lưới?"
"Mẹ tôi làm như vậy à?"
"Dĩ nhiên rồi. Khi một người đàn bà yêu một người đàn ông, ngay người đàn ông ấy là con trai - dĩ nhiên mẹ anh yêu anh vì anh là con trai của bà ta, và bà ta yêu anh nhiều hơn bất cứ ai khác - một người đàn bà kết một màng lưới."
"Cô cũng là người như vậy?"
Nàng trả lời hầu như cọc cằn. "Tôi sẽ cố gắng không bao giờ làm thế."
Chàng tưởng tượng trông thấy một sự thù nghịch lạ lùng trong đôi mắt xanh của nàng, nàng nhìn chàng không sợ hãi và không lẩn tránh, nhưng đôi mắt của nàng dịu dàng.
Chàng tự nhủ chàng phải trở về New York ngay, không chờ đợi một sự thừa kế, ngoại trừ chàng có cái ý nghĩ thầm kín của chàng là nếu chàng có nhiều tiền hơn thì sẽ dễ dàng đòi hỏi hôn nhân với Dục Thủy, có lẽ để xây căn nhà của chàng ở một nơi khác, thay đổi nguồn gốc, trưởng thành trong cái thế giới mà chàng tạo ra. Ý nghĩ này biện minh cho sự Ở lại, nhưng chàng viết cho Dục Thủy sau buổi khiêu vũ ấy, thành thực lo lắng bởi vì chàng cảm thấy bị khích động vì sự gần gũi Monicạ Bị quyến rũ bởi sự dè dặt bất thường của nàng, thái độ của nàng cho rằng chàng đã có vợ và do đó nàng cảm thấy an toàn.
Dục Thủy không trả lời, nhưng chàng cũng không mong đợi sự trả lời. Chàng sẽ gặp lại nàng, chậm nhất là trong vài ngày nữa. Ngày đầu năm trôi qua giữa những cuộc viếng thăm của bạn bè gia đình, hết nhà này đến nhà khác, và không ai hỏi chàng về Dục Thủy, hoặc chàng sống xa nhà, mà chỉ có sự chào mừng ngọt ngào. "Ôi, James, người bạn quý lâu đời, đã lâu không gặp!" Tất cả những giọng nói đàn bà kêu lên, trong trẻo như tiếng khánh bạc; chàng có nghĩa gì đâu, bởi vì họ nói thế với mọi người, nhưng chàng rất cảm động bởi vì họ nói bằng sự ấm áp của trái tim.
Đây là một cách sống, lối sống của chàng, chàng không thể bỏ nó, dù là vì tình yêu. Tuy vậy chàng làm gì để được cứu chuộc?
Đến đêm, khi một ngày nữa vẫn chưa có thư của Dục Thủy, và chàng vẫn không gọi điện thoại cho nàng, một việc đáng lẽ chàng phải làm, tuy nàng đã nói gọi điện thoại như thế cũng là bất vâng lời, trong ban đêm nằm một mình trên chiếc giường hồi còn trẻ, chàng tuyệt vọng suy xét chàng phải làm gì. Bây giờ chàng không còn van xin mẹ hoặc thúc giục cha nữa. Đạo luật vẫn còn đó, ở ngoài tầm mọi người, che chở cho mẹ chàng. Bà sẽ dùng luật ấy để che đậy mọi tội lỗi và sự bất đồng ý của bà. Chàng có thể trông thấy đôi mắt đẹp của bà mở tọ Chàng có thể nghe thấy giọng nói của bà. "Tại sao James ơi, đây không phải là lỗi của mẹ. Mẹ không làm ra luật ấy." Nhưng những người giống như bà đã làm ra luật ấy.
Chàng tìm nơi trú ẩn duy nhất, và nơi trú ẩn ấy là không suy nghĩ nữa. Chàng rơi vào sự thoải mái và đẹp đẽ của căn nhà cổ vững chắc.
Khi luật sư Madison ở Miami trở về, chàng được gọi vào thư viện, và tại đó chàng nghe thấy những gì mẹ chàng đã làm. Bà ngồi căng thẳng tại đầu chiếc bàn dài, ánh nắng mùa đông chiếu vào phòng qua những màn cửa nhung màu vàng treo từ trần buông tới sàn nhà.
Ông Madison, một ông già nhỏ bé, mũi đỏ và da đang lột vì cái nắng của Florida, lên tiếng:
"James, mẹ anh đã làm một việc đại lượng. Bà ta đã sang tên cho anh căn nhà này. Bây giờ căn nhà này là của anh."
Chàng kinh ngạc và lắp bắp mấy câu, "Nhưng con tưởng nhà này là của ba chứ, ba ơi."
Cha chàng ngồi trong một chiếc ghế gần một chiếc cửa sổ cao, một hình dáng màu xám khô khan trong căn phòng rực rỡ. Ông khó khăn nói, "Ba tặng cho mẹ con căn nhà này khi ba mẹ kết hôn. Dĩ nhiên cả ba mẹ đều hiểu rằng căn nhà sẽ thuộc về người con trai trưởng, giống như căn nhà đã chuyển cho ba từ bố của bạ Ba cảm thấy một người đàn bà phải có một căn nhà. Đây là một bảo đảm cho người đàn bà trong cuộc đời."
Mẹ chàng nói, "Con ơi, con sẽ để dành cho mẹ cái góc của mẹ. Mẹ tin tưởng ở con điều ấy."
Cha chàng nói, "Tôi không chấp nhận chuyện này."
James trả lời, "Con không muốn căn nhà này."
Bà mẹ năn nỉ, "Xin con, mẹ muốn làm như vậy mà."
Chàng nói một lần nữa, "Con không thích căn nhà này." Nhưng chàng thích căn nhà lắm. Chàng nhìn quanh căn phòng lớn này thuộc về chàng. Chàng có thể nghi ngờ mẹ chàng đang giăng bẫy, ngoại trừ cái luật ấy vẫn đứng vững như trước, che cho bà khỏi những điều tốt điều xấu.
Chàng nói vắn tắt, "Con không thể sống ở đây được."
Mẹ chàng vui vẻ nói, "Có lẽ một ngày nào đó con có thể."
Vì thế tuy chàng vẫn không sẵn sàng, và cha chàng không chấp thuận, việc sang tên căn nhà vẫn tiến hành như nhiều việc khác đã tiến hành bởi vì mẹ chàng muốn thế. Và khi việc chuyển nhượng chấm dứt, chàng có một cảm giác chống đối kỳ lạ. Chàng tự nhủ, đằng nào tài sản này cũng là của chàng. Bây giờ tài sản này là của chàng hơi sớm hơn. Dù chàng xây dựng cho chàng một căn nhà ở một nơi nào đó, căn nhà này vẫn là của chàng, và cuối cùng chàng sẽ phải quyết định chàng sẽ sống ở đâu.
Chiều hôm ấy chàng trở lại New York. Chàng tới nơi vào lúc nửa đêm, và chiếc xe tắc xi đưa chàng tới cửa khu apartment. Một người gác thang máy xa lạ đưa chàng lên, một người chàng chưa bao giờ gặp, và chàng không nói chuyện với hắn. Chàng bấm chuông căn phòng của chàng, mong Dục Thủy ra mở cửa ngay, và trái tim hối hận của chàng đập nhanh. Ôi, chàng sẽ phải đền bù cho nàng rất nhiều.
Nhưng cửa không mở. Chàng bấm chuông nữa, bởi vì nàng có thể đang ngủ. Nàng có thói quen ngủ như con mèo con bất cứ lúc nào, cuộn người trên chiếc ghế dài, và ngay cả giữa mấy cái gối trên sàn nhà. Nhưng cửa vẫn chưa mở. Cuối cùng chàng phải lục tìm chìa khóa trong túi và mở cửa ra. Căn apartment tối thui. Không khí đóng kín và khô với hơi sưởi nóng. Sự im lặng thật là tuyệt đối.
Chàng gọi to, "Dục Thủy!"
Không có ai trả lời. Chàng bật đèn lên khi vào nhà và chạy vào phòng ngủ. Nàng không có ở đó. Giường được làm sạch sẽ ngăn nắp, sàn nhà sạch sẽ. Chàng đẩy mở cửa phòng chứa quần áo và chỉ trông thấy quần áo của chàng thôi. Nàng đã đi rồi.
Cảm giác tội lỗi đè xưống chàng với một sức mạnh khủng khiếp. Nàng đã đi rồi! Làm thế nào chàng tìm được nàng? Chàng biết rõ sự có thể tuyệt vọng trong trái tim Nhật Bản của nàng. Nàng đã đi tới một sự bí ẩn tuyệt đối, che giấu chàng dưới cái bề ngoài vui vẻ thận trọng và sự ngọt ngào đúng bổn phận nàng. Chàng không biết nàng đã nhìn thấy gì, đã hiểu bao nhiêu.
Chàng rơi xuống cạnh giường, bất thình lình cảm thấy mơ hồ, tràn ngập bởi nỗi buồn và tự trách. Rồi chàng giấu mặt vào hai bàn tay, và tự nguyền rủa mình, không phải vì nàng đã ra đi, nhưng bởi vì ở giữa những hối hận và lo lắng, chàng biết chàng vui mừng nàng đã ra đi.