"in chào mọi người, tôi là Olaf, xin chào mừng quý khách đã lên xe buýt Viking! Trong lịch sử xe buýt này được biết với tên là DUKWS hoặc Ducks, nghe trìu mến hơn. Chúng ta đang ngồi trên xe phiên bản lội nước của hang General Motors trong Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Chiếc xe này được thiết kế đề có thể chạy dưới nước, có thể tải hàng hóa và lính từ tàu vào bãi biển. Hiện tại thì người ta thường sử dụng nó như xe lội nước cứu hộ ở Mỹ, Anh và một số nước khác nữa". "Chúng ta có thể xuống xe được không?", tôi thì thầm vào tai bố. Ông đập mạnh tôi và lắng nghe như bị thôi miên. "Chiếc xe này nặng bảy tấn, dài hơn chín mét, rộng chừng hai mét rưỡi. Nó có sáu bánh, có thể lái bằng bánh sau hoặc toàn bộ các bánh. Như quý vị có thể thấy, nó đã được sửa chữa lại với ghế ngồi tiện lợi, mái, và hai thành xe để bảo vệ quý vị từ những yếu tố bên ngoài, bởi vì, như quý vị biết, sau khi chúng ta đi tham quan vòng quanh thành phố, chúng ta sẽ lội nước, một chuyến đi kỳ thú quanh khu vực kênh đào Docklands!". Mọi người hò reo cổ vũ và bố nhìn tôi, hai mắt mở to như một đứa trẻ. "Thật xứng hai mươi euro. Xe buýt có thể lội nước. Xe buýt? Sẽ lội xuống nước? Bố chưa từng thấy bao giờ. Bố sẽ kể lại chuyện này cho mấy ông bạn ở câu lạc bộ thứ Hai. Donal to mồm sẽ kinh ngạc vì chuyện này!". Ông quay sang chăm chú nghe người hướng dẫn, cũng giống như mọi người khác, đang đội nón Viking có cái sừng. Bố chọn hai cái, đội lên đầu một cái, còn một cái đưa cho tôi. "Olaf, gặp Heidi nào!". Tôi đội nón lên đầu và quay sang bố. Ông ra vẻ gầm gừ trước mặt tôi. "Bên đường là những địa danh nổi tiếng của thành phố chúng ta như nhà thờ chính tòa, nhà thờ Thánh Patrick và nhà thờ Chúa cứu thế, trường Cao đẳng Trinity, tòa nhà chính phủ, Georgian Dublin...". "Ồ, con sẽ thích cái này", bố thúc khuỷu tay vào tôi. "... và dĩ nhiên là Viking Dublin!". Mọi người lại gầm gừ lên, kể cả bố. Tôi không thể nhịn được. "Và chúng ta sẽ làm gì nếu chúng ta gặp cướp biển ngay trên đường?", người hướng dẫn du lịch hỏi. Đám đông ồn lên tiếng la ó phản đối lẫn tiếng gầm gừ. "Được rồi các bạn, chúng ta đi thôi!", Olaf nói đầy nhiệt tình. Justin hối hả rướn người khỏi nhóm đang diễu hành, để tìm cho được bóng người phụ nữ trong chiếc áo đỏ. Quanh anh, một biển những chiếc áo choàng rộng màu da cam. Họ cười vui vẻ với anh trong tiếng chuông, tiếng trống. Anh thì cứ đứng nguyên một chỗ, cố nhảy lên cao, cố nhìn về hướng đường Merrion Row. Phía trước anh bất ngờ xuất hiện một nghệ sĩ kịch câm trong bộ quần áo bó sát người màu đen, với một gương mặt hóa trang bằng phấn trắng, môi đỏ, cộng thêm cái nón sọc. Họ đứng đối diện nhau, cả hai đều đợi người kia phản ứng trước. Justin muốn người nghệ sĩ lách qua một bên. Nhưng anh ta chẳng nhúc nhích gì cả. Anh ta kênh ngang vai lên, dang hai chân ra, các ngón tay rung rung múa may quay cuồng. Justin hạ thấp giọng, cố lấy vẻ lịch sự: "Tôi không sẵn sàng để chơi trò này. Anh có thể vui lòng chơi với một người khác?". Ra vẻ đang tuyệt vọng, người nghệ sĩ bắt đầu làm động tác giả vờ chơi vi- ôlông. Justin nghe tiếng cười và nhận ra rằng anh ta đã có khán giả. Tốt. "Vâng, rất vui. Nhưng vậy đủ rồi.". Lờ đi trò hề, Justin lách ra xa khỏi đám khán giả ngày càng đông và tiếp tục nhìn về phía đường Merrion Row tìm chiếc áo đó. Người nghệ sĩ bỗng xuất hiện phía sau anh lần nữa, nắm tay anh đưa lên trán anh ta. Nhóm khán giả đi theo phía sau cười phá lên. Một cặp người Nhật còn đưa máy hình lên chụp. Justin nghiến răng và nói nhỏ chỉ đủ cho người nghệ sĩ nghe. "Đồ dở hơi, trông tôi buồn cười lắm à?". Một giọng đặc sệt âm địa phương Dublin trả lời: "Đồ dở hơi, tôi trông như đồ bỏ à?". "Anh muốn chơi kiểu đó à? Tốt thôi. Tôi không chắc anh muốn đóng vai anh hề Marcel Marceau hay Coco nhưng màn trình diễn kịch câm của anh đã làm ô nhục cả hai người đó. Đám đông có thể cười với việc anh bắt chước những động tác của Marceau, còn tôi thì không. Không giống tôi họ không nhận ra rằng anh đã thất bại trong việc bắt chước Marceau bởi vì Marceau sử dụng động tác để kể một câu chuyện, phát thảo ra một chủ đề, một nhân vật. Marceau không tự nhiên đứng ngoài đường, cố gắng thoát khỏi cái hộp mà chẳng ai thấy. Anh thiếu sáng tạo và thiếu cả kỹ thuật. Anh bôi nhọ tất cả những nghệ sĩ kịch câm trên thế giới". Người nghệ sĩ chớp mắt. Đột nhiên anh nghe trong đám đông như văng vẳng tiếng: "Tôi đây!". Cô ấy đây! Cô ấy đã nhận ra tôi! Justin bồn chồn nhón nhón hai chân, cố tìm lại bóng áo đỏ của người phụ nữ. Đám đông tản ra, để lộ.... Sarah, trông rất thích thú với màn kịch này. Người nghệ sĩ kịch câm liền bắt chước nỗi thất vọng hiện lên lồ lộ của Justin. Anh ta cong lưng đến nỗi hai cánh tay đu đưa thấp thật thấp như muốn chạm đất. "Ôoooooo...". Đám đông la ó lên và Sarah xị mặt xuống. Justin nhận ra điều đó. Không phải người phụ nữ anh muốn tìm kiếm. Nhưng anh thừa nhạy cảm để hiểu mình đang thể hiện những gì. Anh lập tức thay thế gương mặt thất vọng của mình bằng một nụ cười. Anh lách người xuyên qua đám đông, nhanh chóng chìa hai tay đón Sarah và dẫn cô rời khỏi màn kịch này trong khi đám đông vỗ tay và thi nhau thả những đồng xu vào cái lon của người nghệ sĩ đặt gần đó. "Anh thấy trò đó hơi khiếm nhã à? Đáng lẽ anh nên cho anh ta vài đồng tiền lẻ...", Sarah nói, quay ra sau nhìn người nghệ sĩ với vẻ hối tiếc. Người nghệ sĩ thì dùng cả hai tay che mặt, nhún vai lên xuống một cách dữ dội trong những dòng nước mắt giả. "Anh nghĩ người đàn ông trong bộ quần áo bó sát đó thật lố bịch". Justin hậm hực, vẫn điên cuồng nhìn quanh tìm chiếc áo đỏ suốt khoảng thời gian đi cùng nhau đến ăn trưa tại một nhà hàng. Chẳng hiểu sao, lúc này, anh lại có cảm giác anh muốn hủy cái hẹn và bữa ăn này đến thế. Hãy nói với cô ấy là mình thấy mệt trong người. À mà không được. Cô ấy là bác sĩ, cô ấy sẽ hỏi đủ thứ và nhận ra mình nói dối. Hay nói với cô ấy rằng mình sơ suất nhầm lẫn và mình có buổi lên lớp ngay bây giờ? Nói với cô ấy đi, nói với cô ấy đi. Nhưng anh không nói được. Anh vẫn thấy mình tiếp tục đi với Sarah, hai mắt giật giật như người nghiện đang cần một liều thuốc. Trong nhà hàng dưới tầng hầm, cả hai được đưa đến một bàn yên tĩnh nằm trong góc. Justin nhìn ra cửa. Hay là mình la... "CHÁY" và chạy thôi! Sarah lúng túng cởi vội chiếc áo khoác, để lộ đôi vai trần. Cô kéo ghế ngồi xuống gần anh. Thật trùng hợp, vậy là anh lại gặp người phụ nữ ở tiệm cắt tóc lần nữa. Có lẽ, chẳng việc gì to lớn cả. Dublin là thành phố nhỏ. Từ khi ở đây, anh nhận ra rằng, không ít thì nhiều, mọi người đều biết nhau, hay mọi người đều có bà con họ hàng với nhau, hay đã từng quen nhau. Nhưng người phụ nữ này thì sao nhỉ? Mà anh không nên gọi cô ấy là "người phụ nữ này" nữa. Anh nên đặt cho cô ấy một cái tên, như... Angelina chẳng hạn. "Anh đang nghĩ gì vậy?", Sarah nhìn anh chằm chằm, cắt ngang suy nghĩ của anh. Hay đặt tên là Lucille. "Cà phê. Anh đang nghĩ về cà phê. Cho anh ly cà phê đen!". Anh nói với cô phục vụ đang lau bàn cho họ. Anh nhìn bảng tên cô ta. Jessica. Không, người phụ nữ của anh chẳng phải là Jessica. "Anh không ăn sao?", Sarah hỏi, thất vọng và bối rối. "Không, anh không thể ở lâu như anh muốn. Anh phải trở về trường sớm hơn dự định!". Chân anh cựa quậy phía dưới bàn, đầu gối đụng vào mặt bàn bên dưới làm bộ dao nĩa khua lách cách. Cô phục vụ và Sarah nhìn anh một cách khác thường. "Ô, không sao!". Sarah cầm lấy thực đơn, "cho tôi món xà lách và một ly vang trắng", cô nói với người phục vụ rồi quay sang Justin, "Em phải ăn, nếu không em đói chết mất, em hy vọng anh không phiền!". "Không sao", anh cười. Ngay cả khi em kêu một đĩa xà lách to khổng lồ thì vẫn không sao mà. Cái tên Susan, thế nào nhỉ? Người phụ nữ của mình có giống Susan? Người phụ nữ của mình? Trời đất, chuyện gì xảy ra với mình thế nhỉ? "Bây giờ chúng ta qua đường Dawson, đặt theo tên của Joshua Dawson, ông cũng thiết kế đường Grafton, Anne và đường Henry. Phía bên tay phải của quý vị là nhà của thị trưởng Dublin". Tất cả các chiếc mũ sắt có sừng Viking đều xoay qua phải. Máy quay video, máy chụp hình kỹ thuật số và điện thoại chụp hình đưa lên hết trên những ô cửa sổ xe buýt đang mở. "Bố nghĩ những tên cướp biển làm như vậy à, bố? Quay phim những tòa nhà?", tôi thì thầm. "Ồ, im nào!", bố nói lớn, và người hướng dẫn du lịch lập tức ngừng nói, trân trối nhìn ông như bị sốc. "Không phải anh!", bố xua tay lia lịa trước mặt anh ta. "Tôi nói cô này!", ông chỉ và thế là toàn bộ người trên xe quay lại nhìn tôi. "Bên tay phải quý vị sẽ thấy là thờ Thánh Anne, do Isaac Wells thiết kế năm. Kiến trúc nội thất của thế kỷ mười bảy", Olaf tiếp tục thuyết với ba mươi thủy thủ hùng mạnh trên tàu Vikings. "Thật ra mặt bên ngoài mang dáng dấp cổ điển chỉ được thêm vào năm 1868 và chúng được thiết kế bởi Thomas Newenham Deane", tôi nói nhỏ vào tai bố. "Ô," bố thốt lên, mắt mở to. "Bố chưa bao giờ biết về điều đó. Tôi cũng ngạc nhiên với thông tin mình thốt ra vừa rồi. "Con cũng không biết!". Bố cười khẽ. "Chúng ta đang đi trên đường Nassau, sau đó chúng ta sẽ đi qua đường Grafton bên tay trải một chút. Bố bắt đầu hát: "Đường Grafton là nơi thần tiên". Lớn lên. Người phụ nữ ngồi phía trước chúng tôi quay lại, mặt rạng rỡ. "Ông biết bài hát này à? Bố tôi cũng thường hay hát bài này. Ông là người Ailen. Ô, thật là vui khi được nghe lại. Ông có thể hát cho chúng tôi nghe không?". Một dàn hợp xướng thành lập xung quanh chúng tôi, "Hát đi, hát đi...". Bố chẳng lạ gì việc hát trước mặt nhiều người, ông vẫn làm như thế hàng tuần ở câu lạc bộ thứ Hai, vì vậy, ông bắt đầu hát. Toàn thể hành khách trên xe buýt tham gia vào, lắc người qua lại. Giọng hát của bố bay ra khỏi khung cửa sổ bằng nhựa, vào tai cả những người đi đường, và những người đang đi xe lướt qua. Tôi lấy máy ảnh, chộp một tấm hình mới, lưu lại khoảnh khắc bố đang ngồi cạnh tôi, hát vang với đôi mắt nhắm lại, chiếc mũ có hai cái sừng vươn cao trên đầu. Justin nhấp nhổm thiếu kiên nhẫn trong khi Sarah chầm chậm gắp từng miếng xà lách đưa lên miệng. Cái nĩa của cô nghịch ngợm xiên vào miếng thịt gà; miếng thịt gà ghim vào rồi rớt xuống. Cô xiên lại một lần nữa, rồi thì đưa lên. Cuối cùng, cô xắn miếng cà chua. Và trong khi cô đưa cái nĩa lên miệng, miếng thịt gà lại rơi xuống lần nữa. Đây là lần thứ ba. "Anh có chắc là anh không đói không? Trông anh có vẻ như sẵn sàng nghiên cứu cả đĩa xà lách đấy." Cô cười và quay tròn chiếc nĩa thức ăn, làm mấy miếng hành đỏ và pho mát rơi lại xuống đĩa. Giống như một bước tới, hai bước lùi vậy. "Vâng, anh có thể nhấm nhấp chút gì đó...". Thật ra anh đã gọi món súp và ăn xong phần súp của mình trong khi Sarah còn mải mê xiên xiên mấy miếng thịt gà rồi. "Anh muốn em đút cho anh tí tẹo không?", cô nháy mắt thân thiện, đưa nĩa thức ăn đến trước miệng. "Anh muốn nhiều hơn nữa". Cô xiên thêm một vài miếng thức ăn. "Hơn nữa", anh nói, mắt vẫn nhìn đồng hồ. Càng ăn nhanh thì thời gian chán nản càng rút ngắn hơn. Anh biết người phụ nữ của anh, giờ đã đổi thành tên Veronica, có thể đã đi xa rồi. Và việc ngồi đây, nhìn Sarah đốt thêm một ít ca- lo năng lượng bằng cách đùa chơi với thức ăn thay vì nuốt vào bụng, thì chán phèo đi được. "Này một chiếc máy bay đang đến", Sarah hát khẽ. "Nhiều hơn nữa". Ít nhất phân nửa thức ăn bị rơi xuống khi Sarah cố ghim cho thật đầy và đưa nó lên. "Nữa? Làm sao mà anh có thể ghim nhiều hơn được? Anh chẳng quan tâm gì đến cái miệng của anh sao?". "Đây anh sẽ chỉ cho em". Justine lấy cái nĩa từ tay cô và xiên thật nhiều thức ăn. Gà, bắp, rau diếp, củ cải đường, hành, cà chua, pho mát; anh đâm được tất cả. "Bây giờ...", Sarah cười khúc khích, "Em bảo đảm từng này không vừa với miệng anh". "Anh có cái miệng khá to". Cô cười, đưa chiếc nĩa vào vừa vặn miệng Justin. Khi anh nuốt tất cả, anh nhìn đồng hồ, rồi nhìn đĩa xà lách của cô. "Giờ tới lượt em". Mình đang chơi cái trò khỉ gì vậy, Justin. "Không đời nào", cô cười lớn. "Nhanh nào". Anh xiên thật nhiều thức ăn, có cả miếng thịt gà bị rớt lại bốn lần và khéo léo đưa cả phần thức ăn trên nĩa vào miệng Sarah. Cô cười trong khi cố gắng cho hết vào miệng. Vẫn còn thở được. Nhai, nuốt hay cười, cô cũng cố gắng tỏ ra xinh xắn. Hầu như cả phút, cô không thể nói vì phải cố gắng nhai chậm rãi như một người phụ nữ. Và khi cô nuốt xong nĩa thức ăn đầy, môi cô xuất hiện nhiều vết nhòe của son môi. "Thật là vui", Cô Cười. Helen. Cái tên của người phụ nữ ấy nên là Helen. Giống Helen của thành Troy, đẹp đến nỗi cô ta có thể bắt đầu một cuộc chiến tranh. "Ông bà dùng xong chưa ạ? Tôi có thể dọn đĩa?", cô phục vụ duyên dáng hỏi. Sarah định trả lời chưa, nhưng câu trả lời chưa thốt ra trọn vẹn thì Justin đã cắt ngang. "Vâng, chúng tôi đã xong, cám ơn!". Anh tránh cái nhìn chằm chằm của Sarah. "Thật sự em chưa dùng xong!". Sarah nói lạnh lùng. Cái đĩa của cô đã được thay mới. Chân Justin bật lên dưới bàn, anh mất dần sự kiên nhẫn. Salma, Salma quyến rũ. Cái tên ấy thì sao nhỉ? Một sự yên lặng ngượng nghịu bao phủ giữa hai người. "Anh xin lỗi, Salma, anh không có ý định xử sự khiếm nhã...". "Sarah". "Gì cơ?". "Em tên là Sarah". "Anh biết mà. Anh chỉ...". "Anh gọi em là Salma". "Ồ, cái gì? Salma là ai? Chúa ơi. Xin lỗi. Thật tình anh cũng không biết sao lại gọi em là Salma!". Cô ăn nhanh hơn. Rõ ràng, bây giờ người muốn kết thúc bữa trưa và tránh khỏi anh là cô. Anh dịu giọng, "Chỉ vì anh chỉ muốn quay lại trường sớm hơn dự định", anh nói. Cô cười gượng và nhanh chóng xị mặt xuống nhìn lại đĩa thức ăn mới. Giờ thì cô ghim thức ăn với mục đích rõ ràng. Thời gian đùa vui qua rồi. Đến giờ ăn. Thức ăn trong miệng cô chứ không phải là những câu hài hước đùa cợt nữa. Justin thấy lòng mình như co rúm lại, anh nhận ra rằng cách xử sự của mình vừa rồi thật khiếm nhã, chẳng giống tính cách của mình. Giờ thì hãy nói những gì mình nghĩ. Anh chằm chằm nhìn cô: gương mặt đẹp, thân hình cân đối, vẻ thông minh duyên dáng. Lịch sự trong bộ vét nữ, chân dài, môi đầy đặn. Móng tay thanh lịch, gọn gàng theo kiểu Pháp, chiếc túi xách xinh xắn, hợp với đôi giày dưới chân. Chuyên nghiệp, tự tin. Hoàn toàn chẳng có vấn đề gì với một phụ nữ như vậy. Chỉ có sự xao lãng của Justin là có vấn đề, như thể một phần tâm hồn anh gửi tận đâu đâu. Thật ra, một phần cũng vì anh cảm thấy như có sự thôi thúc trong lòng, bị ép buộc phải ra ngoài bắt lấy cái gì đó. Bây giờ chạy đi có vẻ là một ý kiến hay. Nhưng vấn đề là anh ta chẳng biết chạy đi để bắt cái gì hay mong đợi việc bắt gặp lại người phụ nữ ban nãy. Và liệu có đáng không khi bỏ lại một người đẹp đang ngồi trong nhà hàng với anh để theo đuổi một ý tưởng ngớ ngẩn thế? Anh không nhịp chân lên xuống nữa và ổn định lại trên ghế của mình. Không còn ngồi ở mép ghế nữa và cũng không còn sẵn sàng lao ra cửa ngay khi Sarah bỏ dao nĩa xuống. "Sarah", anh thở dài, và nghiêm túc. "Anh xin lỗi". Cô ngừng đưa thức ăn lên miệng và ngước lên nhìn anh, nhai nhanh, dùng khăn ăn chậm nhẹ lên môi, rồi nuốt. "Không sao". Gương mặt cô giãn ra. Cô dọn sạch những mảnh vụn thức ăn xung quanh đĩa và nhún vai. "Em không có ý định tìm người yêu ở đây, Justin". "Anh biết, anh biết!". "Bữa trưa chỉ là bữa trưa thôi". "Anh biết mà". Cô nhìn tách cà phê đã cạn của anh, búng nhẹ tay trong không khí. Anh chồm người tới, nắm tay cô để ngăn vẻ bồn chồn lại. "Anh xin lỗi". "Không sao", cô lặp lại. Không khí trong lành. Sự căng thẳng đã bay đi, cái đĩa của cô cũng được dọn đi. "Em nghĩ chúng ta nên tính tiền". "Em lúc nào cũng muốn làm bác sĩ à?". "Hả?". Cô dừng lại trong khi đang mở bóp. "Chuyện đó có ảnh hưởng gì sâu đậm với anh, phải không?". Cô cười. "Anh xin lỗi". Justin lắc đầu. "Hãy uống thêm cà phê trước khi chúng ta đi. Hy vọng anh có thời gian xóa đi cuộc hẹn tệ nhất của em từ trước đến nay này". "Ồ, không!". Cô lắc đầu và cười. "Nó gần như vậy, những điều tồi tệ nhất, nhưng anh đã kéo nó lại bằng câu hỏi bác sĩ.". Justin cười. "Vậy là em luôn muốn mình làm bác sĩ?". Cô gật đầu. "Kể từ khi Jame Goldin cấp cứu cho em hồi còn bé. Lúc đó em năm tuổi và anh ta đã cứu sống em". "Năm tuổi? Còn quà bé mà phải cấp cứu? Chắc chuyện đó ảnh hưởng lớn đến em lắm!". "Rất lớn! Em đang ở ngoài sân chơi nhà trẻ trong giờ trưa. Em ngã khi đang chơi và đau khủng khiếp ở đầu gối. Các bạn của em đã dọa sẽ phải cắt cụt chân nhưng James Goldin chạy đến, anh ấy làm sơ cứu cho em. Chỉ vậy, hết đau. Đó là lúc em tỉnh lại!". "Vì điều đó mà em muốn làm bác sĩ như anh ấy?". "À không, thời điểm đó, điều em muốn làm là cưới James Goldin". Justin cười. "Và em cưới?". "Không, em trở thành bác sĩ!". "Em giỏi công việc đó mà". "Vâng, bởi vì anh đã cảm nhận được mũi tiêm khi hiến máu", cô cười. "Mọi thứ đều ổn chứ ạ?". "Cánh tay anh hơi bị ngứa nhưng nó đã ổn rồi". "Ngứa? Không thể ngứa được, để em xem!". Anh chuẩn bị xăn tay áo lên nhưng đột nhiên dừng lại. "Anh có thể hỏi em một vài điều?". Anh lúng túng nhấp nhổm trên chiếc ghế của mình. "Có cách nào để anh có thể biết máu mình hiến đã đi đâu? Ở đâu? Bệnh viện nào? Hoặc nếu được, em có biết ai đã nhận nó?". Cô lắc đầu "Nét đẹp của việc hiến máu là ở đó, hoàn toàn ẩn danh". "Nhưng phải có một người nào đó, ở đâu đó biết chuyện này phải không? Có thể là trong sổ sách trong bệnh viện hay sổ sách trong văn phòng của em?". "Dĩ nhiên rồi. Máu được giữ trong ngân hàng máu và luôn luôn có thể truy tìm nguồn gốc. Tất cả các quy trình đều được lưu trữ, quản lý cho đến tay người nhận nhưng...". "Anh ghét từ nhưng đó lắm!". "Thật không may cho anh, anh không thể biết được người anh cho máu". "Nhưng em nói nó được lưu vô sổ sách mà". "Những thông tin đó không thể công khai. Tất cả các những chi tiết đều được lưu trữ trong dữ liệu máy tính, ở đó có cả chi tiết của người nhận máu. Tuy nhiên, theo điều luật bảo vệ dữ liệu, anh phải xin phép để truy cập vào". "Những dữ liệu đó có thể cho anh biết ai đã nhận máu của anh à?". "Không". "Vậy, anh cũng không muốn xem". "Justin, máu của anh không phải được bơm thẳng vào cơ thể của một người nào đó, mà nó được tách ra các thành phần như hồng cầu, bạch cầu, tiểu huyết cầu...". "Anh biết, anh biết, anh biết tất cả điều đó!". "Em xin lỗi em không thể giúp gì được. Tại sao anh tha thiết muốn biết thế?". Anh suy nghĩ một chút trong lúc bỏ viên đường màu nâu vào tách cà phê khuấy vòng tròn. "Anh cảm thấy tò mò muốn biết người được anh giúp. Liệu máu của anh có ích cho họ thật sự không. Nếu có ích thì bây giờ họ ra sao. Em có thể cho là anh bất thường. Nhưng không sao!". "Đừng ngớ ngẩn", cô nói dịu dàng. "Mặc dù đúng là em đã nghĩ anh như vậy rồi". "Anh hy vọng đó không phải là ý kiến chuyên môn của em". "Nói em nghe lý do thật xem nào!". Đôi mắt xanh với tia nhìn sắc sảo chăm chăm dõi theo từng cử động của anh qua tách cà phê trong khi cô nhấp nháp. "Lúc đầu, nó như một cảm giác tò mò bản năng của người đàn ông vậy. Anh muốn biết anh đã cứu ai. Ai là người được anh hiến tặng những giọt máu quý giá của mình". Sarah cười. "Nhưng gần đây, đó không còn là cảm giác tò mò đơn thuần nữa. Không hiểu sao anh không thể vứt nó ra khỏi suy nghĩ của mình. Anh có cảm giác khác lạ. Khác lạ một cách chân thật, rõ ràng. Giống như anh đa cho đi một điều gì đó. Một điều gì đó rất quý giá... gửi gắm đến ai đó khác...". "Đúng là rất quý giá, Justin. Chúng ta lúc nào cũng cần có nhiều người hiến máu". "Anh biết, nhưng nó không... không giống như vậy. Anh cảm giác như là một ai đó đang đi ngoài kia mà bên trong họ có những giọt máu anh cho và bây giờ anh có cảm giác như bỏ lỡ cái gì đó...". "Là sao?". "Ý anh là anh cảm thấy giống như mình cho một phần thân thể để hoàn thiện một thân thể khác, một phần thân thể của anh và... Chúa ơi. Điều này thật là điên rồ. Anh chỉ muốn biết người đó là ai. Anh cảm thấy như đã gửi một phần thân thể của mình đến người đó và chỉ muốn chạy ra khỏi đây để tìm nó lại". "Anh không thể lấy máu của anh lại, anh biết mà!", Sarah đùa một cách yếu ớt. Cả hai chìm sâu trong suy nghĩ; Sarah buồn buồn nhìn vào tách cà phê của cô, Justin cố sắp xếp lại ý tứ diễn đạt của mình. "Anh không nên cố gắng diễn giải điều gì đó không logic với một bác sĩ", anh nói. "Anh cũng giống như nhiều người em từng biết thôi, Justin. Nhưng anh là người đầu tiên trách móc về việc hiến máu". Im lặng. "Ô", Sarah với tay lấy cái áo khoác phía sau lưng ghế, "Anh đang vội, vì thế chúng ta nên đi thôi!". Họ đi xuống đường Grafton. Mọi thứ chìm trong một sự yên tĩnh dễ chịu, thỉnh thoảng chấm phá bằng vài câu đối đáp ngắn. Cả hai tự động dừng chân ở tượng Molly Malone, đối diện với trường Trinity. "Anh đã trễ giờ lên lớp". "Không, anh còn một ít thới gian, bởi vì trước đó anh...", anh nhìn đồng hồ và nhớ lại lý do mình nói ban nãy. Anh cảm giác mặt đỏ lên. "Xin lỗi". "Không sao", cô lặp lại. "Anh có cảm giác như suốt buổi trưa anh nói xin lỗi còn em thì nói không sao". "Thật sự không sao mà". Cô cười. "Và anh thật sự....". "Thôi!". Cô lấy tay che miệng anh. "Đủ rồi". "Anh thật sự có khoảng thời gian rất vui". Anh nói một cách ngượng nghịu. "Chúng ta nên... em biết đó, anh thật sự cảm thấy không thoải mái khi bức tượng nhìn chúng ta như vậy. Họ nhìn sang phải và nhận ra bức tượng Molly đang nhìn chằm chằm họ. Sarah cười. "Anh biết đó, chúng ta có thể sắp xếp để...". "Gầaaaaammmmmmmmmm!!!". Justin hốt hoảng, giật bắn mình vì những tiếng gầm cực lớn phát ra từ chiếc xe buýt đang đậu gần đèn giao thông ngay bên cạnh. Sarah gào lên theo, vung tay lia lịa. Bên cạnh họ là hơn một tá đàn ông, phụ nữ, trẻ con, tất cả đều đội nón sắt Viking, họ vẫy tay và giả vờ tạo nên tiếng gầm gừ của những gã cướp biển với những người khách bộ hành. Sarah và đám đông người xung quanh trên vệ đường bắt đầu cười lớn, một vài người gầm gừ lại như đã rất quen thuộc với cảnh tượng này. Lúc này, chỉ có Justin là im lặng. Anh thấy mình nghẹt thở, không thể rời mắt khỏi người phụ nữ đang cười ồn ào bên cạnh một ông già; cái nón sắt trên đầu cô ta, hai dây màu vàng hoe lòng thòng hai bên. "Chúng ta đã bắt được họ, Joyce!", ông già trên xe buýt cười, gầm gừ nhỏ nhỏ và vẫy tay. Lúc đầu trông cô đầy vẻ ngạc nhiên. Rồi cô đưa cho ông già tờ năm euro. Ông rất vui, và cả hai đều cười. Nhìn tôi đi. Justin muốn như thế. Cô nhìn ông già trong khi ông giơ tờ giấy bạc ra ánh sáng để kiểm tra. Justin nhìn đèn giao thông, vẫn còn đỏ. Anh vẫn còn thời gian để cô ta thấy anh. Quay lại! Hãy nhìn tôi dù chỉ một lần! Đèn dành cho người đi bộ chớp màu hổ phách. Anh không còn nhiều thời gian. Cô vẫn không quay lại, cô hoàn toàn chìm vào câu chuyện với ông già. Đèn chuyển sang màu xanh và chiếc xe buýt từ từ lăn bánh về đường Nassau. Anh bắt đầu bước vội theo bên hông xe, quyết tâm làm cho cô ta phải nhìn mình. "Justin!". Sarah gọi. "Anh làm gì vậy?". Anh vẫn đi theo chiếc xe, bước mỗi lúc một nhanh hơn, và cuối cùng là chạy lúp xúp. Anh nghe Sarah gọi phía sau, nhưng anh không thể dừng lại được. "Này!", anh gọi. Không đủ lớn. Người phụ nữ trên xe chẳng nghe thấy gì cả. Chiếc xe tăng tốc và Justin chạy thật sự. Kích thích tố tinh thần trỗi dậy khắp người anh. Chiếc xe buýt đã đánh bại anh. Tăng tốc. Và anh mất cô ấy. "Joyce!", anh buột miệng thốt ra. Một âm thanh kinh ngạc của chính anh đã khiến anh dừng lại trên đường. Anh đang làm chuyện gì thế nhỉ? Anh cúi xuống, hai tay chống đầu gối, thở dốc trong cơn gió lốc. Anh cảm giác như bị bắt gặp. Anh quay lại nhìn chiếc xe buýt lần cuối. Một cái nón sắt Viking xuất hiện ở cửa sổ, dây đeo màu vàng hoe đung đưa như con lắc. Anh không thể nhìn rõ mặt, chỉ thấy cái đầu một người thò đầu qua cửa sổ xe buýt quay lại nhìn anh. Anh biết đó là cô ấy. Cơn gió lốc dừng lại trong giây lát khi anh giơ tay lên chào. Một cánh tay xuất hiện ở cửa sổ xe và chiếc xe vòng qua đường Kildare, làm cho Justin, một lần nữa, mất dạng người phụ nữ. Tim anh đập hoang dại. Mặt đường như nghiêng ngả dưới chân. Anh chẳng có chút manh mối nào để biết chuyện gì sẽ xãy ra tiếp theo. Nhưng chỉ có một điều anh biết chắc. Joyce. Tên cô ta là Joyce! Anh nhìn khắp con đường vắng vẻ. Nhưng cô là ai, Joyce? "Tại sao con đưa đầu ra ngoài cửa sổ?". Bố kéo tôi vào, đầy lo lắng. "Chúng ta không có nhiều thời gian để sống, nhưng vì Chúa, vì bản thân mình chúng ta phải sống!". "Bố có nghe người nào đó gọi tên con không?", tôi hỏi nhỏ vào tai bố, tâm trí quay cuồng. "Ô, con nghe ai gọi?", ông càu nhàu. "Con nói con sẽ cho bố năm bảng Anh nếu bố gọi đúng tên con, nhớ không?". Ông ngắt lời tôi và quay sang chú ý vào Olaf. "Phía bên tay trái quý vị là tòa nhà Leinster, bây giờ là tòa nhà quốc hội của Ai- len". Lại lia lịa những chiếc máy ảnh, máy quay phim đưa lên cửa sổ. "Tòa nhà Leinster có nguồn gốc từ tòa nhà Kildare. Bá tước Kildare ra lệnh cho xây dựng tòa nhà này. Khi ông ta trở thành công tước của Leinster, nó đã được đặt tên lại. Trước đây, một phần của tòa nhà là trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia...". "Khoa học", tôi nói lớn lên, mặc dù vẫn đang chìm trong suy nghĩ. "Xin lỗi?". Người hướng dẫn viên du lịch ngừng nói và đầu quay sang. "Tôi mới vừa nói là...", tôi lặp lại, gương mặt đầy phấn khích, "Trường Cao đẳng Khoa học Hoàng gia". "Vâng, thì tôi cũng nói vậy mà". "Không, anh nói Y khoa", một phụ nữ người Mỹ ngồi phía trước nói. "Ô, người hướng dẫn viên bối rối. "Xin lỗi, tôi đã nhầm. Một phần của tòa nhà, trước đây là trường Cao đẳng Hoàng gia", anh nhìn tôi, "Khoa học, và trở thành nơi làm việc của chính phủ Ai- len từ năm 1922...". Tôi quay sang bố. "Bố có nhớ con nói về cái ông thiết kế bệnh viện Rotunda không?", tôi hỏi bố. "Nhớ, ông Dick gì đó...". "Richard Cassells. Ông cũng là người thiết kế tòa nhà này. Mọi người cho rằng nó là mô hình để thiết kế Nhà Trắng". "Vậy ư?", bố nói. "Thật sao?", người phụ nữ xoay vòng ra phía sau nhìn tôi. Bà nói lớn. Rất lớn. Quá lớn. "Anh ơi, anh có nghe cô đó nói không? Cô gái này nói là người thiết kế ngôi nhà này, cũng là người thiết kế Nhà Trắng". "Không, tôi không có nói như vậy...". Tôi chợt nhận ra rằng anh chàng hướng dẫn đã ngưng nói và đang nhìn tôi. Tất cả các đôi mắt, đôi tai, đôi sừng đều quay sang nhìn chúng tôi. "Tôi nói mọi người cho rằng nó là mô hình để thiết kế Nhà Trắng. Không phải là lời khẳng định", tôi nói nhẹ nhàng, không muốn nói thêm nữa chuyện này. "Bởi vì James Hoban người đã thắng dự án thiết kế Nhà Trắng vào năm là người Ai- len". Mọi người nhìn tôi một cách đầy ngưỡng mộ. "Ông ấy học kiến trúc ở Dublin và đã nghiên cứu kiến trúc của tòa nhà Leinster", tôi kết thúc nhanh. Mọi người xung quanh tôi ồ lên và bàn bạc rôm rả về thông tin lý thú vừa mới biết. "Chúng tôi không nghe được được cô nói!", vài người ở đầu xe la lớn. "Đứng dậy, Gracie!". Bố đẩy tôi đứng dậy. "Bố...", tôi khoát tay bố ra. "Olaf, đưa micro cho cô ấy đi!", người phụ nữ nói lớn với anh chàng hướng dẫn viên. Anh ta miễn cưỡng đưa nó cho tôi và đứng khoanh tay. "E hèm... xin chào!". Tôi dùng ngón tay gõ nhẹ và thổi vào cái micro. "Con phải nói là thử máy, một, hai, ba..., Gracie!". "Ummm, thử máy một, hai,...". "Chúng tôi nghe rồi", Olaf cắt ngang. "Vâng", tôi lặp lại những lời bình luận, và những người ở phía trên gật đầu thích thú. "Những tòa nhà phía bên đây cũng là của chính phủ à?", người phụ nữ vừa nói vừa chỉ. Tôi nhìn bố một cách ngập ngừng và ông gật đầu khuyến khích. "Không thưa bà. Tòa nhà phía bên trái là Thư viện quốc gia và Nhà bảo tàng quốc gia bên phải". Tôi định ngồi xuống, nhưng bố xuýt xoa bên tôi. Mọi người nhìn tôi nhiều hơn. Anh chàng hướng dẫn viên trông có vẻ ngượng ngùng. "Thông tin thú vị là Thư viện quốc gia và Nhà bảo tàng quốc gia có nguồn gốc từ Nhà bảo tàng khoa học và nghệ thuật Dubin, mở cửa hồi năm 1890. Cả hai đều do Thomas Newenham Deane và người con trai Thomas Manly Deane thiết kế, từ kết quả của một cuộc thi thiết kế được tổ chức vào năm 1885, và được xây dựng bởi nhà thầu Dublin J. & W. Beckett, những người giỏi nhất Ailen trong lĩnh vực xây dựng. Nhà bảo tàng là một điển hình còn sót lại của nghệ thuật trang trí trên đá, khắc trên gỗ, và ngói gốm của Ai- len. Thư viện quốc gia, nổi bật nhất là đại sảnh hình tròn. Bên trong không gian đại sảnh này dẫn đến cầu thang rất ấn tượng, để đi vào phòng đọc lộng lẫy có trần hình vòm to lớn. Như quý vị có thể thấy, phía bên ngoài là dãy cột và trụ đỡ tường được sắp xếp ngay ngắn theo cách thức Corin và sảnh lớn hình tròn với hành lang mở và cái góc nhô ra đã tạo nên bố cục cho tòa nhà. Trong...". Tiếng vỗ tay lớn làm gián đoạn sự trình bày của tôi. Chỉ một tiếng vỗ tay đơn lẽ đến từ một người... Đó là bố. Những người còn lại thì im lặng. Một đứa trẻ hỏi mẹ liệu nó có thể gầm gừ nữa không, tiếng của nó phá vỡ sự im lặng. "Tôi chưa nói xong", tôi nói nhỏ nhẹ. Bố vỗ tay mạnh hơn khiến một người đàn ông phía dưới cũng vỗ theo. "Và... đó là tất cả những điều tôi biết", tôi nói nhanh rồi ngồi xuống. "Làm sao mà cô biết tất cả những điều đó?", người phụ nữ phía trên hỏi. "Con gái tôi làm môi giới bất động sản", bố nói đầy tự hào. Người phụ nữ nhíu mày, quay sang nhìn Olaf, trông rất hài lòng. Anh ta chụp cái micro trên tay tôi. "Giờ thì mọi người hãy gầm gừ đi nào...!". Sự im lặng vỡ tan. Mọi người trở về với thực tế, trong khi từng thớ thịt trong tôi co rúm lại. Bố nghiêng qua bên tôi ép tôi vào cửa sổ, ông đưa đầu lại gần tôi để nói vào tai tôi. Hai cái mũ sắt đụng nhau lốp cốp. "Làm sao mà con biết được tất cả những điều đó?". Tôi như sắp dùng tất cả các từ ngữ tuôn tràn, miệng tôi mở ra khép lại, và chẳng thốt ra được lời nào. Làm sao mà tôi có thể biết được chứ?