Thời pháp thuộc, làng Bình An, tỉnh Rạch Giá được nổi danh là sung túc. Ruộng đất quá phì nhiêu, chẳng cần bón phân, mỗi công đất (một ngàn thước vuông) thâu hoạch hơn hai chục giạ. Qua tháng mười một, mãn mùa gặt, dân chúng còn hưởng thêm mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng. Nếu trúng mùa dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười. Họ tha hồ mà ăn xài suốt tháng Giêng cờ bạc, đờn ca vọng cổ lai rai đến lúc tháng Ba, sa mưa.Nhịp sống của đoàn nông phu cứ trôi qua đều đều. Nhưng đến năm 1937, một biến cố khá quan trọng xảy ra khiến dân chúng... nghẹt thở. Hầu hết những kẽ tay lấm chân bùn trong làng đều bị lên án là... kẻ ăn trộm trâu.Tiên cáo là một ông lạ mặt, người Việt Nam, mặc âu phục, tay xách cặp da, hút ống vố.Ông ta đến nhà thầy phó hương quản:- Có ai ở nhà không?Thầy phó hương quản ngơ ngác:- Xin lỗi, ông là ai? Xin cho biết quí danh.Ông ta nói:- tôi muốn nói chuyện...Thầy phó hương quản mời ông khách vào nhà. Ông ta mở cặp da, đưa ra một tấm danh thiếp:“ Nguyên Hưu Henri,Domaine agricole de Saigon.”Sau khi đọc sơ qua, thầy phó hương quản lấy làm bối rối:- Thưa ông. Xin ông vui lòng“thông ngôn” cho tôi được hiểu.Thông ngôn có nghĩa là thông dịch. Ông khách cứ hút thuốc, chưa chịu làm công việc ấy. Hồi lâu, ông trợn mắt:- Tấm“cạc” nầy nói nhiều rồi. Quyền hạn thanh tra... toàn Nam Kỳ thuộc địa của tôi như thế nào, chú phó hương quản dư hiểu.Khổ quá! Thầy phó hương quản đành nài nỉ, thú nhận sự dốt nát của mình:- Dạ, tấm“cạc” của quí ông... toàn là chữ Tây. Chắc là ở Sài Gòn!Khách cười nhếch mép:- Khá lắm. Còn hai chữ nữa“Nguyễn Hữu” tôi không thèm bỏ dấu cho đúng mẹo luật Lang Sa. Tôi thường giao thiệp với quan chủ tỉnh mà. Ðây, tôi tạm“thông ngôn ” cho chú hiểu: Tôi là Nguyễn Hữu Hăngri, thanh tra đồn điền Sai Gòn. Tôi vô dân Tây nên giữ chữ Nguyễn Hữu. Mới đây, sau khi tiếp xúc xa giao với quan chủ quận tôi ăn cơm ở nhà quan chánh sở mật thám. Bậy quá, chắc quan chủ quận phiền giận tôi...- Thưa ông sao vậy?- Ổng là anh em bạn học.Lần đầu tiên từ thưở nhỏ đến từng tuổi này. Thầy phó hương quản mới được vinh dự đón rước một nhân vật quan trọng. Lập tức, thầy gọi vợ ra chào khách, bắt gà làm thịt. Ông khách Hăngri nói, giọng bí mật:- Tánh tôi bình dân lắm. Tôi ưa làm quen với người chất phác như chú. Vừa vừa thôi, đừng bày tiệc tùng, tốn kém lắm.Thầy phó hương quản suy nghĩ hồi lâu rồi giả bộ như mình cũng rành tất cả lề lối làm việc của người cầm giềng mối trị dân:- Ông nói chí lý quá. Các quan chủ quận đều rành chữ Tây. Ðọc sơ qua tấm“cạc” của ông, mấy ổng hiểu liền. Chẳng dám nào, ông cho phép...- Chú nói đi. Chỗ quen biết với nhau mà.- Ông cho tôi xin một tấm“cạc” như vầy để lộng kiếng, làm kỷ niệm. Hễ có khách quí tới nhà là tôi nhắc nhở, giới thiệu... lúc ông vắng mặt.Ông Hăngri cau mày:- Ðây! Chú giữ tấm“cạc” này. Nhưng mà chú phải dè dặt. Ðừng phô trương quá sớm. Tôi muốn giữ bí mật. Chờ đôi ba ngày nữa, xảy ra nhiều việc lạ lùng lắm, có lợi cho chú... trong tương lai.Thế là ông Hăngri nghiễm nhiên trở thành vị thượng khách của thầy phó hương quản. Thầy bắt đầu xa lánh bà con chòm xóm, vì lý do riêng. Trong lúc ông Hăngri nằm trên bộ ván gõ, đọc báo Lục Tỉnh Tân Văn thì thầy phó hương quản trèo cây dừa xiêm hái xuống trọn quày.Nhớ đến câu“gái ngoan làm quan cho chồng,” thiếm phó hương quản thắt lưng buộc bụng... sẵn sàng đi tiệm mua nào càri, củ hành, tiêu, tỏi đem về để thanh toán bằng bầy gà bầy vịt.Tối hôm ấy, ông Hăngri mở đầu câu chuyện:- Này chú phó hương quản. Chú là người đáng tin cậy, xứng danh là người làm việc nước. Tôi nhờ chú giúp tôi một vấn đề quan trọng. Chừng mãn nhiệm vụ thanh tra, tôi sẽ gặp quan chủ quận, gởi gắm để thăng chức chú lên chức chánh hương quản.- Dạ, may phước cho đời tôi quá!- Vợ chú ngủ chưa? Ðừng cho đàn bà hay biết. Họ ưa chộn rộn.- Dạ, để tôi coi thử.Rồi chú trở ra:- Nó ngủ rồi.- Chú nên giữ bí mật hoàn toàn. Nếu hư hỏng công việc truy tầm của tôi, chú sẽ bị trừng phạt theo phép nước luật quan. Chừng đó mặc dầu thương mến chú, tôi cũng chẳng tài nào cạy gỡ dùm được.Dưới ánh đèn toạ dăng, trong khi sương mù mịt, bất chấp tiếng chó sủa ma trong xóm vắng, ông Hăngri mở cặp da, đem ra một mớ giấy có đóng dấu đỏ. Thầy phó huơng quản đếm thử: chừng ba chục tấm giấy cứng, màu xanh, lớn gấp đôi cái giấy thuế thân.Ông Hăngri lẩm bẩm:- A lo! A lo!Thầy phó hương quản giật mình, bước ra xa, vấn thuốc hút. Thầy càng tò mò, liếc qua xấp giấy xanh của ông Hăngri. Thầy sực nhớ đến loại giấy mà thầy có đôi ba tấm trong nhà.Thời thực dân, dân chúng gọi nôm na là đó là“bài kía” trâu bò, trên mỗi tấm, hài rõ tên chủ của gia súc, tên con gia súc, tuổi tác, dấu riêng... và số thuế đã nạp.Nhà thầy phó hương quản có hai con trâu và một con bò. Thầy đã lãnh“bài kía,” xác nhận thầy làm chủ ba con gia súc đó. nếu bị trộm cắp, thầy đem“bài kía” để nhìn nhận của đã mất.Ông Hăngri thừa hiểu rằng từ nãy giờ cặp mắt tò mò của chủ nhà đan xăm xoi về phía mình.- Chú phó hương quản. Lại đây tôi dạy việc.- Dạ, tôi sẵn sàng.Ông Hăngri lật đật đem xấp...“bài kía” trâu bò ấy bỏ vào cặp da rồi đưa cho thầy phó hương quản xem một tấm giấy trắng có chữ đánh máy, chữ Pháp.Ông giải thích:“Số là đồn điền chúng tôi - ở chi nhánh Sóc Trăng - từ lâu thường bị ăn trộm trâu. Theo tin riêng của sở mật thám Sài Gòn cho biết thì bọn bất lương đem số trâu bất hợp pháp ấy về bán tại làng Bình An này. Vì vậy, thừa lệnh quan trên...”Thật là đất bằng sóng dậy. Thầy Phó hương quản cố gợi lại trí nhớ. Thỉnh thoảng vài người ở xóm này mua trâu, nhưng là trâu tơ, sanh đẻ tại làng. Lúc nhậu nhẹt, nhiều người chế nhạo lẫn nhau:“mầy là chủ phồn ăn trộm trâu!” nhưng đó là tiếng thường lệ cũng như“đồ mặc dịch! đồ ma bắt.” Nó không có ngụ ý gì ráo.Thầy lẩm bẩm:- Té ra hổm rày ông làm nhiệm vụ mật thám.- Tôi là thanh tra!Phó hương quản bắt đầu e ngại:- Dạ, quan thanh tra muốn“ăn kết” theo cách nào? Theo ý tôi thì dân chúng ở xóm này toàn là người lương thiện. Trâu bò của họ nuôi đều có“bài kía,” đóng thuế đầy đủ, do quan trên thừa nhận.- Nhưng họ mua ở đâu? Mua của ai?- Dạ, mua ở Châu Ðốc, hoặc mua ở mấy xóm gần đây.- À! À!Ông Hăngri vừa gõ cái ống điếu vào gốc cột:- Phó hương quản đừng che dấu tội lỗi của họ mà chịu chung số phận. bây giờ, việc đầu tiên của phó hương quản cần thi hành là tới cái chuồng trâu nào gần đây nhứt, biểu họ trình cho tôi coi mấy cái“bài kía” của trâu bò trong chuồng để tôi kiểm soát.Trưa hôm sau, phó hương quản trở về:- Ðây! Nhà của Trần Văn Lén, tất cả bốn con trâu tên là trâu Pháo, trâu Bướm, trâu Ðiệu, trâu Mẫm.Ông Hăngri nói nhanh:- Tôi muốn kiểm soát dấu riêng của mỗi con trâu. Nếu nó trúng dấu với mấy con đã ghi trong tờ cớ của tôi thì đó là trâu gian. Tôi cần làm việc cẩn thận. Phó hương quản cứ tới nhà mấy người khác, từ nhà tên Trần Văn Lén này dài đến cuối xóm, tom góp tất cả“bài kía” đem cho tôi xem xét lại.Cả xóm nhốn nháo lên vì nguồn tin bất lành ấy. Vốn làm ăn chất phác, tin tưởng nơi công lý, các chủ trâu đều ngoan ngoãn tuân lịnh.- Vàng thiệt không sợ lửa, - họ tự an ủi.