ôi mong muốn bày tỏ trên bài tường thuật này lòng biết ơn sâu sắc của chúng tôi đối với bè bạn ở vùng Amazon, về lóng tốt cao cả và ta6mt ình mến khác mà các bạn đã dành cho chúng tôi rong cuộc hành trình trở về. Chúng tôi nghĩ là tình trạng sôi nổi kích động xảy ra trên các vùng thuộc Nam Mỹ mà chúng tôi đi qua chỉ có tính chất địa phương thuần túy. Chúng tôi có thể cam đoan với các bạn nước Anh là chúng tôi kjho6ng hề có ý muốn khua chiêng gióng trống, đề cao vấn đề này lên. Chỉ có những tin đốn đại về các cuộc thám hiểm của chúng tôi là đã lan tràn khắp châu Âu. Khi con tàu của chúng tôi còn cách South Hampton chừng 500dặm thì những bức điện của hết tờ báo này đến tờ báo khác, hết hãng thông tấn này đến hãng thông tấn khác bay đến tới tấp, yêu cầu chúng tôi điện cho họ một bản tin ngắn về những kết quả thực tế của chúng tôi và trả giá rất cao. Điều đó chứng tỏ rằng, không chỉ có giới khoa học mà cả đông đào quần chúng đã quan tâm đến chúng tôi biết chừng nào. Tuy nhiên, chúng tôi thỏa thuận với nhau rằng không cung cấp cho cơ quan thông tín bất kỳ một lời tuyên bố khẳng định nào, trước khi chúng tôi gặp các thành viên của Viện Động vật Học, bởi vì đó là cơ quan đã cử chúng tôi đi khảo sát, và chúng tôi có nhiệm vụ báo cáo lại với họ trước tiên. Mặc dù là như vậy, chúng tôi vẫn gặp rất nhiều phóng viên của South Hampton đón hỏi, nhưng chúng tôi tuyệt đối không cung cấp một tin tức nào có tác dụng làm công chúng chú ý đến cuộc họp đã được thông báo tổ chức vào chiều ngày 7 tháng 11. Đối với cuộc họp này thì Hội trường Viện Động Vật Học, nơi chúng tôi đã nhận nhiệm vụ lúc ra đi, trở thành quá bé nhỏ, chỉ có Hội trường Nữ Hoàng ở phố Regent mới có thể đáp ứng được. Bây giờ, lại nghe những người tổ chức bảo có thể dám làm ở hộp trường Albert mà vẫn còn lo thiếu chỗ. Chúng tôi về đến London được hai ngày thì cuộc họp lớn này mới được ấn định. Đầu tiên mỗi chúng tôi dĩ nhiên còn phải lo những chuyện cần thiết của riêng mình. Ấy là tôi chưa nói đến công việc của tôi. Tôi đã trình bày với các bạn ở ngay đầu bản tường thuật này về những động cơ của hành động của tôi. Có lẽ, đúng ra tôi phải tiếp tục kể nốt câu chuyện đó và nói đến những kết cục của nó mà ít ra đã khuyến khích tôi tham gia vào một cuộc mạo hiểm kỳ diệu. Tôi chỉ còn biết cảm ơn cái sức mạnh đã thúc đẩy tôi hành động. Còn bây giờ tôi sẽ quay lại với cái phút quan trọng nhất, đầy những sự kiện trong cuộc thám hiểm của chúng tôi. Tôi đang vắt óc cố miêu tả cho thật đúng sự việc thì mắt tôi chợt nhìn thấy tờ báo của chúng tôi ra sáng ngày mùng tám tháng mười một, có bài tường thuật đầy đủ và tuyệt diệu của anh bạn phóng viên McDonald của tôi. Không gì hơn là tôi ghi lại bài tường thuật của anh, những dòng tít và toàn bộ bài viết. Đây, bài tường thuật như sau: Miền đất mới Cuộc họp vĩ đại ở Hội trường Nữ Hoàng Những cảnh tượng náo nhiệt Việc Bất ngờ kỳ lạ Cuộc náo loạn ban đêm ở phố Regent (Đặc Biệt) “Phiên họp có nhiều tranh luận do Viện Động vật Học triệu tập để nghe báo cáo của ban điều tra được cử đi Nam Mỹ năm ngoái, xác minh lại những điều khẳng định của giáo sư Challenger về sự tồn tại của cuộc sống thời tiền sử trên lục địa này, đã diễn ra tối qua tại Hội trường Nữ hoàng rộng lớn. Phải nói rằng đây là một ngày vô cùng trọng đại trong lịch sử khoa học thế giới bởi những gì đã diễn ra thật không thể diễn tả nổi. Vé mời tham gia cuộc họp chỉ dành cho các thành viên của Viện. Chưa đến giờ khai mạc mà tất cả mọi hàng ghế trong hội trường đều kín chỗ. Công chúng nói chung – những người không được vào hội trường đã đứng bên ngoài hò hét và đập phá. Sau một hồi xô đẩy đã khiến cho nhiều người bị thương trong đó có Thanh tra Scoble củaVăn phòng H bị gẫy chân. Cuối cùng cửa hội trường bị bật tung ra và mọi người xô nhau chen vào. Họ đứng chật cả lối đi, thậm chí còn chen chật cả chỗ dành cho báo giới. Tổng cộng có khoảng năm ngàn người tham gia vào cuộc đón chào những nhà thám hiểm. Cuối cùng thì những nhà thám hiểm của chúng ta cũng bước ra sân khấu. Sân khấu là một bục gỗ kê sát hàng ghế của các nhà khảo cổ học hàng đầu không chỉ của nước Anh mà cả từ các nước Pháp, Thụy Điển, Đức cũng cử đại diện sang. Đó chính là nhà Động Vật học nổi tiếng – Giáo sư Sergius đến từ trường Đại học Upsala. Khi bốn người anh hùng của chúng ta bước vào cả hội trường đứng lên vỗ tay như sấm. Tuy nhiên nếu có ai đó tỏ ra tinh ý một chút thì sẽ nhận ra trong sự hoan nghênh nhiệt liệt đó cũng có một vài người tỏ ý phản đối. Không ai có thể tiên đoán được những gì diễn ra tiếp theo. Tôi cũng phải nói thêm với độc giả một vài điều về bề ngoài của bốn vị anh hùng để mọi người hiểu rõ hơn khi xem ảnh của họ trên các trang báo. Hình dáng bên ngoài đã chứng tỏ họ đã phải nếm trải quá nhiều gian khổ. Bộ râu của Giáo sư Challenger bờm xờm hơn trước. Giáo sư Summerlee nhìn càng khổ hạnh. Huân tước Roxton thì trước vẫn có vẻ ngoài khắc khổ thì nay càng khắc khổ hơn. Nước da thì đen hơn cái ngày họ đi nhưng tất cả đều có vẻ khỏe mạnh hơn trước. Và cuối cùng là phái viên của chúng tôi – một vận động viên có hạng, một nhà vô địch môn Rugby – cậu Malone. Cậu Malone đang đưa mắt theo dõi khán giả với một nụ cười tuy hồn hậu trên gương mặc trung thực mà giản dị của anh (Được, Mc, hãy chờ đến khi tôi gặp riêng cậu!).. “Khi yên tĩnh trở lại và các vị thính giả đã ngồi xuống ghế, thì chủ tọa của cuộc họp – Công tước Durham phát biểu khai mạc. Ông nói ông sẽ không phát biểu quá một phút trước hội nghị đông đảo này vì còn bao điều thích thú đang chờ đợi họ. Rõ ràng là thời đại của những anh hùng hiệp sĩ vẫn còn sống và có cơ sở để các nhà tiểu thuyết với trí tưởng tượng phóng khoáng có thể viết về những cuộc điều tra khoa học của những nhà nghiên cứu đi tìm sự thật. Ông còn nói thêm trước khi ngồi xuống là ông rất sung sướng, và tất cả mọi người khác cũng sung sướng, thấy rằng các nhà thám hiểm đã trở về bình an và mạnh khỏe, hoàn thành được nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm của họ, không ai có thể phủ nhận rằng, nếu chẳng may đoàn thám hiểm gặp tai nạn thì điều đó sẽ là một mất mát lớn không thể hàn gắn được cho sự nghiệp về động vật. (Vỗ tay rất to, trong đó tôi thấy giáo sư Challenger cũng tham gia). “Giáo sư Summerlee vừa đứng dậy thì cả hội trường vỗ tay nồng nhiệt một cách kỳ lạ, từng lúc, từng lúc lại vang lên những tràng pháo tay trong suốt thời gian ông nói. Bài phát biểu của ông đầy đủ và giống y hệt những gì phóng viên Malone của chúng ta đã viết trong những bức thư gửi về tòa soạn. Sau khi trình bày nguồn gốc của cuộc thám hiểm và bày tỏ lòng kính trọng đối với người đồng nghiệp – Giáo sư Challenger cũng như sự hối hận vì đã có lần ông đã tỏ ra không tin tưởng Giáo sư Challenger. Giáo sư Summerlee đi vào phần tường trình cuộc phiêu lưu nhưng ông cũng đã khéo léo giấu biệt những thông tin mà ông nghĩ nó sẽ làm khán giả xác định được vị trí của vùng bình nguyên xa xôi và huyền bí kia. Ông cũng đặc biệt nhấn mạnh những khó khăn mà đoàn gặp phải khi họ đến vách đá, nhất là những khó khăn mà họ phải vượt qua khi tìm đường leo lên bình nguyên. Những điều ông nói khiến khán giả mê mẩn. Ông cũng kể chi tiết việc đoàn đã leo được lên bình nguyên bằng cách nào và việc đó đã làm chết hai người giúp việc lai da đỏ ra sao. Giáo sư Summerlee đã cố gắng trình bày vấn đề theo một cách riêng khiến cử tọa không ai đặt câu hỏi nhạy cảm về vấn đề này. “Giáo sư cũng đưa khán giả lên cực điểm hồi hộp khi nhắc đến chuyện rơi cầu và những chuyện li kỳ xảy ra trên miền đất kỳ lạ đó. Ông không nhắc nhiều đến những chuyến phiêu lưu của những cá nhân mà đặc biệt nhấn mạnh đến những thành quả khoa học mà đoàn đã đạt được nhất là những kết quả thu được từ việc quan sát các loài côn trùng, bướm, thú vật và hệ thực vật ở đó. Chỉ trong vài tuần ông đã lấy được mẫu vật của bốn mươi sáu loài bọ cánh cứng và chín mươi tư loại bọ cánh vảy. Cả hội trường chăm chú lắng nghe khi Giáo sư nói đến những loài thú mà khoa học cho rằng chúng đã tuyệt chủng trên trái đất từ lâu rồi mà nay vẫn còn tồn tại trên vùng đất đó. Ông kể tên một vài loạt những loài thú mà đoàn của ông đã gặp và nói thêm nếu như giới khoa học tiến hành thám hiểm một cách kỹ lưỡng hơn. Ông nói rằng ông và các bạn đã chứng kiến tận mắt hơn một chục loài thú mà theo ông chưa ai trên trái đất này được trông thấy. Ông nêu ví dụ về một loài rắn mà da của nó có màu tím sẫm, thân dài năm mươi mốt feet, một loài động vật có vú khác có màu trắng vừa di chuyển vừa mang trên mình chất phốt pho cháy, một loài sâu đen cỡ lớn mà người da đỏ ở đó nói rằng có chứa chất độc cực mạnh. Ngoài những chuyện về hệ động thực vật ở đó ông cũng kể về những yếu tố đặc trưng của vùng đất mà theo ông có liên quan chặt chẽ với thời kỳ đầu của kỷ Jurassic. Ông kể về những con khủng long khổng lồ mà Malone đã nhìn thấy bên bờ hồ trung tâm, con vật mà họa sĩ người Mỹ, người đầu tiên thám hiểm vùng đất này đã vẽ trong cuốn sổ tay của anh ta. Giáo sư cũng kể về những con thằn lằn răng giông và những con thằn lằn ngón cánh. Ông cũng khiến cử tọa sợ hãi khi kể về những lần chạm trán với loài khủng long ăn thịt người, về loài chim khổng lồ và hung tợn, về những con nai sừng tấm. Đặc biệt khi ông đề cập đến những điều bí ẩn quanh khu vực hồ trung tâm thì khán giả rất quan tâm. Mọi người tỏ ra choáng váng khi nghe về những con thằn lằn cá ba mắt và những con rắn nước khổng lồ sinh sống trong hồ. Tiếp đó ông kể về những người da đỏ, về sự thống trị của loài vượn người mà ông cho là giống với loài vượn người ở đảo Java. Cuối cùng ông kể rất tỉ mỉ về cái khinh khí cầu của Giáo sư Challenger, rất tài tình nhưng cũng khá nguy hiểm. Ông kết thúc bằng câu chuyện không sao quên được, là những phương pháp mà đoàn thám hiểm cuối cùng đã tìm ra d963 trở về thế giới văn minh. Mọi người đã tưởng rằng hội nghị sẽ kết thúc ở đây và những lời cảm ơn cùng chúc mừng do giáo sư Sergius ở trường đại học Upsala vừa nói sẽ được mọi người ủng hộ và thông qua, những chẳng lâu la gì đã thấy rõ là, sự việc không phai đã trôi chảy êm ả. Những triệu chứng chống đối từng lúc, từng lúc đã thấy biểu hiện rõ trong tối hôm ấy. Bấy giờ tiến sĩ Illingworth ở Edinbourg đứng lên giữa hội trường. Ông hỏi ban lãnh đạo hội nghị xem có thể đề nghị kiểm tra tính chất chính xác của những thông tin vừa nêu. Vị chủ tọa nói: - Vâng thưa ngài! Chắc chắn chúng ta sẽ tiến hành thẩm tra! Tiến sĩ: - Nhất định phải như thế! Chủ tọa: - Chúng tôi sẽ tiến hành ngay! Giáo sư Summerlee đứng bật dậy: - Tôi xin nói để quý vị biết người này có tư thù với tôi sau cuộc tranh luận trên Tập san khoa học! Chủ tọa: - Tôi không muốn đề cập đến các vấn đề cá nhân ở đây! Tiến sĩ Illingworth bị mọi người phản đối rất dữ. Nhiều cánh tay kéo ông ngồi xuống ghế nhưng vì là một người rất khỏe mạnh, có giọng nói to và rất vang cuối cùng ông cũng hoàn thành xong bài phát biểu. Chính vì thế Tiến sĩ Illingworth cũng gây được sự đồng tình từ một số nhỏ khán giả. Phần lớn khán giả còn lại thì giữ thái độ thận trọng. “Tiến sĩ Illingworth bày tỏ thái độ kính trọng đối với hai nhà khoa học Giáo sư Challenger và Giáo sư Summerlee. Ông cũng nói rằng ông rất tiếc vì các định kiến mang tính cá nhân đã ảnh hưởng đến chủ định mang tính học thuật của mình. Cương vị của ông lúc này thực tế cũng y như cương vị của giáo sư Summerlee trong cuộc họp lần trước. Trong cuộc họp đó, giáo sư Cahllenger đã trình bày mấy điều khẳng định và đã bị một bạn đồng nghiệp chất vấn. Bây giờ chính người đồng nghiệp đó lại đứng ra lặp lại đúng những điều khẳng định của giáo sư Challenger va đòi hỏi mọi người không được chất vấn. Điều đó có hợp lý không? (“Có”, “Không”, và sự gián đoạn kéo dài, trong khi đó từ phòng dành cho nhà báo, người ta nghe thấy giáo sư Challenger xin phép ngài chủ tịch để đuổi tiến sĩ Illingworth ra ngoài hội trường). “- Một năm trước đây một người đã nói lên những điều đáng sửng sốt. Bây giờ bốn người vừa đi về lại còn nói lên những điều khác đáng giật gân hơn. Đó có phải là một bằng chứng quyết định cho những vấn đề đang được bàn đến đầy tính chất hoang đường và quá cách mạng không? Gần đây đã có những người du lịch không biết từ đâu tới mang theo những câu chuyện đã được người ta tin một cách qúa dễ dàng. Viện Động Vật Học London có thể đặt mình vào vị trí đó được không? “Ông thừa nhận rằng bốn người trong đoàn thám hiểm là những người có tư cách nhưng ông cũng nói thêm rằng bản chất của con người rất phức tạp. Ngay cả các Giáo sư cũng có khi lầm lẫn. Tất cả mọi thứ cần phải được chứng minh rõ ràng. Những người chuyên nghề săn bắn thường có ý nâng cao quan điểm về những chuyện săn bắn của họ (ý ông muốn nói đến Huân tước Roxton) còn cánh nhà báo (ông muốn nói đến Malone) thì lại thuộc một hệ khác, họ thường có trí tưởng tượng bay bổng. “- Thật xấu hổ! Thật xấu hổ! “- Ông ta nói không có ý phản đối lại (Có! Một tiếng cắt vang lên) “… Nhưng chứng cớ của những chuyện kỳ diệu này thực sự chỉ là một bài tường thuật thiếu sức thuyết phục nhất. Rốt cuộc, có được gì đây? Một vài tấm ảnh chụp. Có lẽ nào trong thời đại của những thủ thuật tinh vi này, mấy bức ảnh đó lại có thể chấp nhận là sự thật. Còn gì nữa? Chúng ta đã nghe câu chuyện leo lên và leo xuống bằng dây chảo, nó là tiền đề để trình bày những mẫu vật kỳ lạ hơn. “Tiến sĩ Illingworth nói tiếp: Vì vậy tôi đề nghị là, trong khi cảm ơn giáo sư Summerlee về bài nói chuyện hấp dẫn của ông thì toàn bộ vấn đề này cần được xem như “non-proven” và sẽ chuyển giao cho một ban điều tra lớn hơn và có thể đáng tin cậy hơn. Quả thật khó mà miêu tả đầy đủ tâm trạng bối rối của cử tọa khi Tiến sĩ Illingworth nêu lên vấn đề thẩm tra những thông tin của đoàn thám hiểm. Một phần đông cử tọa tỏ ra bất bình khi có sự nghi ngờ đối với đoàn thám hiểm. Họ kêu to: Hãy ngồi xuống! Đuổi ông ta ra ngoài! Đồng thời từ một phía khác những người ủng hộ Tiến sĩ Illingworth (lúc này đã đông dần lên) cũng hô to: Trật tự! Phải công bằng! Ở những hàng ghế sau đã xảy ra ẩu đả. Các sinh viên trường y (chiếm số lượng lớn trong khán giả) lao vào đấm đá nhau túi bụi. May mà đa số là sự hiện diện của khán giả nữ nên đã ngăn chặn được một cuộc hỗn chiến. Bỗng cả hội trường im bặt. Giáo sư Challenger đứng lên. Bộ dạng của ông thực sự lạ mắt và lôi cuốn mọi người. Giáo sư Challenger đưa tay ra hiệu mọi người im lặng. Mọi người chăm chú chờ đợi. Ông nói: - Việc này gợi cho tôi về những sự việc ngu xuẩn xảy ra trong cuộc họp năm ngoái! Hôm đó Giáo sư Summerlee là người phản đối tôi kịch liệt nhất. Tuy rằng bây giờ ông đã hoàn toàn tin tưởng tôi nhưng vấn đề nghi ngờ vẫn chưa hoàn toàn kết thúc. Buổi tối hôm nay tôi cũng đã được nghe những điều tương tự nhưng thậm chí đã làm tôi cảm thấy xúc phạm hơn trước kia rất nhiều. Ý kiến vừa rồi thật là tương xứng với trình độ của người thốt ra nó. Tôi sẽ cố gắng hạ mình để chứng minh tính xác thực của những điều chúng tôi đã thu được. (Có tiếng cười lớn). Tôi thấy cần phải nhắc lại với quý vị rằng mặc dù Giáo sư Summerlee là người đứng đầu đoàn thám hiểm nhưng tôi lại là nhân vật chính của đoàn. Tất cả những thành công hoặc thất bại của chuyến đi sẽ được gán cho một mình tôi. Chúng tôi đã từng hy vọng rằng khi trở về sẽ không có ai nghi ngờ tính chân xác của những thông tin mà cả bốn chúng tôi đưa ra. Vì tôi có kinh nghiệm từ lần trước. Tôi đến đây và có mang theo đầy đủ bằng chứng cho các vị thấy. Như Giáo sư Summerlee đã nói máy ảnh của chúng tôi bị bọn vượn người làm hỏng trong một lần chúng xâm nhập trại của chúng tôi. Hầu hết những cuộn phim âm bản của chúng tôi bị hỏng (Có tiếng cười và tiếng nói: Thế thì đưa bằng chứng khác!) Tôi đã nói đến những con vượn người và thật tiếc những âm thanh trong hội trường này đã khiến tôi nhớ lại tiếng hú của bọn vượn người đó. (Có tiếng cười nổi lên) Mặc dù phần lớn phim âm bản của chúng tôi bị hỏng nhưng chúng tôi vẫn còn giữ lại được một số hình ảnh mà chúng tôi đã chụp tại miền đất Maple White. Có ai cho rằng chúng tôi giả mạo ảnh hay không? (Có tiếng hô Có! Tiếng ồn ào nổi lên và chỉ chấm dứt khi người ta đuổi cổ mấy người ra khỏi hội trường) Các chuyên gia đã thẩm tra rất kỹ những cuộn phim mà chúng tôi mang về. Còn về những bằng chứng khác? Vì lý do khách quan nên tôi không thể mang về đây nhiều được nhưng những tiêu bản mà Giáo sư Summerlee đưa về không chứng thực được điều gì chăng? (Có tiếng hô Không!) Ai nói đó? Tiến sĩ Illingworth: - Chúng tôi cho rằng những tiêu bản đó đã được thu thập tại nơi khác chứ không phải ở vùng Maple White. (Tiếng vỗ tay rào rào) Giáo sư Challenger: - Đúng vậy! Chúng tôi tôn trọng vị thế khoa học của ngài nhưng tên ngài thì tôi không được quen cho lắm. Bỏ qua chuyện những tấm ảnh và những tiêu bản tôi còn có vô số bằng chứng khác thuyết phục hơn (Có tiếng hét Nói bậy!) Tôi sẽ cho quý vị xem một tấm ảnh về loài thằn lằn ngón cánh! Tiến sĩ Illingworth: - Không bức ảnh nào có thể thuyết phục được chúng tôi! Giáo sư Challenger: - Ngài muốn được tận mắt nhìn thấy thằn lằn ngón cánh? Tiến sĩ Illingworth: - Tất nhiên rồi! Giáo sư Challenger: - Ngài chấp nhận điều đó? Tiến sĩ Illingworth: - Hơn cả sự chấp nhận! Đó là một giờ phút vô tiền khoáng hậu trong lịch sử khoa học thế giới. Giáo sư Challenger đưa tay làm hiệu và người đồng nghiệp của chúng tôi – cậu Malone bước ra phía sau bục. Lát sau anh ta bước ra cùng với một người da đen to lừng lững. Cả hai mang một cái hòm vuông rất lớn. Cái hòm có vẻ khá nặng và cả hai khó nhọc lắm mới đặt nó được trước ghế của Giáo sư Challenger. Cả hội trường xao động và mọi con mắt đổ dồn vào cái hộp. Giáo sư Challenger mở nắp hộp ra và kêu nho nhỏ: Ra nào! Ra nào! Một lát sau có tiếng sột soạt và một con vật ghê sợ xuất hiện, nó nằm dài trong chiếc hộp. Công tước Durham ngã vật ra đất nhưng việc này cũng không thu hút sự chú ý của mọi người. Cái mặt của con vật trông giống như những cái đầu thú mà các họa sĩ thời trung cổ đã sáng tác trong các tác phẩm kiến trúc. Hai mắt nó như hai hòn than đỏ rực. Hàm răng dài và sắc như răng cá mập. Trên vai nó có cái bướu. Quanh cái bứu là một miếng da giống cái khăn màu nâu. Đây chính là con quái vật trong trí tưởng tượng của chúng ta thời thơ ấu. Hội trường náo loạn. Hai quý bà nằm bất tỉnh nhân sự ngay trên ghế ngồi. Tình hình trở nên gay go vì rất có thể xảy ra một vụ hoảng loạn tập thể. Cái khăn kỳ lạ trên vai con vật bỗng duỗi ra thành một đôi cánh bọc lông vũ. Giáo sư Challenger chộp lấy chân con vật nhưng đã quá muộn. Nó bay vút lên nóc hội trường và dang đôi cánh dài hơn mười feet lượn một vòng. Khắp hội trường tỏa ra một mùi thối nồng nặc. Mọi người kêu toáng lên khi thấy con vật lao về phía mình với đôi mắt đỏ rực và cái mỏ dữ tợn. Con vật mỗi lúc càng bay nhanh hơn cho đến khi nó đâm sầm vào tường và những chum đèn treo trên trần nhà. “Hãy đóng các cửa sổ lại!” Giáo sư Challenger kêu lên. Lạy Chúa! Mệnh lệnh của Giáo sư đưa ra quá muộn. Con vật đâm sầm vào tường một cái nữa và sau đó thân hình gân guốc của nó biến mất sau cửa sổ. Giáo sư Challenger ngồi phịch xuống ghế hai tay ôm mặt. Khán giả thở dài tiếc nuối khi mọi việc đã kết thúc. Khỏi phải nói những người ủng hộ đoàn thám hiểm đã hồ hởi như thế nào. Cả hội trường tràn về phía sân khấu. Người ta bế bổng bốn vị anh hùng của chúng ta lên trên đầu. Cả hội trường đều đứng lên, hò hét, vung tay vung chân. Hàng trăm cái miệng cùng kêu lên Tung họ lên! Tung họ lên! Loáng một cái bốn người hùng bị đám đông tung lên như những cái gối bông. Còn bốn người hùng thì cố vùng vẫy để thoát ra nhưng không thể thoát ra nổi. Người ta hô to Phố Regent! Ra phố Regent! Thế là đoàn người chuyển động như một làn sóng đi ra khỏi hội trường, bốn nhà thám hiểm được người ta kiệu lên vai. Ngoài phố cảnh tượng còn náo nhiệt hơn. Hàng trăm ngàn người đang tập trung bên ngoài hội trường. Suốt từ khách sạn Langham đến rạp xiếc Oxford chật kín những người. Tiếng reo hò như sấm nổi lên khi họ nhìn thấy bốn nhà thám hiểm hiện ra dưới ánh đèn điện. Có tiếng kêu to Hãy diễu hành đi! Thế là đoàn người đi xuyên qua các phố Regent, Pall Mall, phố St James và Picadilly. Toàn bộ hệ thống giao thông của thành phố Luân Đôn bị ách lại. Đã xảy ra nhiều vụ va chạm giữa đoàn diễu hành và cảnh sát. Đến tận nửa đêm đoàn thám hiểm của chúng ta mới được mọi người giải thoát ngay tại cổng nhà Huân tước Roxton phố Albany. Trước khi ra về đám đông còn đồng thanh kêu to Những con người tuyệt vời! Những con người tuyệt vời. Sau đó họ hát vang bài hát Chúa cứu giúp nhà vua. Thế là một trong những sự kiện trọng đại nhất của thành Luân Đôn đã kết thúc”. Đấy, anh bạn McDonald của tôi đã tường thuật lại diễn biến của buổi họp hoàn toàn chính xác, chỉ có văn chương đôi chút hoa mỹ thôi. Về sự bất ngờ cốt yếu đã làm cho khán giả sửng sốt thì tôi phải nói ngay, chúng tôi đều đã biết trước. Bạn đóc chắc còn nhớ cái lấn tôi tình cờ gặp huân tước John Roxton trong cái khung bảo vệ và ông đã nói với tôi là ông đi bắt “một chú gà con quỷ quái” cho giáo sư Cahllenger. Tôi cũng đã nói lấp lửng về nỗi khó khăn của chúng tôi do hòm hành lý của giáo sư Challenger gây ra khi chúng tôi rời cao nguyên đó. Nếu tường thuật lại cuộc hành trình lúc về thì tôi phải nói nhiều đến nỗi lo lắng của chúng tôi về việc nuôi anh bạn bẩn thỉu này bằng những con cá ươn thối. Vài lời nói thêm về số phận còn thằng lằn ngón cánh đã tới London. Người ta không thể nói một điều gì chắc chắn về nó. Chỉ có hai người đàn bà đã hoảng sợ khi nhìn thấy nó đậu trên nóc hội trường Nữ Hoàng như một bức tượng ma quái trong vài giờ. Hôm sau, một tờ bào buổi chiều đăng tin, ông Privet Miles ở trung đội vệ binh Goldstream, ktrong khi đang trong phiên trực ở tòa nhà Malborough đã tự tiện bỏ vị trí và bị đưa ra xử ở tòa án quân sự. Ông Miles khai là, ông hoảng hốt quăng súng, vắt chân lên cổ chạy xuống công viên Manlo, vì khi ngẩng lên ông bất chợt nhìn thấy dưới ánh trăng một con qu3y đứng ngay gần ông, nhưng toàn án đã không thừa nhận lời khai đó. Tuy nhiên lời khai có thể là bằng chứng rõ ràng về sự có mặt của con thằn lằn ngón cánh. Một bằng chứng khác tôi có thể dẫn ra, trích từ nhật ký hàng hải của con tàu Hà Lan – Mỹ S.S. Friesland: “Hồi chín giờ sáng chúng tôi thấy một vật gì bay ngang qua tàu trông nửa như con dên, nửa như con dơi khổng lồ, quái dị, nó bay nhanh không tưởng được về phía tây nam”. Nếau ản năng tìm về quê hương của nó dẫn nó đi đúng đường thì chắc chắn là ở một nơi nào dó trong những miền đất hoang vu của vùng Đại tây Dương con thằn lằn ngón cánh duy nhất này của châu Âu sẽ tìm thấy nơi yên nghỉ cuối cùng của nó. Còn Gladys! Ôi, em Gladys của tôi! Gladys – tên của cái hồ bí ẩn nọ mà nay đã được đặt là hồ Trung Tâm, vì nàng không còn sống mãi trong tôi nữa. Đã có lần tôi nói với độc giả rằng Gladys có tính cách rất cứng rắn. Cũng có lần tôi đã nói đến nỗi bất hạnh nếu như cuộc đời lại gắn với một người đàn bà có tính cách như thế. Khi tôi nhìn ngắm một người đàn bà đẹp thì tôi luôn ý thức vẻ đẹp nội tâm ẩn sau khuôn mặt đó. Đằng sau khuôn mặt đẹp có thể là một con người ích kỷ, hay thay đổi. Rất có thể những ý nghĩ của tôi vừa rồi xuất hiện sau chuyến đi sang Nam Mỹ vừa rồi. Đó là một cú sốc của đời tôi. Sau cú sốc đó tôi trở thành một người khác. Hãy cho phép tôi nói vài lời về việc này. Không có một lá thơ, một bức điện nào từ South Hampton gửi cho tôi. Tôi đến cái biệt thự nhỏ ở Streatham vào quãng 10 giờ đêm trong nỗi lo lắng bồn chồn. Nàng còn sống hay đã chết? Đâu là những giấc mơ đêm đêm của tôi về đôi cánh tay mở roe65ng đón chờ tôi, về khuôn mặt tươi như hoa, về những lời khen ngợi người đàn ông đã liều mạng ra đi, chiều theo ý nghĩ mới nảy ra của nàng? Tôi chạy băng qua con đường nhỏ trong vườn, gõ mạnh cửa và nghe thấy tiếng nói của Gladys be6nt rong. Tôi đẩy người đầy tớ đang ngạc nhiên nhìn tôi sang một bên, đi thẳng vào phòng khách. Nàng đang ngồi trên chiếc ghế tràng kỷ thấp dưới ngọn đèn có chao, bên chiếc đàn dương cầm. Tôi nhảy ba bước vào gian phòng đến cầm lấy bàn tay nàng, giữ trong tay tôi. Tôi kêu lên: - Gladys! Gladys! Nàng ngẩng lên, nét mặt lộ vẻ nét ngạc nhiên. Nàng có thay đổi đôi chút. Sự biểu lộ tình cảm trong đôi mắt, cái nhìn hơi nghiêm nghị, cặp môi, đều mới lạ đối với tôi. Nàng rụt tay ra, nói: - Anh làm gì thế? Tôi kêu lên: - Gladys! Thế là thế nào? Em có phải là Gladys của anh hay không? Gladys Hungerton. Nàng nói: - Không! Tôi là Gladys Potts. Xin cho phép tôi giới thiệu chồng tôi với anh. Cuộc đời mới vô lý làm sao! Tôi như một cái máy cúi xuống bắt tay người đàn ông nhỏ bé, tóc hoa râm. Chúng tôi cùng cười như nhạo nhau. Gladys nói: - Cha tôi cho chúng tôi ở tạm đây. Nay mai chúng tôi sẽ có nhà mới. Tôi nói: - Ồ, thế à! - Anh không nhận được thư của tôi viết ở Para sao? - Không, tôi không nhận được lá thư nào cà. - Ôi, thật đáng tiếc! Đáng lẽ nó đã làm rõ ràng mọi chuyện. Tôi nói: - Bây giờ thì mọi việc đã rõ ràng rồi. Nàng nói: - Tôi đã kể cho William nghe tất cả mọi điều về anh. Chúng tôi không có điều gì phải giấu nhau cả. Tôi rất lấy làm tiếc về chuyện đó. Nhưng không nên đi sâu quá phải không. Giá mà anh không đi đến tận đầu kia của thế giớ và để tôi lai môt mình cô đơn… Anh không giận chứ? - Không, không, hoàn toàn không. Tôi nghĩ là tôi phải đi đây. - Tôi đi ra cửa. Tôi đã bước qua cửa thì một sự thôi thúc kỳ lạ đến với tôi. Tôi quay lại đến trước kẻ tình địch đã thắng tôi, y đang nhìn một cách bực dọc vào cái bật điện. Tôi hỏi y: - Xin ông cho tôi hỏi một câu được không? Ông ta đáp: - Được, nếu hợp lý. - Ông đã làm thế nào để lấy được nàng? Ông đã tìm ra được một kho tàng chôn dấu hay đã phát hiện ra địa cựa, hay đã đi trên những con tàu hải tặc, hay đã bơi qua biển Manche hoặc làm được những gì? Đâu là sức quyến rũ huyền bí của mối tình thơ mộng? ông đã làm thế nào mà dành được nàng? Ông ta nhìn chăm chăm vào tôi với vẻ thẫn thờ, lộ rõ trên khuôn mặt nhỏ bé tầm thường, ngơ ngác và hiền lành. Ông nói: - Ông không nghĩ rằng như thế là đi quá sâu vào đời tư ư? Tôi kêu lên: - Vâng, chỉ một câu hỏi đó thôi. Ông là ai? Ông làm nghề gì? Ông ta đáp: - Tôi là thư ký của một vị cố vấn pháp luật, phụ tá thứ hai tại văn phòng cố vấn Johnson và Merival ở số 41 đường Chancery Leno. Nghe xong tôi nói: - Xin chào ông! Rồi tôi biến vào trong bóng tối. Như tất cả những người anh hùng thất vọng vì tình, tôi buồn phiền, giận dự, cười vang lên vào mũi những điều đang sôi sục trong lòng tôi như nồi nước đang sôi. Còn một việc nhỏ nữa tôi xin kể nốt. Đêm qua, tất cả chúng tôi đã ăn tối ở nhà huân tước John Roxton, rồi cùng ngồi với nhau hút thuốc trong tình bạn bè thân ái, ôn lại những cuộc phiêu lưu chúng tôi đã trả qua. Thật là kỳ lạ khi môi trường chung quanh đã thay đổi, lại được nhìn thấy những hình dáng, vẻ mặt quen thuộc, già dặn. Đó là Challeneger với nụ cười nhã nhặn, cặp lo6g mày dài rũ xuống, đôi mắt cố chấp, bộ râu hung tợn, cái ngực đồ sộ phập phồng khi ông át giọng Summerlee. Summerlee cũng đang ngồi đó, cái tẩu thuốc ngắn bằng gỗ thạch nam đang ngậm ở miệng giữa bộ ria mép lưa thưa và chòm râu dê màu xám của ông, bộ mặt dày dặn nhô ra như sẵn sáng tranh luận về những vấn đề Challenger nêu ra. Cuối cùng Huân tước Roxton với khuôn mặt đại bàng khắc khổ, đôi mắt xanh lạnh như băng lấp lánh sự hài hước cố hữu. Sau bữa tối chúng tôi tụ tập trong phòng riêng của Huân tước nơi có nhiều vật biểu tượng cho chiến thắng của chủ nhân. Huân tước Roxton mang một hộp xì gà đặt lên bàn trước mặt. Ông nói: - Có một điều đáng lẽ tôi có thể nói ra trước đây, nhưng tôi muốn iết rõ hơn một chút nữa. Không nên nuôi những hy vọng quá cao rồi lại bị thất vọng ê chề. Nhưng bây giờ thì đúng thật rồi, không phải là hy vọng nữa. “Các ông có nhớ cái hôm tôi nhìn thấy bầy thằn lằn ngón cánh trong đầm lầy ấy không?” Đấy, ở đó có một cái đã làm cho tôi chú ý. Có lẽ các ông đã không để ý đến, vậy thì tôi sẽ nói cho các ông biết. Đó là một khe nứt của núi lửa đầy đất sét xanh. Các vị giáo sư gật gù. Ông lại nói tiếp: - Này, hiện thời trên cả thế giới tôi chỉ thấy có một nơi có khe nứt của núi lửa chứa đất sét xanh. Đó là mỏ kim cương De Beers của Kimberley. Vậy thì sao? Tôi đã nghĩ đến việc tìm ra kim cương ở đây. Tôi đã chế ra một dụng cụ trông kỳ cục để giữ cho các con thú ghê tởm không hại được tôi và tôi sung sướng làm việc một ngày với cái thuổng đào đất. Đây là những cái tôi lấy được. Ông mở hộp xì gà của ông ra nghiêng hộp đổ ra bàn khoảng hai ba chục viên đá thô, to cỡ bằng hạt đậu đến hạt dẻ. Ông nói: - Có lẽ các ông nghĩ, đúng ra tôi phải nói với các ông ngay lúc đó. Đúng, tôi đã định nói, nhưng tôi biết là có nhiều cạm bẫy đối với những kẻ không thận trọng. Hơn nữa, những viên đá này với một kích thước nào đó có thể là ít giá trị khi xem đến màu sắc và độ cừng của chúng. Vì vậy, khi mang chúng về, ngày đầu tiên ở nhà, tôi đã đem một viên đến hiệu Spink, đề nghị ông ta tách thô ra và đánh giá. Huận tước John Rocton móc túi lấy ra một hộp dẹt nhỏ rồi lấy từ trong hộp ra một viên kim cương lấp lánh đẹp tuyệt, một trong những viên ngọc đẹp nhất mà tôi từng nhìn thấy. Ông nói: - Đây là kết quả phân tích. Ông chủ hiệu kim cương đánh giá toàn bộ chỗ này ít nhất là hai trăm nghìn bảng Anh. Tất nhiên là chúng ta sẽ chia nhau. Tôi không muốn nghe một ý kiến nào khác. Này, Challenger, ông sẽ làm gì với số tiền năm chục ngàn bảng của ông? Giáo sư nói: - Nếu ông thật sự hào phóng như vậy thì tôi sẽ xây một viện bảo tàng tư, đó là một trong những mơ ước của tôi từ lâu nay. - Còn ông, Summerlee? - Tôi sẽ thôi dạy học, dành thời gian để làm nốt việc phân loại các hóa thạch đá phấn. Huân tước John Roxton nói: - Tôi sẽ dành phần tiền của tôi để tổ chức một cuộc thám hiểm quy mô, khảo sát lại một lần nữa cao nguyên thân yêu này. Còn anh bạn trẻ ơi, theo tôi nghĩ tất nhiên anh sẽ dùng số tiền này để cưới vợ. Tôi mỉm cười buồn bã nói: - Chưa đâu. Tôi nghĩ rằng nếu ông cần đến tôi thì tôi sẽ rất thích được đi với ông. Huân tước Roxton không nói gì, nhưng một bàn tay rám nắng chìa ra cho tôi qua mặt bàn. HẾT