Chương 16
Chuyện nàng Thúy Tiêu
(Nguyên văn: Thúy Tiêu truyện)

Dư Nhuận Chi người đất Kiến Hưng (1), tên là Tạo Tân, có tiếng hay thơ; nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền tặng biếu rất hậu để xin lấy. Nhân thế Dư càng nổi thanh giá ở chốn tao đàn. Cuối đời Thiệu Phong (2) nhà Trần, Dư nhân có việc, vào yết kiến quan Trần soái Lạng Giang là Nguyễn Trung Ngạn (3). Ông Nguyễn thấy Dư đến, lật đật ra tiếp, đặt tiệc ở Phiếm Bích đường thết đãi, gọi mười mấy người con hát ra hát múa ở trước tiệc. Trong bọn con hát có ả Thúy Tiêu là người rất xinh đẹp. Ông Nguyễn đùa bảo Dư sinh rằng:
- Ấy tùy ngài kén chọn trong bọn ấy, hễ bằng lòng ai thì tôi xin tặng cho.
Rồi âm nhạc nổi lên. Sinh ngâm một bài thơ sau này:
Liên hoa đóa đóa ỷ hồng hàm,
Tằng đối tiên gia ngọc chủ đàm.
Túy vãn tiêu y hô đắc khởi,
Sổ thanh hảo xướng vọng Giang Nam.
Dịch:
Hoa sen đóa rỡ ràng tươi,
Góp mặt nhà tiên lúc nói cười.
Say kéo áo là nghe gọi dậy,
Giang Nam (4) một khúc quyến hồn người.
Ông Nguyễn cười bảo Thúy Tiêu rằng:
- Thầy đồ để ý vào nàng (5) đấy.
Sinh hôm ấy uống rượu rất say, mãi đến đêm khuya mới tỉnh, đã thấy nàng Thúy Tiêu ở cạnh, cảm ơn ông Nguyễn không biết chừng nào. Sáng hôm sau Sinh vào tạ ơn ông Nguyễn để về. Ông Nguyễn bảo:
- Ả ấy kể cũng là người phong lưu, thầy nên khéo yêu thương lấy.
Sinh bèn đem nàng về Kiến Hưng. Thúy Tiêu vốn có khiếu thông tuệ, mỗi khi Sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà rồi thuộc được. Sinh nhân đem những quyển sách nói về thơ từ mà dạy nàng. Chưa đầy một năm, nàng đã làm được thơ từ ngang với của Sinh. Năm Mậu tuất (1358), nhân gặp khoa thi, Sinh sắm sửa hành trang lên kinh; không nỡ rời nhau, nên đem theo cả nàng cùng đi, cùng trọ tại phố Hàng Vóc ở cửa sông. Gặp ngày mồng một đầu năm, Thúy Tiêu rủ mấy người bạn gái đến chùa tháp Báo Thiên (6) dâng hương lễ Phật. Bấy giờ có quan Trụ quốc họ Thân ngầm đi chơi phố, trông thấy Thúy Tiêu đẹp, bắt, cướp đem về làm của mình. Sinh làm đơn kiện tận triều đình, nhưng vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử. Sinh đau buồn lắm bèn chẳng thiết gì thi cử nữa. Một hôm Sinh thủng thỉnh đi chơi ngoài phố, gặp đám người cưỡi ngựa đi xem hoa về, tiền hô hậu ủng rất oai vệ, trên đường thì trâm thoa rơi rắc, hồng tía tơi bời, sau cùng thấy Thúy Tiêu ngồi trên một chiếc kiệu căng riềm lụa hoa, đi qua dưới rặng liễu. Sinh muốn chạy đến than thở, nhưng thấy những người cùng đi với nàng đều là bậc quyền quý, không dám đường đột chỉ đắm đuối nhìn và ứa hai dòng lệ, không nói được một lời nào.
Nhân Thúy Tiêu trước có nuôi đôi chim yểng, một hôm Sinh trỏ đôi chim mà bảo rằng:
- Chúng mày là loài vật nhỏ, còn được suốt ngày quấn quít với nhau, không phải như ta lạnh lùng gối chiếc. Ước sao chúng mày nhẹ tung đôi cánh, vì ta đưa đến cho nàng được một phong thư.
Con chim yểng nghe nói, kêu lên và nhảy nhót như dáng muốn đi. Sinh bèn viết một phong thư, buộc vào chân nó. Thư rằng:
Tạc giả liễu âm nhất quá,
Đạo đạt vô do.
Ký song nhãn ư phiến thời,
Tằng chỉ xích nhi thiên lý.
Thủy tín hầu môn chi tự hải,
Đệ hiềm khách tứ chi như thu.
Bị thuật cựu do,
Bội tăng thâm cảm.
ức tích ngã bồi thi tịch,
Tử hựu ca diên.
Bất lao lục ỷ chi đàn,
Nhục hạ Tử Vân chi huệ.
Tiếu vị thù ư khiển quyển,
Hận dĩ tảo ư phân phi.
Hồng biệt yến nhi thu thanh,
Vân sầu Tần nhi mính sắc.
Nhất tắc noãn lưu tô chi trướng,
Nhất tắc hàn hồ chỉ chi khâm.
Đãn tham tú mạc chi hoan,
Khởi niệm thư lâu chi khổ.
Mỗi thính đoản tường trệ vũ,
Phế bích hàn tương.
Trường thiên sương nhạn chi chinh ly,
Tịch tiêu phong địch chi xướng vãn.
Mỗi hữu hàm tình bất ngữ,
Yểm quyển trường hu.
Đối cảnh quan hoài,
Bất năng dĩ dĩ.
Y, Hứa Ngu hầu chi bất tác,
Côn Lôn Nô chi dĩ phi.
Ưng vô phản bích chi kỳ,
Không phụ tầm phương chi ước.
Viên bằng thốn chử,
Dụng tả ai thiên.
Dịch:
Kiệu qua dưới liễu hôm nào,
Vội vàng chẳng kịp đưa trao một lời.
Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt mùng.
Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng,
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn ngơ,
Tình xưa kể đến bao giờ,
Cảm sầu mọi mối như tơ rối bời.
Thơ ngâm nhớ bữa tiệc mời,
Giọng ca lanh lảnh để người như say.
Cung đàn nào đã so dây.
Giai nhân bỗng được trao tay rước về.
Tình sâu chưa kịp giãi giề,
Bắc nam vội đã chia lìa khá thương.
Chim hồng buồn bã kêu sương,
Mây Tần thăm thẳm xa buông tối mù.
Người nương trướng gấm êm ru,
Người ôm một mảnh chăn cù giá đông.
Ham vui nệm tía màu hồng,
Biết chăng kẻ chốn thư phòng thương đau.
Mưa tường dế vách họa nhau,
Nhạn tan khóc sớm, địch sầu thổi khuya,
Lặng ngồi gấp sách ủ ê,
Lòng này cảnh ấy khuây đi được nào,
Côn Nô, Hứa Tuấn (7) nơi nao?
Tìm hương trả bích còn ao ước gì (8)?
Mảnh tiên viết gửi trao đi,
Đau thương kể nỗi vân vi với người.
Con chim yểng bay đi, đến đậu ở màn Thúy Tiêu.
Nàng được thư, bèn giở giấy Tiết Đào (9) dấp bút Lâm Xuyên (10) viết một bức thư để trả lời. Thư rằng:
Thiếp Thúy Tiêu thiếu ỷ thị môn,
Trưởng đầu nhạc tịch.
Điều ca tiếp khúc, đồ khoa Hà hữu chi phong lưu,
Cử án tề my, vị thức Mạnh Quang chi thái độ.
Thùy tri hảo tịch,
Tiện Thị lương môi,
Lục ỷ cầm tâm, bất giả Trường Khanh chi điệu,
Hoa đường thi cú, khốc lân Đỗ Mục chi tài.
Tự hỷ châm giới chi hữu duyên,
Thâm khách đằng la chi đắc thác.
Thiên Thai khách phùng khách vị tận thâm hoan;
Chương Đài, nhân tống nhân, tải tương ly hận.
Giai ngẫu phiên thành ư oán ngẫu,
Hảo duyên chuyển tác ư ác duyên.
Sỉ nhẫn thê nha,
Cụ tần đả áp.
Xuất nhập khởi cư chi tế, vị miễn tòng quyền;
Biệt ly khê khoát chi hoài, bất thăng cảm cựu.
Duy dư thúy nga quyện tảo,
Lục mấn dung sơ.
Phấn bích đăng tàn, thương xuân trường đoạn;
Hương liêm tú quyện, biệt lệ ngân đa.
Tạc thừa ký nhạn chi thư,
Bội thiết ly loan chi tưởng.
Tuy Hàn Hoành chi liễu, tạm chiết trường điều,
Nhiên hợp Phố chi châu, đương hoàn cố quận.
Du du tâm tự,
Thư bất tận ngôn.
Dịch:
Thiếp xưa con gái nhà nghèo,
Lớn lên ca xướng học theo bạn bầy.
Phong lưu quen thú Hà Tây (11)
Chưa tường án Mạnh ngang mày (12) như ai.
Tiệc hoa một bữa khuyên mời,
Mối manh duyên khéo an bài tự đâu.
Tràng Khanh chưa gảy Phượng cầu (13),
Mến tài Đỗ Mục bởi câu Hoa đường (14).
Duyên kim phận cải xe vương,
Những mừng giây sắn được nương bóng tùng.
Thiên Thai một cuộc kỳ phùng (15),
Thú vui lửa đượm hương nồng chưa bao.
Chương Đài cành liễu nghiêng chao,
Biệt ly mang nặng biết bao oán sầu.
Duyên may hóa rủi ngờ đâu,
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong.(16)
Bẽ bàng đổi khác tư dong,
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô.
Thương xuân vách phấn đèn lu,
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi.
Tiện hồng thư mới tới nơi,
Chia loan càng xót xa đời biệt ly.
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi,
Nhưng châu Hợp Phố phải về quận xưa (17).
Nỗi lòng trăm mối vò tơ,
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời.
Thúy Tiêu từ đó buồn rầu sinh ốm. Quan Trụ quốc bảo:
- Chừng nàng hãy còn nhớ anh chàng bán thơ phải không?
Nàng nói:
- Quả có như vậy, tình sâu gắn bó, hờn nặng chia lìa, lời thề chung sống chưa phai, điều hẹn cùng già đã phụ. Nay thì Sở mưa Yên tạnh, liễu héo đào tươi, bằn bặt xa nhau, hờn ôm thiên cổ. Cho nên người xưa đã coi rẻ giàu sang mà nhớ anh hàng bánh (18), xem khinh sung sướng mà gieo xuống tầng lầu (19), thật là phải lắm.
Nói rồi nàng toan lấy chiếc khăn là thắt cổ tự tử. Trụ quốc nói dối rằng:
- Ta cũng đang nghĩ về việc đó lắm. Vậy nàng hãy cứ nên bình tĩnh mà bảo dưỡng thân thể, sớm muộn ta sẽ vời chàng họ Dư đến đây, để nàng được nối mối duyên xưa. Tội gì mà coi rẻ tính mệnh, chết một cách chẳng vào đâu cả.
Nàng nói:
- Quả được như vậy thì thiếp xin vâng lời tướng công. Nếu không thì tính mệnh này chỉ ngày hôm nay là hết.
Trụ quốc bất đắc dĩ, phải vời Dư đến, dỗ dành sẽ trả Thúy Tiêu và bảo:
- Ta làm quan ngôi đến Thượng công, quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách khứa, mỗi ngày tốn phí đến hàng chung thóc. Nay vời thầy đến là do ý tốt chứ không có ý xấu gì cả. Huống đất Trường An này gạo châu củi quế, thầy lấy gì mà tiêu dùng đủ. Vậy nếu thầy không ngại thanh tích thì nên cứ ở luôn đây cho đỡ tốn.
Bèn sai dọn một cái buồng nhỏ làm nơi đọc sách cho Sinh, hằng ngày sai một ả tiểu hoàn hầu hạ. Mỗi khi có tiệc mời Sinh vào dự, Trụ quốc thường lấy lời dịu dàng khoản tiếp. Nhưng về việc Thúy Tiêu, tuyệt nhiên không nhắc nhỏm đến. Sinh mon men hỏi tới, Trụ quốc gạt đi mà rằng:
- Mối tình thương yêu ai mà chẳng thế. Tưởng nàng nhớ thầy, cũng chẳng khác gì thầy nhớ nàng. Nhưng vì ít lâu nay nàng khó ở, nên chưa thể ra cùng thầy tương kiến được. Thầy hãy cứ thong thả, đi đâu mà vội.
Bèn sai người đến bến sông Bạch Hạc đào ngôi mộ táng ngày trước lên, thấy chỉ có mấy hòn máu tươi chứ chẳng có xương cốt đâu cả. Vừa toan nhặt lấy những hòn máu thì thoắt đã chẳng thấy đâu nữa. Người ấy than rằng:
- Cành lá tuy trừ nhưng gốc rễ còn chưa cắt được. Nếu không có thiên binh thần tướng, trừ khử một cách ráo riết, chỉ e lại mắc phải độc thủ thì rất nguy cho ông.
Sau đó hơn một tuần, Hoàng đương ban ngày nằm chơi, thấy hai người lính vào bắt đem đi, đến một chỗ chung quanh có tường bao bọc, trong có cung điện trang nghiêm, duy mái hành lang bên tả bị xiêu đổ. Trên điện có một người đầu đội mũ miện quát to lên rằng:
- Diêm vương có chỉ, sai ta tra xét cái án nhà ngươi đó.
Sai tả hữu lấy đưa cho chàng giấy bút, bắt phải cung khai. Hoàng nói:
- Tôi vốn nhà nghèo, may được đăng tên vào sổ sĩ hoạn, xử mình không quắt quéo, làm quan không tham tàn, tội trạng không rõ, chẳng dám tuân mệnh.
Nói chưa dứt lời, đã thấy người con gái ở với mình ngày trước từ mái hành lang phía tả đi ra. Hoàng hiểu ra ngay, liền cầm bút cung rằng:
"Kính nghe:
Kính Xuân thu góp sự lạ, tuy đá nói, thần giáng đều biên (5).
Sách Dã sử nhặt điều rơi, phàm vía mai, tinh đèn cũng chép (6).
Há bởi trước đặt bày huyền hoặc,
Cốt muôn người phòng bị tà gian.
Cho nên Thái Chân đốt sừng tê soi xuống vực sâu, Thủy thần trách móc (7).
Mã Lượng viết bàn tay thò vào cửa sổ, quỷ vật kêu van (8).
Hoặc xua giống quái khiêng giường (9).
Hoặc giết con tinh thổi lửa (10).
ấy kẻ sĩ cương phương bao thuở chẳng sợ tà yêu,
Huống tòa đền hương lửa trăm năm, lại dong xú loại!
Như tôi,
Tính vốn thô sơ,
Vận may hiển đạt.
Tiêu điều một chức, lạm ăn món bổng thay cày.
Tịch mịch nửa chăn, riêng nặng nỗi buồn lẻ bạn.
Ai biết dưới trăng gặp gỡ,
Vốn vì kiếp trước nợ nần.
Đem môi son má phấn làm tôi say mê,
Rút nguyên khí chân tinh khiến tôi hao tổn.
Nếu không gặp thần y cứu chữa,
Sớm đã về chín suối vật vờ.
Xuống sông mà rằng không bắt cá, hồ dễ ai tin,
Lấy đức mà làm sự phạt tội, dám xin thương đoái".
Tờ cung tiến trình lên, Diêm Vương cả giận nói:
- Không ngờ cái nhãi, mà dám đảo điên, đã làm sự dâm tà lại còn toan kiện bậy. Vậy nên đem tống giam vào ngục.
Bèn viết lớn lời phê phán rằng:
"Mảng nghe:
Biến hóa ra vượn hạc sâu cát, đời Chu từng nghe (11).
Tinh linh của hoa biểu hồ ly, triều Tấn lại thấy (12),
Thế vận dần xuống,
Ma quái càng nhiều.
Cho nên, Đạo gia có phép trừ yêu,
Địa ngục có bùa triệu quỷ.
Hăm bốn tòa nghiêm mật, công việc chia riêng,
Nghìn vạn giống quỷ yêu, tăm hơi trốn biệt.
Cớ sao loài nhơ nhớp,
Dám dở thói điên cuồng,
Một đời chỉ sống với tà dâm, tham lam đã lắm,
Đến chết vẫn còn toan dối trá, giả mạo sao nhiều,
Cho là tội danh có thể trốn qua,
Cho là Minh phủ không thể trừng phạt.
Cáo họ Nhâm, hổ họ Thôi, lắm trò biến huyễn (13)
Gươm làm cây, dao làm núi, phải giở nhục hình (14)
Đến như gã Hoàng,
Cũng là đáng trách.
Chí thiếu bền cứng,
Lòng nhiều ham mê.
Không biết bắt chước Nhan Thúc Tử chối từ cô ả láng giềng (15)
Lại đi nối bước Vũ Thừa Tự mê mải con yêu hoa nguyệt (16)
Chẳng tội gì đó,
Có nhẹ mà thôi.
Lời ta phán truyền,
Thi hành lập tức".
Lại ngoảnh bảo Hoàng rằng:
- Nhà ngươi theo đòi nho học, đọc sách thánh hiền, trải xem những sự tích xưa nay, há không biết lời răn sắc đẹp, cớ sao lại đi vào con đường ấy!
Liền cầm bút phê rằng:
"Bỏ nết cương cường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ".
Lại sai hai tên lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vươn vai bừng tỉnh mồ hôi toát ra đầy mình. Sau mấy năm, nhân đi việc quan đến Tam Giang, vào nghỉ ở đền Phong Châu, thấy đền đài tường vách, tượng thần và cái hành lang trụt đổ, đúng như trong chiêm bao trông thấy, mới biết dạo trước chính mình bị đòi đến đây. Hoàng vội lên ngựa ruổi mau, không dám ngoảnh lại. Bấy giờ là ngày Đinh tỵ tháng tám năm Thiệu Bình thứ 2. (17)
Lời bình:
Than ôi! Dòm vào buồng, kêu trên xã, chẳng đã là quái gở ư? Thưa rằng chưa vậy. Con gấu Vũ Uyên (18), con lợn Bối Khâu (19) chẳng đã là quái gở ư? Thưa rằng chưa vậy. Bởi Xương Lê làm bài văn Nguyên Quỷ Khâu Minh giải nghĩa kinh Xuân Thu, ấy là quái gở nên coi làm thường. Thế thì câu chuyện Xương Giang, chẳng phải là quái. Phương chi xem thấy yêu nữ mê người sẽ biết răn sợ trước sắc đẹp, xem thấy linh từ xử án, sẽ biết kính tránh trước thần thiêng. Nghi để truyền nghi, chẳng có gì là quá đáng. Tiến lên một bước thì sẽ được như Lưu Thoa, Can Bảo vậy. (20)
Chú thích
(1) Phong Châu: nguyên chú: "nay là huyện Bạch Hạc", nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
(2) Xương Giang: nguyên chú: "nay thuộc huyện Yên Dũng, xứ Kinh Bắc"; nay là thị xã Bắc Giang.
(3) Lạng Giang: nay là vùng đất thuộc tỉnh Bắc Giang.
(4) Nhục cốt sinh tử: làm cho xương khô sinh thịt, người chết sống lại; ý nói cứu sống người.
(5) Kinh Xuân thu chép mùa Xuân năm Đinh mão thứ 8 đời vua Chiêu công nước Lỗ, có hòn đá biết nói ở ấp Ngụy Du nước Tấn. Lại chép năm thứ 31 đời vua Trang công có vị thần giáng xuống đất Sằn.
(6) Vía mài, tinh đèn: Triệu Sư Hùng đời Tùy, trong năm Khai Hoàng, đi qua núi La Phù ở huyện Nam Hải đất Quảng Châu, một hôm trời tối lạnh lùng, thấy một mái nhà tranh bên cạnh quán rượu ở giữa rừng thông, có cô gái mặc áo trắng ra mời đón. Dưới bóng trăng mờ, Sư Hùng cùng cô gái chuyện trò thân mật, rồi cùng gõ cửa nhà hàng rượu vào uống với nhau, một lát lại có đứa trẻ áo xanh ra cười đùa hát múa. Sư Hùng say rượu nằm kềnh ra ngủ đến khuya thấy rét lạnh lắm, gần sáng nhìn xem, té ra nằm ở dưới gốc một cây mai lớn. (Thượng hữu lục). Tống Tiềm làm chức Tuần kiểm ở Cam Lăng đón một người bạn là Triệu Đương đến nhà ngồi dạy trẻ học. Một đêm Triệu thấy một người đàn bà đẹp đứng dưới đèn ngâm thơ khêu gợi, rồi tắt phụt đèn đi, từ đấy hai người đêm nào cũng quấn quít với nhau. Lâu rồi Tống Tiềm biết, sai người nhà vây bắt được người đàn bà ấy, nắm cổ tay thấy bé tý, nhìn ra thì là cái quặng đèn, bèn đốt bỏ cái đèn ấy đi (Viên cơ).
(7) Ôn Kiệu đời Tấn tên tự là Thái Chân, đi qua bến Ngưu Chử. Chỗ đó nước sâu thăm thẳm. Người ta vẫn đồn là có nhiều quái vật; Kiệu bèn đốt một cái sừng tê soi xuống, một chốc vô số những thủy tộc kỳ hình quái trạng hoặc đi xe, hoặc đi ngựa, hoặc mặc áo đỏ lố nhố hiện ra. Đêm hôm ấy Kiệu nằm chiêm bao thấy có người bảo: "Ta cùng người tối sáng khác đường, sao lại soi nhau để làm gì thế". Xem ý có vẻ tức giận lắm (Viên cơ).
(8) Mã Công Lượng đời Tống, thuở nhỏ một đêm ngồi đọc sách dưới đèn ở trong cửa sổ, chợt thấy có một bàn tay lớn như cái quạt thò vào, đêm hôm sau cũng lại như thế. Lượng bèn lấy bút nhấp nước hùng hoàng viết lớn một chữ "hoa" vào tay. Ngoài cửa sổ chợt có tiếng kêu to xin rửa hộ ngay. Lượng cứ mặc kệ. Gần sáng tiếng kêu van càng tha thiết và tay vẫn không rút ra được. Lại nói: "Ông sắp làm nên đại quý nên tôi đùa ông, sao nỡ làm tôi khốn quẫn quá thế! Há không biết việc ông Ôn Kiệu đốt sừng tê ư?" Lượng nghĩ ra, bèn lấy nước rửa sạch chữ hoa, "cái quỷ ấy cảm tạ mà đi" (Viên cơ).
(9) Ngụy Nguyên Trung đời Đường, một hôm thấy có mấy người đàn bà con gái từ đâu hiện đến đứng ở trước giường. Ông bảo: "Có thể khiêng cái giường ta xuống dưới sân được không?" Họ liền khiêng ngay giường ông xuống dưới sân. Lại bảo: "Có thể khiêng trả giường ta đặt vào chỗ cũ được không?". Họ lại đặt vào chỗ cũ. Lại bảo: "Có thể khiêng giường ta ra phố được không?" Họ đều cúi lạy rồi đi và bảo với nhau rằng: "Đó là bậc trưởng giả khoan hậu, ta không nên đùa cợt như với những người khác" (Viên cơ).
(10). Đời Tam quốc, Quản Lộ một đêm đương ngồi dưới đèn, chợt có một con vật nhỏ, tay cầm mớ lửa kề lên miệng thổi, suýt nữa cháy nhà. Lộ sai học trò giơ dao chém đứt đôi lưng, té ra là một con cáo. Từ đấy trong làng không có hỏa tai nữa (Viên cơ).
(11) Vua Mục vương nhà Chu đi đánh phương Nam, có một đội quân đều biến hóa, quân tử thì hóa làm vượn làm hạc, tiểu nhân thì hóa làm sâu làm cát (Loại tụ).
(12) Đời Tấn Huệ đế mả vua Chiêu vương nước Yên có con hồ ly già và cây cột trụ đều thành yêu tinh. Con hồ ly hóa thành người học trò đến thăm nhà Bác vật Trương Hoa (Sách Tiễn đăng).
(13) Nữ yêu họ Nhâm rất đẹp, lấy chàng Trịnh sinh. Sau mấy tháng vợ chồng đưa nhau ra ngoài thành chơi, gặp người đi săn dắt chó, nàng Nhâm chợt ngã ngựa hóa thành con cáo rồi bị chó săn cắn chết (Hương đài). Thôi Thao đi đến quán Hiếu nghĩa, thấy một người đàn bà gối đầu vào cái da hổ mà ngủ. Thao kéo lấy da hổ vất xuống giếng, người đàn bà sực tỉnh dậy, mất da không biến được nữa. Thao lấy làm vợ. Sau ba năm, nàng hỏi da hổ để đâu. Thao bảo ở dưới giếng. Nàng vớt lên khoác vào mình, hóa làm hổ, gầm thét mà đi mất (Hương đài).
(14) Gươm làm cây, dao làm núi là trỏ vào những ngục Kiếm thụ, Đạo sơn, người ta tin là có ở dưới âm phủ.
(15) Nhan Thúc Tử đời Chu, người nước Lỗ; một mình ở một nhà. Đêm mưa bão, nhà láng giềng phía bắc bị đổ, một cô gái chạy sang trú nhờ. Thúc Tử bắt cô gái cầm một cây nến ở tay, nến hết lại đưa cây khác để đốt tiếp, đến sáng mới thôi. Giữ mình ngay sạch đến như thế. (Thượng hữu lục).
(16) Vũ Thừa Tự tức là Vũ Tam Tư người đời Đường, có người nàng hầu là Tố Nga, vốn là cái tinh hoa nguyệt hiện thành người. Xem thêm chú thích 17 Chuyện Kỳ ngộ ở Trại Tây.
(17) Thiệu Bình: niên hiệu của vua Lê Thái Tông từ 1434 đến 1439. Nếu Đinh Tị thì là năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), ở đây có lẽ người viết sách nhầm.
(18) Vị a Tấn ốm, chiêm bao thấy con gấu chạy vào cửa sổ. Hàn Tuyên Tử hỏi Tử Sản. Tử Sản nói: "Đời xưa vua Nghiêu giết ông Cổn ở Vũ Sơn, hồn thiêng ông Cổn hóa ra con gấu vàng, vào ở Vũ Uyên, đời Tam đại vẫn cúng tế. Nước Tần từ khi làm minh chủ, chừng chưa cúng tế phải không?". (Loại tụ).
(19) Đời Xuân thu, Tề Hầu ra săn ở đất Bối Khâu, thấy một con lợn lớn. Kẻ theo hầu nói: "Đó là công tử Bành Sinh hiện lên đấy". Tề Hầu nói: "Bành Sinh sao được như thế!". Bèn bắn một phát. Con lợn đứng lên như người mà khóc. Hầu sợ, ngã xe, bị thương ở chân và rơi mất giầy.
(20) Lưu Thoa: thi nhân đời Đường, tính tình cương trực, có phong cách hiệp khách; từng là môn khách của Hàn Dũ, thơ của ông phóng khoáng, phá cách, thường nói về nỗi khổ của dân nghèo. Cuối đời ông mai danh ẩn tích, không biết đi đâu; tác phẩm có Lưu Thoa thi tập.
Can Bảo (? - 336): sử học gia và văn học gia thời Đông Tấn. Ông có tên tự là Lệnh Thăng, đọc nhiều biết rộng, rất thích âm dương thuật số; thời Nguyên đế làm ở Quốc sử quán, có viếnh(28). Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn nhục tới ở với người, sờ đầu cọp, vuốt râu cọp, suýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như chàng Nhuận Chi, thật là một người ngu vậy.
Chú thích
(1) Kiến Hưng: thời Trần Hồ là phủ, gồm đất các huyện ý Yên, Thiên Bản, Độc Lập, Đại Loan, Vọng Doanh, tương đương với các huyện ý Yên, Vụ Bản, Nghĩa Hưng Nam Định ngày nay.
(2) Thiệu Phong: niên hiệu Trần Dụ Tông từ 1341 đến 1357.
(3) Nguyễn Trung Ngạn: (1289-1368 hoặc 1370); người làng Thổ Hoàng, huyện Thiên Thi nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đỗ Hoàng giáp khoa thi Thái học sinh đời Trần Anh Tông (1293-1314), từng đi sứ nhà Nguyên năm 1314, giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Trần Minh Tông (1314-1329).
(4) Giang Nam: nguyên văn là Vọng Giang Nam, vốn là tên nhạc khúc, đến đời Đường mới thành tên một từ điệu, có nhiều lời hát khác nhau.
(5) Vì Trong câu thứ ba có chữ tiêu nên Nguyễn Trung Ngạn nói như vậy.
(6) Chùa tháp Báo Thiên: hiện đã không còn, nền cũ ở khu vực Nhà thờ lớn, Hà Nội.
(7) Côn Lôn Nô và Hứa Tuấn: Côn Lôn là tên đất; người nô bộc ở Côn Lôn tên là Ma Lặc có sức mạnh và tấm lòng một hiệp khách, đã giúp cho chàng Thôi Giác và kỹ nữ Hồng Tiêu thành đôi.
Hứa Tuấn: hiệp khách đã đột nhập phủ tướng Phiên là Sa Tra Lợi cướp nàng Liễu thị trả về cho Hàn Hoành. Xem thêm chú thích 4 Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu.
(8) Tìm hương chữ là tầm phương, xuất ở câu thơ "Tự thị tầm phương khứ hiệu trì" của Đỗ Mục, nói về việc duyên lứa lỡ làng. Trả bích xuất ở điển Trùng Nhĩ nước Tấn. Trùng Nhĩ chạy nạn sang Tào, Hy Phụ Cơ đưa biếu mâm cơm và ngọc bích. Trùng Nhĩ chỉ nhận mâm cơm còn trả lại ngọc bích. Từ đấy người ta dùng chữ phản bích (trả lại bích ngọc) để nói cái gì trả về chỗ cũ.
(9) Tiết Đào đời Đường là một danh kỹ ở đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thơ, gọi là tờ giấy Tiết Đào.
(10) Lâm Xuyên: Vương Hy Chi đời Tấn là người viết chữ rất đẹp, từng làm chức Nội sử ở Lâm Xuyên, vì thế trong văn học thường dùng mỹ từ Lâm Xuyên để gọi bút viết.
(11) Lấy ý từ điển trong sách Mạnh Tử: Thuần Vu Khôn nói: "Ngày xưa Vương Báo ở đất Kỳ mà Hà Tây hát hay"; đây ý nói mình chỉ biết hát xướng và hát giỏi.
(12) Nàng Mạnh Quang đời Hán, rất kính trọng chồng là Lương Hồng, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn, thường nâng án lên tận ngang mày.
(13) Tràng Khanh là tên tự của Tư mã Tương Như. Tương Như gảy khúc đàn "Phượng cầu hoàng" mà lấy được nàng Trác Văn Quân.
(14) Đời Đường, Đỗ Mục làm chức Ngự sử phân ty ở Lạc Dương, đến dự tiệc ở nhà vị đại thần là Lý Nguyên. Nhà Lý có nhiều danh kỹ hầu tiệc. Rượu say, Đỗ hỏi Lý: "Nghe nói nhà ngài có ả danh kỹ là Tử Vân, chẳng hay là người nào vậy?" Lý trỏ cho biết. Đỗ nhìn lúc lâu rồi nói: "Lời đồn không ngoa, ngài cho tôi quách". Bọn ca kỹ đều ngoảnh lại nhìn rồi phá lên cười. Đỗ nhân làm một bài thơ câu đầu là "Hoa đường kim nhật ỷ duyên khai".
(15) Thiên Thai: xem chú thích 29, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên.
(16) Đoạn này bản dịch rút gọn 4 câu thành 1 câu:
Sỉ nhẫn thê nha,
Cụ tần đả áp.
Xuất nhập khởi cư chi tế, vị miễn tòng quyền;
Biệt ly khế khoát chi hoài, bất thăng cảm cựu.
(Xấu hổ phải đậu cùng con quạ,
Sợ hãi nhiều khi con vịt bị đánh.
Ra vào, đi đứng đều phải tòng quyền,
Ly biệt cách xa, lòng khôn xiết cảm.)
Dịch thành:
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong
(17) Vùng biến quận Hợp Phố vốn sản ngọc châu. Gặp khi có quan Thái thú không tốt đến cai trị, ngọc châu biến mất. Sau quan Thái thú ấy đổi đi nơi khác, ngọc châu lại về.
(18) Ninh Vương nhà Đường chiếm cướp vợ của người hàng bánh, đã trải hàng năm mà người vợ vẫn nhớ thương chồng cũ. Ninh Vương gọi người hàng bánh đến, vợ chồng trông thấy nhau cùng ứa nước mắt, Vương lại trả cho về đoàn tụ với nhau.
(19) Lục Châu là vợ lẽ của Thạch Sùng. Triệu Vương Luân giết Thạch Sùng để cướp Lục Châu, Lục Châu không chịu, từ trên lầu gieo mình xuống đất tự tử.
(20) Tiếng ngọc kha: tiếng nhạc ngựa, chỉ việc Trụ quốc đi chầu về.
(21) Lâm Tích thuở nhỏ lên kinh, dọc đường trọ ở một cái quán tại Sái Châu, bắt được một túi ngọc châu đến mấy trăm hạt. Tích hỏi chủ quán xem ai trọ trước. Chủ quán bảo người trọ trước là Chu Trọng Tân. Tích kể họ tên và chỗ ở của mình, dặn hễ Trọng Tân có đến thì bảo cứ đó mà tìm, mình muốn được gặp. Sau Chu Trọng Tân quả đến tìm châu. Chủ quán bảo tìm đến Tích. Tích thấy nói đúng bèn đưa trả tất cả. Trọng Tân muốn đưa biếu một ít nhưng Tích nhất định không nhận. Trọng Tân bèn bỏ ra hơn trăm quan tiền làm chay ở chùa để cầu phúc cho Tích. Tích sau thi đỗ, làm quan đến Thái trung đại phu; con là Đức Tân làm đến Lại bộ thị lang. Nhà ấy nối đời làm nên khoa hoạn mãi.
(22) Xương Lê thả Liễu Chi: xem chú thích 8 chuyện Chuyện cây gạo.
(23) Liễu Nghi Thành có nàng thiếp yêu tên là Cầm Khách, giỏi đánh đàn. Khi Thành nghỉ quan đã cho Cầm Khách về đi lấy chồng. Sau Cố Huống làm bài ca có khen Nghi Thành là bậc đại quan.
(24) Hà Thượng Ông nhà nghèo, người con trai lặn xuống sông mò được một hạt châu giá đáng nghìn vàng. Ông bảo: "Ngọc châu này tất là ở hàm con long ly. May mày gặp lúc nó ngủ, chứ nếu nó thức thì đã chết với nó rồi, còn lấy đâu mà được ngọc nữa".
(25) Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh là hai danh tướng đời Hán.
(26) Đại Trị: niên hiệu của Trần Dụ Tông từ 1358 đến 1369. Đại Trị thứ 7: 1364.
(27) Trương và Lý ở đây chỉ là những tên phiếm chỉ, do câu "Trương lang phụ nhi Lý lang thê" (Đàn bà của chàng họ Trương nhưng lại là vợ chàng họ Lý), ý nói người đàn bà không chuyên nhất.
(28) Dương Thành, Hạ Sái: tên hai huyện thuộc nước Sở, đất phong của các bậc quý công tử. Bài phú của Tống Ngọc có câu: Hoặc Dương Thành mê Hạ Sái (làm mê hoặc các trang quý công tử Dương Thành, Hạ Sái). Vì thế sau trong văn chương Dương Thành, Hạ Sái dùng để phiếm chỉ các vương tôn công tử.