Phần III : Tự Chủ Thời-Đại (Thời Kỳ Thống Nhất)
PIII-Chương 6
NHÀ TRẦN
(1225-1400)
Thời kỳ thứ nhất (1225-1293)

I. TRẦN THÁI TÔNG
1. Trần thủ Độ
2. Việc đánh-dẹp giặc-giã
3. Việc cai-trị
4. Việc thuế-má
5. Việc đắp-đê
6. Việc học-hành
7. Pháp-luật
8. Quan-chế
9. Binh-chế
10. Việc đánh Chiêm-thành
11. Quân Mông-cổ xâm-phạm đất An-nam
II. TRẦN THÁNH TÔNG
1. Việc chính-trị
2. Sự giao-thiệp với Mông-cổ
III. TRẦN NHÂN-TÔNG
1. Việc chiến-tranh
2. Việc văn-học
I. TRẦN THÁI-TÔNG (1225-1258)
Niên-hiệu:
Kiến-trung (1225-1237)
Thiên-ứng chính-bình (1238-1350)
Nguyên-phong (1251-1258)
I. Trần Thủ Độ.
Tháng chạp năm ất-dậu (1225) Trần Cảnh lên làm vua, tức là Trần Thái-Tông phong cho Trần thủ Độ làm Thái-sư Thống-quốc hành-quân chinh-thảo-sự. Bấy giờ vua Thái-tông mới có 8 tuổi, việc gì cũng do ở Trần thủ Độ cả. Thủ Độ tuy là một người không có học-vấn nhưng là một tay gian-hùng, chủ ý cốt gây dựng cơ-nghiệp nhà Trần cho bền-chặt, cho nên dẫu việc tàn-bạo đến đâu, cũng làm cho được. Lý Huệ-tông tuy đã xuất gia đia ở chùa rồi nhưng Thủ Độ vẫn định bụng giết đi, cho khỏi sự lo về sau.
Một hôm Huệ-tông ngồi nhổ cổ ở sân chùa Chân-giáo, Thủ-Độ đi qua trông thấy, mới nói rằng: "Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rể cái nó đi! " Huệ- tông nghe thế, phủi tay đứng dậy nói rằng: "Nhà ngươi nói ta hiểu rồi ". Được mấy hôm, Thủ Độ cho người đến mời Huệ-tông, Huệ-tông biết ý, vào nhà sau thắt cổ tự-tận. Thủ Độ đưa bách quan đến tế khóc xong rồi hỏa táng, chôn ở tháp Bảo-quang.
Còn Thái-hậu là Trần-thị giáng xuống làm Thiên-cực công-chúa để gả cho Trần thủ Độ (Trần thủ Độ và Thiên-cực công-chúa là hai chị em họ). Bao nhiêu những cung-nhân nhà Lý thì đưa gả cho những Tù-trưởng các mường.
Thủ Độ đã hại Huệ-tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn-thất nhà Lý. Đến năm nhăm-thìn (1232) nhân làm lễ Tiên-hậu nhà Lý ở thôn Thái-Đường, làng Hoa-lâm (huyện Đông-ngạn, tỉnh Bắc-ninh), Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn-thất nhà Lý vào đấy tế-lễ, thì sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả.
Thủ Độ chỉ lo làm cho thế nào cho ngôi nhà Trần được vững-bền, cho nên không những là tàn ác với nhà Lý mà thôi, đến luân-thường ở trong nhà, cũng làm loạn cả. Chiêu-thánh Hoàng-hậu lấy Thái-tông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con 35, Thủ Độ bắt Thái-tông bỏ đi và giáng xuống làm công-chúa, rồi đem người chị bà Chiêu-thánh tức là vợ Trần Liễu vào làm Hoàng-hậu, bởi vì người chị đã có thai được 3 tháng.
Làm loạn nhân-luân như thế, thì tự thượng-cổ mới có là một. Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn. Vua Thái-tông bị Thủ Độ hiếp chế như thế, trong bụng cũng không yên, đến hôm trốn ra, lên chùa Phù-vân, trên núi Yên-tử (huyện Yên-hưng, tỉnh Quảng-yên). Trần thủ Độ biết tin ấy, đem quân thần đi đón Thái-tông về. Thái-tông không chịu về, nói rằng: "Trẫm còn nhỏ-dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã-tắc". Thủ Độ nói mãi không nghe, ngảnh lại bảo bác quan rằng: "Hoàng-thượng ở đâu là Triều-đình ở đấy!" Nói đoạn, truyền sắp sửa xây cung điện ở chùa Phù-vân. Quốc-sư ở chùa ấy thấy thế, vào van lạy Thái-tông về Triều, Thái-tông bất-đắc-dĩ truyền xa-giá về Kinh. Được ít lâu
2. Việc Đánh Dẹp Giặc Giã.
Nước An-nam từ khi vua Cao-tông nhà Lý thất chính, trong nước chỗ nào cũng có giặc-giã. ở mạn Quốc-oai thì có giặc Mường làm loạn, ở Hồng-châu thì có Đoàn Thượng chiếm giữ đất Đường hào, tự xưng làm vua, ở Bắc-giang thì có Nguyễn Nộn độc-lập xưng vương ở làng Phù-đổng. Ấy là một nước mà chia ra làm mấy giang-sơn. Khi Trần thủ Độ đã thu-xếp trong việc cướp ngôi nhà Lý rồi, mới đem quân đi đánh dẹp. Trước lên bình giặc Mường ở Quốc-oai, sau về đánh bọn Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Nhưng thế-lực hai người ấy mạnh lắm, Trần thủ Độ đánh không lại, bèn chia đất cho hai người làm vương để giảng-hòa.
Năm mậu-tí (1228) Nguyễn Nộn đem quân đánh Đoàn Thượng, chiếm giữ lấy đất Đường-hào, thanh-thế lừng-lẫy. Trần thủ Độ đã lấy làm lo. Nhưng chỉ được mấy tháng, thì Nguyễn Nộn chết. Từ đó các châu huyện trong nước lại thống-hợp làm một.
3. Việc Cai Trị.
Cứ theo phép nhà Lý thì làng nào có bao nhiêu người đi làm quan văn, quan võ, thơ-lại, quân lính, hoàng-nam, lung-lão, tàn-tật, và những người đến ở ngụ cư, hay là những người xiêu-lạc đến trong làng, thì xã-quan phải khai vào cả quyển sổ gọi là trường-tịch. Ai có quan-tước mà có con được thừa ấm thì con lại được vào làm quan, còn những người giàu-có, mà không có quan-tước thì đời đời cứ phải đi lính. Thái-tông lên làm vua phải theo phép ấy, cho nên đến năm mậu-tí (1228) lại sai quan vào Thanh-hóa làm lại trường-tịch theo như lệ ngày trước.
Năm nhâm-dần (1242) Thái-tông chia nước Nam ra làm 12 lộ. Mỗi lộ đặt quan cai-trị là An-phủ-sứ, chánh-phó 2 viên. Dưới An-phủ-sứ có quan Đại-tư-xã và Tiểu-tư-xã. Từ ngũ phẩm trở lên thì làm Đại-tư-xã, lục phẩm trở xuống thì làm Tiểu-tư-xã, mỗi viên cai-trị, hoặc hai xã, hoặc ba bốn xã. Mỗi xã lại có một viên xã-quan là Chánh-sử-giám. Lộ nào cũng có quyển dân-tịch riêng của lộ ấy.
4. Việc Thuế Má.
Người trong nước phân ra từng hạng: con trai từ 18 tuổi thì vào hạng tiểu-hoàng-nam, từ 20 tuổi vào hạng đại-hoàng-nam. Còn từ 60 tuổi trở lên thì vào lão hạng.
Thuế thân: Thuế thân thời bấy giờ tùy theo số ruộng mà đánh, ai có một hai mẫu ruộng thì phải đóng một năm một quan tiền thuế thân; ai co ba bốn mẫu, thì phải đóng hai quan; ai co năm mẫu trở lên, thì đóng ba quan. Ai không có mẫu nào, thì không phải đóng thuế.
Thuế ruộng: Thuế ruộng thì đóng bằng thóc: cứ mỗi một mẫu thì chủ điền phải đóng 100 thăng thóc.
Còn như ruộng công, thì có sách chép rằng đời nhà Trần có hai thứ ruộng công, mỗi thứ phân ra làm ba hạng.
1. Một thứ gọi là ruộng quốc-khố: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc; hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch; hạng 3 mỗi mẫu 3 thạch. 2. Một thứ gọi là thác-điền 36: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thót; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch, hạng ba, bốn mẫu lấy một thạch.
Còn ruộng ao của công-dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế. Ruộng muối phải đóng bằng tiền.
Các thứ thuế: Có sách chép rằng nhà Trần đánh cả thuế trầu cau, thuế hương yên-tức, và tôm, cá, rau, quả, gì cũng đánh thuế cả.
5. Việc Đắp Đê.
Nước Nam ta ở mạn đường ngược thì lắm núi, mà ở trung châu thì nhiều sông ngòi, cho nên đến mùa lụt nước ngàn, nước lũ chảy về ngập mất cả đồng-điền. Vì vậy năm mậu-thân (1244) Thái-tông sai quan ơở các lộ đắp đê ở hai bên bờ sông cái (Hồng-hà), gọi là Đỉnh-nhĩ-đê. Lại đặt quan để coi việc đê, gọi là Hà-đê chánh phó-sứ hai viên. Hễ chỗ nào mà đê đắp vào ruộng của dân, thì nhà nước cứ chiếu theo giá ruộng mà bồi thường cho chủ ruộng.
6. Việc Học Hành.
Năm nhăm-thìn (1232) mở khoa thi Thái-học-sinh (thi Tiến-sĩ). Từ đời nhà Lý cũng đã có thi nho-sĩ, nhưng chỉ thi Tam-trường mà thôi, đến bây giờ mới có khoa thi Thái-học-sinh, chia ra thứ bậc, làm ba giáp để định cao thấp. Đến khoa thi năm đinh-vị (1247) lại đặt ra tam-khôi: trạng nguyên, bảng-nhãn, thám-hoa. Khoa thi năm đinh-vị này có Lê văn Hưu, là người làm sử nước Nam trước hết cả, đổ bảng-nhãn. Năm ấy lại có mở khoa thi Tam-giáo: Nho, Thích, Lão, ai hơn thì đổ khoa giáp, ai kém thì đổ khoa ất.
Xem như thế thì sự học-vấn đời nhà Trần cũng rộng: Nho, Thích, Lão cũng trọng cả. Nhưng không rõ cách học-hành và phép thi-cử bấy giờ ra thế nào, bởi vì chỗ này sử chỉ nói lược qua mà thôi.
Năm quí-sửu (1253) lập Quốc-học-viện để giảng tứ-thư ngũ-kinh và lập giảng-võ-đường để luyện-tập-võ-nghệ.
7. Pháp Luật.
 Sử chép rằng năm giáp-thìn (1244) vua Thái-tông có định lại các luật-pháp, nhưng không nói rõ định ra thế nào. Xét trong sách " Lịch-triều hiến-chương " của ông Phan huy Chủ thì phép nhà Trần đặt ra là hễ những người phạm tội trộm-cắp đều phải chặt tay, chặt chân, hay là cho voi giày. Xem như thế thì hình-luật bấy giờ nặng lắm.
8. Quan Chế.
Quan-chế đời nhà Trần cũng sửa-sang lại cả. Bấy giờ có Tam-công, Tam-thiếu, Thái-úy, Tư-mã, Tư-đồ, Tư-không, làm văn-võ đại- thần. Tể-tướng thì có Tả-hữu Tường-quốc, Thủ-tướng, Tham-tri. Văn-giai nột chức, thì có các bộ Thượng-thư, Thị-lang, Lang-trung, Viên-ngoại, Ngự- sử, v.v... Ngoại chức, thì có An phủ-sứ, Tri-phủ, Thông-phán, Thiêm-phám v.v... Còn võ-giai nội-chức, thì có Phiêu-kỵ thượng-tướng-quân, Cẩm-vệ thượng-tướng quân, Kim-ngô đại-tướng-quân, Võ-vệ đại-tướng-quân, Phó đô-tướng-quân v.v... Ngoại chức thì có Kinh-lược-sứ, Phòng-ngự-sứ, Thủ- ngự-sứ, Quan-sát-sứ, Đô-hộ, Đô-thống, Tổng-quản, v.v...
Quan-lại đời bấy giờ, cứ 10 năm, thì được thăng lên một hàm, và 15 năm mới được thăng lên một chức.
Đời nhà Trần tuy quan-lại thì nhiều, nhưng vua quan có ý thân-cận với nhau lắm. Hễ khi nào vua đãi yến, các quan uống rượu xong rồi, thì ra dắt tay nhau mà múa hát, không có giữ lễ-phép nghiêm-khắc như những đời sau.
9. Binh Chế.
Từ khi Thái-tông lên ngôi làm vua thì việc binh-lính một ngày một chỉnh-đốn thêm. Bao nhiêu những người dân-tráng trong nước đều phải đi lính cả. Các quân-vương ai cũng được quyền mộ tập quân-lính. Vì cớ ấy cho nên đến sau người Mông-cổ sang đánh, nước Nam ta có hơn 20 vạn quân để chống với quân nghịch. Trừ những giặc-giã nhỏ-mọn ở trong nước không kể chi, nước Nam ta bấy giờ ở phía nam có Chiêm-thành, phía bắc có quân Mông-cổ sang quấy-nhiễu cho nên phải đánh -dẹp luôn.
10. Việc Đánh Chiêm Thành.
Từ khi Thái-tông lên làm vua, nước Chiêm-Thành đã sang cống-tiến, nhưng thường vẫn sang cướp phá, và cứ đòi lại đất cũ. Thái-tông lấy làm tức giận, bèn sửa-soạn sự đi đánh Chiêm-thành. Năm nhăm-tí (1252) ngài ngự-giá đi đánh, bắt được vương- phi nước Chiêm tên là Bố-gia-la và quân dân nước ấy rất nhiều.
11. Quân Mông Cổ Xâm Phạm Đất An Nam.
Trong khi nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên làm vua ở An-nam, thì nhà Tống bên Tàu bị người Mông-cổ đánh phá. Nguyên ở phía bắc nước Tàu có một dân-tộc gọi là Mông-cổ, ở vào khoảng thượng-lưu sông Hắc-long-giang (Amour). Người Mông-cổ hung tợn, mà lại có tính hiếu chiến, người nào cưỡi ngựa cũng giỏi, và bắn tên không ai bằng. Binh-lính thường là quân-kị, mà xếp-đặt thành cơ nào đội ấy, thật là có thứ-tự, và người nào cũng tinh nghề chiến-đấu.
Bởi tính-chất và binh-pháp của người Mông-cổ như thế, cho nên Thiết-mộc-chân (Témoudjine) tức là Thành-cát-tư-hãn (Gengis khan), miêu- hiệu là Nguyên-thái-tổ, mới chiếm giữ được cả vùng Trung-Á, cùng đất Ba- tư, sang đến phía đông-bắc Âu-la-ba. Sau quân Mông-cổ lại lấy được nước Tây-hạ, phía tây nước bắc Tàu, dứt được nước Kim và tràn sang đến nước Triều-tiên (Cao-ly).
Thành-cát-tư-hãn mất, người con thứ ba là A-loa-đài (Agotai) lên làm vua tức là Nguyên-thái-tông. A-loa-đài truyền cho con là Quí-do (Gouyouk) tức là Nguyên Định-tông. Quí-do làm vua được non ba năm thì mất, ngôi vua Mông-cổ về chi khác. Người em con nhà chú là Mông-kha (Mong-ké) lên làm vua, tức là Nguyên Hiến-tông.
Mông-kha sai hai em là Hạt-lỗ (Houlagen) sang kinh-lý việc nước Ba- tư, và Hốt-tất-liệt (Koubilai) sang đánh nhà Tống bên Tàu. Trong khi quân Mông-cổ sang đánh nhà Tống, thì Mông-kha mất, Hốt-tất-liệt phải rút binh về lên ngôi vua, tức là Nguyên Thế-tổ. Hốt-tất-liệt lên làm vua rồi đổi quốc hiệu là Nguyên.
Hốt-tất-liệt lại sang đánh nhà Tống. Từ đó cả nước Tàu thuộc về Mông-cổ cai-trị.
Khi Mông-kha hãy còn, Hốt-tất-liệt đem quân sang đánh nhà Tống, có sai một đạo quân đi đánh nước Đại-lý (thuộc tỉnh Vân-nam bây giờ) tướng Mông-cổ là Ngột-lương-hợp-thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần-thái-tông về thần-phục Mông-cổ.
Thái-tông không những là không chịu, lại bắt giam sứ Mông-cổ, rồi sai Trần quốc Tuấn đem binh lên giữ ở phía Bắc. Bấy giờ là năm đinh-tị (1257).
Trần quốc Tuấn ít quân đánh không nổi, lùi về đóng ở Sơn-tây. Quân Mông-cổ kéo tràn xuống đến sông Thao. Thái-tông phải ngự-giá thân chinh, nhưng đánh không được, chạy về đóng ở sông Hồng-hà 37. Quân Mông-cổ tiến lên đánh đuổi quân nhà Trần đến Đông-bộ-đầu (phía đông sông Nhị-hà ở hạt huyện Thượng-phúc). Thái-tông phảI bỏ kinh-đô, chạy về đóng ở sông Thiên-mạc (về hạt huyện Đông-an, tỉnh Hưng-yên).
Quân Mông-cổ vào thành Thăng-long, thấy ba người xứ Mông-cổ còn phải trói, giam ở trong ngục, đến khi cởi trói ra thì một người chết. Ngột-lương-hợp-thai thấy thế tức giận quá, cho quân ra giết phá cả nam phụ lão ấu ở trong thành.
Bấy giờ thế nguy, Thái-tông ngự thuyền đến hỏi Thái-úy là Trần nhật Hiệu. Nhật Hiệu không nói gì cả, cầm sào viết xuống nước hai chữ "Nhập Tống". Thái-tông lại đến hỏi Thái-sư Trần thủ Độ. Thủ Độ nói rằng: " Đầu tôi chưa rơi xuống đất, thì xin Bệ-hạ đừng lo! ". Thái-tông nghe thấy Thủ Độ nói cứng-cỏi như thế, trong bụng mới yên.
Được ít lâu quân Mông-cổ ở nước Nam không quen thủy-thổ xem ra bộ mỏi-mệt. Thái-tông mới tiến binh lên đánh ở Đông-bộ-đầu. Quân Mông- cổ thua chạy về đến trại Qui-hóa, lại bi chủ trại đấy chiêu-tập thổ dân ra đón đánh. Quân Mông-cổ thua to, rút về Vân-nam, đi đường mỏi-mệt, đến đâu cũng không cướp-phá gì cả, cho nên người ta gọi là giặc Phật.
Quân Mông-cổ tuy thua phải rút về, nhưng chẳng bao lâu vua Mông- cổ dứt được nhà Tống, lấy được nước Tàu, rồi có ý muốn bắt vua nước Nam ta sang chầu ở Bắc-kinh, bởi vậy lại sai sứ sang đòi lệ cống. Vua Thái-tông sai Lê phụ Trần sang sứ xin cứ ba năm sang cống một lần.
Mùa xuân năm mậu-ngọ (1258), Thái-tông nhường ngôi cho Thái-tử là Trần Hoảng, để dạy-bảo mọi việc về cách trị nước, và đề phòng ngày sau anh em không tranh nhau. Triều-đình tôn Thái-tông lên làm Thái-thượng- hoàng để cùng coi việc nước. Thái-tông trị-vì được 33 năm, làm Thái- thượng-hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.
II. TRẦN THÁNH-TÔNG (1258-1278)
Niên-hiệu: Thiệu-long (1258-1272) Bảo-phù (1273-1278)
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử Hoảng lên ngôi, tức là vua Thánh-tông, đổi niên-hiệu là Thiệu-long.
Thánh-tông là ông vua nhân-từ trung-hậu ở với anh em họ hàng rất là tử-tế. Thường hay nói rằng: " Thiên-hạ là của ông cha để lại, nên để cho anh em cùng hưởng phú-quí chung ". Rồi cho các hoàng-thân vào nội điện, cùng ăn một mâm, nằm một giường, thật là thân-ái, chỉ có lúc nào ra việc công, hoặc buổi chầu, thì mới phân thứ-tự theo lễ-phép mà thôi.
Còn việc nước thì thật ngài có lòng lo giữ cho dân được yên trị. Trong 21 năm, ngài làm vua không có giặc-giã gì cả. Việc học-hành cũng mở mang thêm: cho Hoàng-đệ Trần ích Tắc là một người hay chữ trong nước lúc ấy, mở học-đường để những người văn-sĩ học-tập. Danh nho Mạc đỉnh Chi cũng học ở trường ấy ra.
Đời bấy giờ Lê văn Hưu làm xong bộ Đại-Việt sử thành 30 quyển, chép từ Triệu Võ-vương đến Lý Chiêu-hoàng. Bộ sử này khởi đầu làm từ Trần Thái-tông đến năm nhâm-thân (1272) đời Thánh-tông mới xong. Nước Nam ta có quốc-sử khởi đầu từ đấy.
Thánh-tông lại bắt các vương-hầu, phò-mã phải chiêu-tập những người nghèo-đói lưu-lạc để khai-khẩn hoang điền làm trang hộ. Trang-điền có từ đấy.
2. Sự giao-thiệp với Mông-Cổ.
Nước tuy được yên, song việc giao-thiệp với Tàu một ngày một khó thêm. Đời bấy giờ Mông-cổ đã đánh được nhà Tống rồi, chỉ chực lấy nước An-nam, nhưng vì trước tướng Mông- cổ đã đánh thua một trận, vả trong nước Tàu vẫn chưa được yên, cho nên vua Mông-cổ muốn dụng kế dụ vua An-nam sang hàng-phục, để khỏi dùng can-qua. Vậy cứ vài năm lại cho sứ sang sách-nhiễu điều nọ điều kia, và dụ vua An-nam sang chầu, nhưng vua ta cứ nay lần mai lữa, không chịu đi. Sau nhân dịp Thái-tông nhừờng ngôi cho Thánh-tông, vua Mông-cổ sai sứ sang phong vương cho Thánh-tông, và tuy không bắt nước Nam phải đổi phục-sắc và chính-trị, nhưng định cho ba năm phải một lần cống. Mà lệ cống thì phải cho nho-sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán-số và thợ-thuyền mổi hạng ba người, cùng với các sản-vật như là sừng tê, ngà voi, đồi-mồi, châu-báu và các vật lạ. Vua Mông-cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xích (tiếng Mông-cổ tức là quan Chưởng-ấn), để đi lại giám-trị các châu-quận nước Nam.
Ý Mông-cổ muốn biết nhân-vật tài-sản nước Nam ta có những gì, và học-vấn xảo-kỹ ra sao, để liệu đường mà đánh lấy cho tiện. Và tuy rằng quyền chính-trị vẫn để cho vua nước Nam, nhưng đặt quan giám-trị để dần dần lập thành Bảo-hộ.
Thánh-tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần-phục, nhưng trong bụng cũng biết rằng Mông-cổ có ý đánh lấy nước mình, cho nên cứ tu binh dụng võ để phòng có ngày tranh chiến. Vậy tuyển đinh-tráng các lộ làm lính, phân quân-ngũ ra làm quân và đô: mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người, bắt phải luyện tập luôn.
Năm bính-dần (1266) nhân sứ Mông-cổ sang, Thánh-tông sai quan sang Tàu đáp lễ và xin đừng bắt nho-sĩ, thầy bói, và các thợ-thuyền sang cống. Vua Mông-cổ ưng cho, nhưng bắt chịu 6 điều khác:
1. Vua phải thân vào chầu
2. Vua phải cho con hay là em sang làm tin
3. Biên sổ dân sang nộp
4. Phải chịu việc binh-dịch
5. Phải nộp thuế-má
Vua An-nam cứ lần-lữa không chịu. Đến năm tân-mùi (1271) vua Mông-cổ là Hốt-tất-liệt cải quốc-hiệu là Đại-nguyên, rồi cho sứ sang dụ Thánh-tông sang chầu nhưng Thánh-tông cáo bệnh không đi.
Năm sau Nguyên-chủ cho sứ sang tìm cột đồng-trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh-tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Việc ấy cũng thôi.
Đến năm ất-hợi (1275) Thánh-tông sai sứ sang Tàu nói rằng: nước Nam không phải là nước Mường-mán mà đặt quan giám-trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn-tiến-sứ. Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt theo 6 điều đã định trước. Thánh-tông cũng không chịu. Tự đấy vua nhà Nguyên thấy dụng-mưu không được, quyết ý cử binh sang đánh nước Nam, sai quan ở biên-giới do thám địa-thế nước ta. Bên An-nam cũng đặt quan phòng-bị.
Năm đinh-sửu (1277) Thái-thượng-hoàng mất ở Thiên-trường-phủ (tức là làng Tức-mạc). Năm sau (1278), Thánh-tông nhường ngôi cho Thái- tử Khâm, rồi về ở Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng.
Thánh-tông trị vì được 21 năm, làm Thái-thượng-hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.
III. TRẦN NHÂN-TÔNG (1279-1293)
Niên-hiệu: Thiệu-bảo (1279-1284) Trùng-hưng (1285-1293)
1. Việc Chính Trị.
Thái-tử Trần Khâm lên làm vua, tức là vua Nhân-tông.
Lúc bấy giờ sứ nhà Nguyên đi lại hạch điều này, trách điều nọ, triều- đình cũng có lắm việc bối-rối. Nhưng nhờ có Thánh-tông thượng-hoàng còn coi mọi việc và các quan triều-đình nhiều người có tài-trí, vua Nhân-tông lại là ông vua thông-minh, quả-quyết, mà người trong nước thì từ vua quan cho chí dân-sự đều một lòng cả, cho nên từ năm giáp-thân (!284) đến năm mậu- tí (1288) hai lần quân Mông-cổ sang đánh rồi không làm gì được.
Trừ việc chiến-tranh với quân Mông-cổ ra, để sau sẽ nói, trong đời vua Nhân-tông lại còn giặc Lào, thường hay sang quấy-nhiễu ở chỗ biên- thùy, bởi vậy năm canh-dần (1290) vua Nhân-tông lại phải ngự giá đi đánh Lào.
2. Việc Văn Học.
Đời vua Nhân-tông có nhiều giặc-giã, tuy vậy việc văn-học cũng hưng-thịnh lắm. Xem bài hịch của Hưng-đạo-vương, thơ của ông Trần quan Khải và của ông Phạm ngũ Lão thì biết là văn-chương đời bấy giờ có khí-lực mạnh-mẽ lắm. Lại có quan Hình-bộ Thượng-thư là ông Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng chữ Nôm mà làm thơ-phú. Ông Nguyễn Thuyên là người Thanh-lâm 38, tỉnh Hải-dương, có tiếng tài làm văn như ông Hàn Dũ bên Tàu ngày xưa, bởi vậy vua cho đổi họ là Hàn. Về sau người mình theo lối ấy mà làm thơ, gọi là Hàn-luật.
Năm quí-tị (1293) Nhân-tông truyền ngôi cho Thái-tử tên là Thuyên, rồi về Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng. Nhân-tông trị-vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi.
-------------
35. Chiêu Thánh Hoàng Hậu bấy giờ mới có 19 tuổi. Trần Liễu biết sức mình không làm gì nổi, bèn nhân lúc Thái-tông ngự thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự, xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ nghe tin, đến rút gươm toan giết Trần Liễu, Thái-tông can mãi mới thôi. Sau Thái-tông lấy đất Yên-phụ, Yên- đường, Yên-sinh và Yên-bang (ở huyện Đông-triều và phủ Kinh-môn, Hải- dương) cho Trần Liễu làm thái-ấp và phong cho làm An-sinh-vương. Thủ Độ đã hại hết cả dòng dỏi họ Lý, lại muốn cho họ Lý không còn ai nhớ đến họ Lý nửa, mới nhân vì tổ nhà Trần tên là Lý, bắt trong nước ai là họ Lý đều phải cải là họ Nguyễn.
Thủ Độ là người rất gian-ác đối với nhà Lý, nhưng lại là một người đại công-thần của nhà Trần. Một tay cáng-đán bao nhiêu trong-sự, giúp Thái-công bình-phục được giặc-giã trong nước và chỉnh-đốn lại một việc, làm cho nước Nam ta bấy giờ được cường thịnh, ngày sau có thể chống-cự với Mông-cổ, khỏi phải làm nô-lệ những kẻ hùng-cường.
36.Sử chép rằng ông Lê Phụng Hiểu đời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc lập được nhiều công. Sau vua định phong tước cho ông, ông từ chối, xin lên núi ném con dao, hễ rơi đến đâu xin lấy đất làm tư nghiệp. Vua thuận cho. Lê Phụng Hiểu lên núi Băng Sơn ném con dao xuống xa được 10 dặm. Vua bèn lấy ruộng ở chung quanh núi Băng Sơn cho ông Lê Phụng Hiểu, gọi là thác đao điền. Sau thành ra tên thác điền là ruộng để thưởng công cho các quan. Còn như vàng bạc tiêu-dụng trong nước thì tiêu bằng phân, lượng đã đúc sẵn, có hiệu nhà nước. Khi nào đóng nộp cho vua quan, thì một tiền là 70 đồng, mà thường tiêu với nhau thì một tiền chỉ có 69 đồng mà thôi.
37. Sử ta chép là sông Phú Lương.
38. Làng Lai Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, nay thuộc huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.