Đánh máy : Tống Thu
Hồi 17
Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế,
Đảo Mệnh, Hoàn Dương, Phu Phụ Hoan.

Đầu trung tuần tháng hai, Tư Đồ Sảng bỗng nằm mộng thấy một lão nhân áo trắng, tóc bạc, râu dài. Dung mạo hao hao giống Bạch Phụng. Ông ta nghiêm nghị bảo:
- Này Tư Đồ hiền tế! Lão phu chính là Bạch Hòa, phụ thân của Bạch Phụng đây! Hồ Ly Đế Quân phản đối mối duyên ngang trái của hai ngươi nên đã bắt Bạch Phụng giam ở Trường Giới Động trên núi Đại Ba Sơn, thuộc rặng Tần Lệnh. Đế Quân không tin loài người có thể thực lòng yêu thương một ả Hồ Ly tinh! Song Phụng nhi đã hết lời biện bạch nên Đế Quân cho gọi hiền tế đến, hạn chót là ngày hai mươi tám tháng hai này! Đường đi sẽ đầy dẫy cạm bẫy và mai phục nhưng hiền tế chỉ được phép độc hành.
Bạch lão dừng lại lấy hơi rồi buồn rầu nói tiếp:
- Thú thực là Đế Quân có ý thu nạp Phụng nhi làm thứ Phi nên sẽ tận lực ngăn trở hiền tế bằng mọi thủ đoạn. Lão phu sợ rằng ngươi sẽ không vượt qua nổi mà còn uổng mạng! Và dẫu cho hiền tế có cứu được Phụng nhi ra khỏi Đại Ba Sơn thì hai người cũng chỉ suốt đời lén lút tương hội chứ không thành phu thê đường đường chính chính được! Hay là hiền tế đừng đi nữa và tiến hành việc Đảo Mệnh cho hai vị tiểu thư họ Lăng. Lão phu sẽ mở cửa Linh Hồ Động và chỉ dẫn phương thức hồi sinh!
Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp:
- Bẩm nhạc phụ! Tiểu tế yêu thương Phụng muội bằng cả tấm chân tình, quyết chẳng vì sợ chết mà bỏ rơi nàng! Dầu sau này chỉ được sum họp trong bóng đêm thì tiểu tế cũng mãn nguyện rồi! Nếu chẳng may tiểu tế táng mạng thì cũng là số mệnh! Lúc ấy xin nhạc phụ giúp Trương Thiên Sư tiến hành việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!
Bạch Hòa lộ vẻ hài lòng trước sự chung thủy của chàng rể quí! Ông mỉm cười dặn dò:
- Giữa giờ Ngọ ngày kia hiền tế hãy xuất hành và nhớ mang theo Giáng Ma Phủ!
Bạch lão biến mất và Tư Đồ Sảng cũng giật mình thức giấc! Chàng làm vệ sinh thật nhanh và tìm đến phòng của nghĩa phụ. Lúc này mới là đầu canh năm nhưng Tây Môn Giới đã dậy để uống trà với Trại Tôn Tử!
Từ ngày con nuôi trở về, lòng ông vui vẻ nên bỏ tật nhậu khuya, dễ dàng ngủ sớm và dậy sớm! Bọn Thất Tinh Hình Sứ thay phiên nhau gác phòng sư phụ, túc trực ngày đêm, lúc nào cũng có ít nhất là hai người! Họ cũng đã biết Tề Thanh Tuyệt là Thiếu Chủ của mình, kính cẩn chào hỏi và mời ông vào trong!
Thấy mặt nghĩa tử, ông hoan hỉ bảo:
- Sao sáng nay Sảng nhi đến tìm ta sớm như vậy? Mau ngồi xuống đây uống trà!
Và ông mỉm cười giễu cợt:
- Hay là ngươi nhớ vợ nên trằn trọc đến sáng? Tối nay lão phu sẽ cho mượn mật thất để ngươi và Hương nhi sử dụng? Lão phu chỉ sợ bụng nó phưỡn ra, khó mà giải thích với thiên hạ!
Tư Đồ Sảng đỏ mặt hổ thẹn vì quả thực là chàng cũng khó ngủ lúc đầu hôm vì khao khát ái ân! Một nam nhân đã quen với thân xác đàn bà thì ân ái trở thành một nhu cầu. Hơn nữa, Chiêu Hương là một vưu vật hiếm có, ngực nở eo thon, da dẻ mịn màng, trắng muốt, ánh mắt đầy tình tứ mê hoặc, khiến lòng quân tử đắm say, không sao quên được! Nàng biết mình lớn tuổi nên nỗ lực chăm chút nét đẹp cơ thể và hết lòng chiều chuộng trượng phu, đem lại cho Tư Đồ Sảng vô vàn hoan lạc!
Nhắc lại, Tư Đồ Sảng bị nghĩa phụ nhìn thấu tâm can nên thẹn thùng bối rối, ngồi xuống ghế bưng chén trà nhấp một hớp!
Tây Môn Giới khề khà nói:
- Sảng nhi! Ta và Hồ lão huynh đang tìm hiểu lai lịch của bọn người bịt mặt đã chặn bắt Trương Thiên Sư và Giả Đan Quỳnh, ở gần Y Xuyên, hồi đầu tháng giêng. Hồ lão huynh cho rằng đám lâu la là thủ hạ Hải Hoa Bang, còn mấy lão Hắc y sử dụng trường kiếm thì thuộc về Song Tuyệt Môn ở Phủ Du Lâm, miền Bắc Thiểm Tây!
Hồ Sĩ Tuệ đỡ lời bạn già:
- Song Tuyệt Môn tồn tại đã ba chục năm nay, Môn chủ là Hầu Diện Thư Sinh Dư Nam Nghiệp, năm nay độ chừng bẩy mươi lăm tuổi! Họ Dư giỏi kiếm thuật và nghề phóng kim thép, bản lãnh đứng đầu vùng Thiểm Bắc, đã từng xưng là Song Tuyệt Thần Quân. Khổ thay, người võ lâm lại không thèm nhớ đến danh hiệu đẹp đẽ ấy mà cứ gọi một cách giễu cợt là “Chàng học trò mặt khỉ!” Dư Nam Nghiệp phẫn chí xây nhà ở chân núi Nguyệt Sơn, cách Du Lâm mười lăm dặm về hướng Bắc và thu nạp đệ tử, thành lập Song Tuyệt Môn! Do dung mạo quá xấu xí nên Hầu Diện Thư Sinh bằng lòng với vai trò bá chủ Thiểm Bắc, không hề bước chân vào Trung Nguyên!
Tây Môn Giới tiếp lời:
- Lão phu đã xem xét kỹ mấy cây độc châm còn dính trên áo lông cừu của Sảng nhi, phát hiện dấu khắc nửa vầng trăng rất nhỏ. Đấy chính là Chiêu bài của núi Nguyệt Sơn! Và chất độc tẩm ở đầu mũi kim có lẽ là nọc của loài hải xà bụng vàng, tuyệt thế vô song, giết người trong chớp mắt và không có thuốc giải! Trong pho Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương cũng chú thích rằng: Do chưa lần nào bắt được hải xà để nghiên cứu nên Hàn Cổ Mộc đành bó tay!
Ông lộ vẻ lo lắng bảo:
- Sảng nhi! Có lẽ Song Tuyệt Môn bị quân Mông Cổ mua chuộc và làm tay sai cho chúng, giống như Nam Hải Tiên Ông và Giáp Vô Yên lúc trước vậy! Ngươi là trụ cột của võ lâm, sớm muộn gì cũng phải đối đầu với Song Tuyệt Môn và chất độc kia khiến lão phu rất băn khoăn.
Tây Môn Giới tháo sợi tơ trên cổ, đặt Hắc ngọc xuống bàn và nghiêm nghị bảo:
- Sảng nhi hãy nuốt viên nội đan Mãng Xà tinh này để tăng hỏa hầu pho Khô Mộc Thần Công thì mới có thể toàn mạng trước độc châm của Hầu Diện Thư Sinh!
Vậy phải chăng Tư Đồ Sáng đến Lạc Dương để do thám Tư Đồ gia trang hoặc trà trộn vào Võ Lâm Học Hiệu? Xin thưa rằng hai việc ấy đều không cần thiết vì sẽ chẳng mang lại kết quả gì? Chàng trai mồ côi của chúng ta đến đây tìm một nhân vật có tên là Tích Dịch Quỷ (Ma Thằn Lằn) Tây Môn Giới. Lão ta tuổi độ lục thập, vốn là bào đệ của chưởng quữ Lý Tứ.
Tây Môn Giới lừng danh trong làng đạo tặc Trung Nguyên với công phu Bích Hổ Du Tường có một không hai. Cái mỹ danh Tích Dịch Quỷ chính là sự ca ngợi của anh em trọm cướp.
Song Tây Môn Giới không chỉ giỏi nghề trèo tường mà còn là kẻ đa mưu túc trí, xảo quyệt tuyệt luân. Lý Tứ biết rằng chỉ có gã bào đệ quỷ sứ này là đủ tài giúp đỡ Tư Đổ Sảng. Tích Dịch Quỷ có thói quen ăn nhậu ở Lạc Thành Đại tửu điếm nên Lý lão đã bảo cháu mình đến đấy tìm.
Tây Môn Giới có tài biến hóa vô song, lúc nào cũng cải trang, vì vậy, dẫu Tư Đồ Sảng có nhìn thấy cũng chẳng thể nhận ra. Nghĩa là chàng phải chờ lão tự động tìm đến khi nhìn thấy chiếc trâm bạc trên búi tóc chàng.
Chiếc ngân trâm này có đuôi khắc hình thằn lằn, vốn là tín vật của Tây Môn Giới tặng cho Lý Tứ. Bọn đàn em của Tích Dịch Quỷ nhìn thấy ngân trâm ất sẽ thông báo ngay cho chủ tướng.
Lạc Dương chính là sào huyệt của Tích Dịch Quỷ. Quả nhiên, Tư Đồ Sảng vừa ăn xong bữa thì có gã hán tử áo gấm đen sang trọng đi ngang bàn và nói mau:
- Trước cổng chùa Bạch Mã!
Nói xong, gã rời tửu điếm ngay và không hề ngoái lại. Tư Đồ Sảng mừng rỡ gọi tiểu nhị tính tiền. Hai khắc sau, chàng đến chỗ hẹn, gặp lại hán tử áo đen và được nghe chỉ thị thứ hai:
- Công tử hãy vào  trọ trong toà Xuân Phong lữ điếm bên kia đường và chờ ở đấy, không được ra ngoài.
Tư Đồ Sảng ngoan ngoãn vâng lời đối phương. Chàng tắm gội xong lên giường nằm suy nghĩ, tưởng nhớ đến song thân mà lệ thảm tuôn ướt gối.
Quá ngọ mới có người gõ cửa phòng Tư Đồ Sảng nhưng không phải gã áo đen lúc trước. Người khách này có vóc dáng mảnh khảnh, tuổi độ bốn mươi, mặc áo xanh học trò, đầu đội nho cân mầu đen.
Ông ta thản nhiên ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn rồi lạnh lùng hỏi:
- Vì sao ngươi có được cây Tích Dịch ngân trâm kia?
Tự Đồ Sảng điềm đạm đáp:
- Tại hạ là Tư Đồ Sảng, cháu củaTứ Xuyên Đại Đạo Lý Khởi Tập.
Thì ra chưởng quỷ Lý Tứ lại chính là cao thủ khét tiếng vùng Tây Thục.
Nghe xong, ánh mắt của khách sáng lên niềm vui nhưng gã vẫn hỏi lại:
- Thế ngươi có biết cách nhận dạng Tích Dịch Quỷ hay không?
Tư Đố Sảng gật đầu:
- Có! Gia thúc công bảo rằng phía dưới rốn của Tích Dịch Quỷ có một nốt ruồi son lối lớn bằng hạt đậu.
Gương mặt của vị khách giãn ra, ã cười rất tươi:
- Chính ta là Tây Môn Giới đây! Chẳng hay Lý đại ca có gửi thư cho ta không?
Tư Đố Sảng hoan hỉ đáp:
- Bẩm có!
Sau khi đọc xong thư của Lý Tứ, Tây Môn Giới hỏi han Tư Đồ Sảng rất kỹ. Lão cau mày suy nghĩ rồi nói:
- Lão phu cũng đồng ý với Lý đại ca rằng hung thủ không phải là Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Hiện nay uy quyền của lão ta bao trùm võ lâm, không hề sợ lời tố cáo của lệnh tôn. Vả lại, chuyện ấy đã quá xa xưa rồi. Do đó, lão phu thiên về giả thuyết rằng phe đối phương là người hay một tổ chức mang chữ “Quỷ” hoặc đeo mặt nạ ma quái cho nên lệnh đường mới di ngôn lại như thế.
Tích Dịch Quỷ nhấp hớp trà rồi nói tiếp:
- Lão phu còn đoán rằng trước đây lệnh tôn từng va chạm hoặc gia nhập tổ chức ma quỷ ấy. Vậy thì, có lẽ rằng khi ly khai họ lệnh tôn đã mang theo một bí mật kinh người nào đó nên đã hơn hai mươi năm mà vẫn không thoát khỏi sự truy tầm.
Trước giờ, Tư Đồ Sảng cứ đinh ninh kẻ thù là chú ruột mình. Giờ nghe Tây Môn Giới phân tích, chàng rất hoang mang, bối rối, liền thở dài bảo:
- Tây Môn đại thúc! Thế thì tiểu điệt phải tìm hung thủ ở đâu?
Tây Môn Giới nghiêm giọng:
- Hiện nay trong võ lâm có đến mấy chục cao thủ mang chiêu bài chữ “Quỷ” Còn bang hội thì có những nơi như Quỷ Cung ở Giang Tây, Quỷ Cốc ở Tứ Xuyên, Quỷ Bang ở Sơn Đông. Tuy nhiên, khả nghi nhất là một tổ chức khủng bố thần bí mang tên “Quỷ Ảnh Hội”. Ba chục năm nay, “Quỷ Ảnh Hội” đã giết chết hàng ngàn người, cướp đi mấy trăm vạn lượng vàng. Khổ thay, hành tung của họ cực kỳ bí mật nên không ai biết được chút lai lịch nào. Hiện nay, Tổng đàn võ lâm đã treo giải thưởng năm trăm lượng vàng cho bất cứ ai cung cấp tin tục về sào huyệt của “Quỷ Ảnh Hội”!
Tư Đồ Sảng càng thêm thất vọng, đau đớn nói:
- Nếu hung thủ đúng là “Quỷ Ảnh Hội” thì mối thù này lại càng vô phương báo phục! Chúng ẩn hiện như ma quỷ làm sao tiểu diệt tìm ra được?
Chàng bỗng ngẩn người vì kinh ngạc khi nghe Tích Dịch Quỷ nói:
- Lão phu có cách giúp ngươi tìm ra “Quỷ Ảnh Hội”!
Tư Đồ Sảng mừng đến ứa nước mắt, chắp tay vái dài:
- Nếu được vậy thì tiểu điệt nguyện suốt đời ghi tâm khắc cốt ơn trọng của đại thúc.
Tây Môn Giới xua tay cười nhạt:
- Võ nghệ của ngươi được bao nhiêu mà dám tìm “Quỷ Ảnh Hội” đòi nợ máu? Bản lãnh của mỗi tên sát thủ ấy đều tương đương với một cao thủ nhất lưu trong võ lâm, chưa kể đến bọn thủ lĩnh.
Tư Đồ Sảng chỉnh sắc đáp:
- Đại thúc cứ yên tâm! Tiểu điệt thừa kế nòi thần lực của gia mẫu, sức cử ngàn cân, lại tinh thông quyền chưởng, kiếm thuật và cả phủ pháp của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng. Tiểu điệt từng bị gia phụ và Lý thúc công vây đánh mà vẫn chiếm thượng phong.
Tư Đồ Sảng cố tạo niềm tin cho đối phương chứ chẳng phải có ý khoe khoang, mặt chàng buồn rười rượi.
Nhưng Tích Dịch Quỷ thì chấn động vì hiểu rõ bản lãnh của Tứ Xuyên Đại Đạo cũng như của Tư Đồ Quát. Trước khi bị em ruột đuổi chạy khỏi Phúc Châu, Tư Đồ Quát từng nổi danh là Du Long Thần Quyền.
Tây Môn Giới gật gù:
- Tốt lắm? Nếu đúng là võ nghệ của ngươi cao siêu như thế thì lão phu rất an lòng. Bí mật của quỷ ảnh Hội là trên mặt của các hội viên đều có đúng ba nốt ruồi. Mặt giả hay thực thì cũng vậy. Bí mật thứ hai là Quỷ Ảnh Hội có thói quen tiếp cận những người trẻ tuổi, anh hùng để dụ dỗ thu phục. Do đó, hiền điệt cứ việc dương oai diễu võ rong chơi khắp chốn đô hội, tất có ngày sẽ chộp được một tên tò mò? Sau đó ngươi dùng cực hình tra tấn thì sẽ tìm ra sào huyệt “Quỷ Ảnh Hội”. Hoặc giả, chính gã đó sẽ dẫn ngươi về tổ quỷ.
Đúng là chuyện mò kim đáy biển song Tư Đồ Sảng không còn cách nào khác, đành phải làm theo kế hoạch của Tây Môn Giới. Lạc Dương có Tổng đàn võ lâm nên chắc là Quỷ Ảnh Hội không dám bén máng đến. Do đó, Tư Đỗ Sảng quyết định sáng mai rời Lạc Dương đi đến Hứa Xương.
Nhưng ngay tối hôm ấy, Tây Môn Giới đã quay lại, đưa chàng về nhà của lão trong một trang viện cổ kính, tao nhã gần cửa đông thành.
Trong vòng một tháng, Tích Dịch Quỷ dạy cho Tư Đồ Sảng công phu Bích Hổ Du Tường và những mánh khóe trong nghề đạo thích. Dù không muốn chàng vẫn phải học để lão vui lòng.
Giữa tháng mười một, khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống thì Tư Đồ Sảng đã rời xa Lạc Dương được vài dặm. Chàng bỗng nẩy ra ý nghĩ đến thăm Tổng đàn võ lâm để biết mặt chú ruột. Cha chàng đừng kể rằng hai người khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ Tư Đồ Xán mang chiếc mũi ưng gồ cong xấu xí.
Hơn nữa, cách thành danh dễ dàng, mau lẹ nhất là giật những giải thưởng mà võ lâm treo giá thủ cấp những tên cùng hung cực ác.
Tuy Minh chủ có dưới trướng hai trăm thủ hạ thân tín và còn có quyền huy động cao thủ các phái song cũng không thể nào tiêu diệt được hết bọn ác nhân trong thiên hạ. Chúng chẳng dại gì ở yên một chỗ chờ Minh chủ đến hỏi tội.
Bởi thế cho nên một phần ngân sách của võ lâm được dùng đế khuyến khích các bậc hiệp sĩ ra sức trừ gian diệt bạo. Chỉ cần họ mang được thủ cấp và vũ khí của kẻ bị truy nã về đến núi Hương Sơn là có ngay số tiền thưởng. Tùy theo võ nghệ của tên ác ôn mà giải thưởng cao hay thấp.
Từ đó mà trên giang hồ sinh ra một nghề lạ lùng, nghề săn người. Nghề này lạ ở chỗ là những kẻ chuyên nghiệp không bao giờ vỗ ngực xưng. Họ âm thầm theo dõi, hạ thủ con mồi rồi lặng lẽ đem về lãnh thưởng. Tư Đồ Sảng không muốn trở thành kẻ săn người chuyên nghiệp mà chỉ muốn dương danh để dẫn dụ kẻ thù.
Tây Môn Giới đã chọn cho chàng một cái biệt hiệu rất kêu để lòe thiên hạ: “Thần Phủ Lang Quân”.
Tư Đồ Sảng là người trung hậu nên rất ngượng miệng khi phải tự xưng, tự phong.
Tích Dịch Quỷ bèn an ủi chàng rằng người võ sĩ nào cũng phải làm như thế, tuy không được khiêm tốn xong lại tránh được cảnh bị đặt cho những danh hiệu oái oăm như: “Miêu Quyền”, “Phục Cẩu Thần Kiếm”, “Kê Chuỷ Lang Quân”... lúc ấy thì dở khóc dở cười, nạn thận không còn chút hùng tâm tráng chí nào nữa cả.
Xế trưa, Tư Đồ Sảng đi ngang cánh rừng đào, cách sông Y Thủy ba bốn dặm. Con đường này tương đối vắng vẻ vì gần đến núi Hương Sơn, nơi là Phật Động chỉ có ở phần sườn núi dọc bờ sông, phần còn lại không có quái gì, ngoài Tổng đàn võ lâm. Thông thường, du khách lên núi Long Môn sau đó dùng thuyến đi dọc sông Y Thủy để tham quan.
Đường vắng thì rừng cũng vắng và vì thế mà xảy ra huyết án, một việc không thể ngờ được bởi rừng đào rất gần thánh địa võ lâm.
Thực ra thi bọn ác ôn kia hành sự rất kín đáo, tít sâu trong rừng chẳng hề lộ liễu. Xui cho chúng là nhĩ lực của Tư Đồ Sảng rất thính nhậy, nghe được tiếng sắt thép va chạm và tiếng rú thất thanh, lảnh lót của nữ nhân.
Tư Đồ Sảng rung động tâm hồn, tưởng như mẹ hiền đang kêu cứu. Chàng dừng phắt lại nghe ngóng rối rẽ ngựa vào lối mòn xuyên rừng. Tán đào không cao nên cản trở người kỵ sĩ. Tư Đồ Sảng liền bỏ ngựa khoác bọc hành lý phi thân đi tiếp. Thanh Giáng Ma Thần Phủ lúc nào cũng nằm gọn ở hông được áo choàng lông che kín.
Đấu trường chỉ cách bìa rừng hơn dặm. Đấy là một tòa đạo am nhỏ nhưng thanh nhã, trước cứa am là sân cỏ rộng rãi, bằng phẳng. Nhưng giờ đây cỏ xanh lấm tấm phủ tuyết và bị dầy xéo bởi những bàn chân thô bạo. Có tám gã áo xanh bịt mặt, sử dụng loan đạo đang vây chặt hai nữ nhân tóc dài buông xõa.
Hai nữ lang này có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chập chờn tựa bóng u linh. Trường kiếm trên tay họ lợi hại phi thường, đánh ra toàn những đòn hiểm ác, nhờ vậy mà họ vẫn còn đứng vững trước sự vây đánh của tám cao thủ. Tuy nhiên, hai nàng đã bị thương, thỉnh thoảng rú lên vì đau đớn và giận dữ.
Tư Đồ Sảng tuy nhân hậu song lại là người cương liệt, ghét ác như kẻ thù. Cái chết thê thảm của song thân đã khiến chàng càng bội phần nóng nẩy. Nay chứng kiến cảnh ỷ chúng hiếp cô, lửa giận bốc lên tâm trí chàng trai trẻ. Tư Đồ Sảng rút Giáng Ma Phủ, bấm nút cơ quan cho mũi thép ló ra và kéo dài cán búa. 
Rồi chàng lướt đến tấn công bọn thanh y. Có hai tên lập tức quay lại chống cự với màn nhấc quang dày đặc đang ào ào ập đến.
Lần đầu xuất thủ, Tư Đổ Sảng không lượng được sức mình, chỉ sợ không đủ, nên đã dồn toàn lực vào Chiêu “Thần Phủ Khai Lâm”. Thần lực kinh hồn của chàng đã làm cho lưỡi búa thép nặng hai chục cân bay với tốc độ của trường kiếm nên đòn đánh nặng tựa ngàn cân. Hai lưỡi đao bị đánh bạt và mũi thép nhọn ở đầu Thiv>Tư Đồ Sảng đã trao báu vật cho nghĩa phụ sử dụng để tăng cường sức khỏe của ông! Võ công Tây Môn Giới không cao nên có thể bị lão hóa theo qui luật tự nhiên. Nhờ Hắc Ngọc mà mắt ông bớt mờ, tai nghe rõ hơn và phủ tạng cũng hoạt động tốt! Không chỉ mình Tây Môn Giới mà cả Trại Tôn Tử cũng được hưởng lợi ích này!
Nay, nếu Tư Đồ Sảng dung hoà Hắc ngọc thành công lực thì chỉ mình chàng đắc lợi còn người thân thì thiệt thòi. Do vậy, Tư Đồ Sảng quyết giữ lại để những người chàng yêu thương được khỏe mạnh và sống lâu.
Tư Đồ Sảng cố tỏ vẻ lạc quan, vui vẻ đáp:
- Nghĩa phụ yên tâm! Với hỏa hầu hiện tại hài nhi cũng đủ sức chống lại độc châm, bằng chứng là trận chạm trán cao thủ Song Tuyệt Môn hôm trước! Hơn nữa, diệu dụng báo trước nguy cơ của Hắc ngọc còn quí giá hơn mấy chục năm công lực!
Chàng lập luận rất hữu lý vì dẫu cho hỏa hầu có cao đến mức nào thì Khô Mộc Thần Công cũng chỉ phát huy tác dụng khi người võ sĩ vận khí! Nhưng không lẽ cả ngày chàng cứ phải làm việc ấy? Cho nên, khả năng cảm nhận được nguy hiểm là một lợi thế phi thường!
Tuy nhiên, cái đầu sắc xảo của Tây Môn Giới đã không bị lừa. Ông cảm động nói:
- Chứ không phải là ngươi sợ lão phu chết sớm đấy sao? Thôi được, xét ra, Sảng nhi cũng có lý!
Hồ Sĩ Tuệ cười khà khà:
- Tây Môn lão đệ phúc phận sâu dầy nên cuối đời có được đại hiếu tử! Lão phu làm bạn ông mà được hưởng lộc không còn sợ phải chết trong cảnh bệnh hoạn lây lất. Gần đây, lão phu nghe trong người thư thái, khỏe mạnh, tựa như trẻ lại mười tuổi vậy!
Tây Môn Giới mỉm cười đắc ý, lòng vô cùng cao hứng. Ông dịu giọng hỏi nghĩa tử:
- A! Dường như Sảng nhi có việc gì muốn bày tỏ nên mới đến đây sớm như vậy?
Tư Đồ Sảng gật đầu, điềm đạm thuật lại giấc mơ! Nghe xong, Trại Tôn Tử lập tức bấm tay dùng phép bói Lục nhâm mà tính toán cát hung!
Lục Nhâm là một loại Chiêm bốc thuộc loại Ngũ Hành, dựa vào sự khác nhau của Can Chi Ngũ Hành và số giờ mà chia “khóa”rồi căn cứ vào khóa nghĩa mà suy đoán lành dữ. Hai phép bói Thái ất, Tuần Giáp cũng tương tự như Lục nhâm!
Môn Lục nhâm rất cao siêu, vi diệu, chẳng cần phải gieo quẻ, chỉ dựa vào thời khắc hiện tượng xảy ra mà phán đoán tương lai! Thuở xưa Khổng Minh Gia Cát Lượng nhờ phép Lục nhâm mà nắm cả thiên cơ trong lòng bàn tay!
Còn hiện nay, Trại Tôn Tử là Tổ sư trong nghề bói Lục nhâm. Ông cau mày bảo:
- Giờ Giáp Ngọ tháng hai năm nay thuộc khoá Kê Minh, Giáp Ngọ xuất hành là điềm rồng xanh ở phía Tây. Đức tại Thổ, Hình tại Kim, báo hiệu nguy cơ trùng điệp. May thay, Sảng nhi lại đúng tuổi Giáp Ngọ nên tiền hung hậu cát.
Tây Môn Giới gật gù:
- Tiền hung hậu cát là tốt rồi! Nhưng dẫu sao thì chuẩn bị càng chu đáo sinh cơ càng nhiều! Hai người hãy theo lão phu xuống mật thất!
Ông rời bàn, đi vào phòng ngủ ở phía sau bức vách, ấn nút bí mật nào đó trên thành giường! Chín viên gạch bằng đá Đại Lý trước giường ngủ lập tức sụp xuống, để lộ cửa vào mật thất!
Hầm ngầm này vuông vức mỗi bề hai trượng, được soi sáng bằng tám ngọn đèn tọa đăng đế đồng trên vách. Tư Đồ Sảng lần đầu xuống đây, ngơ ngẩn trước bức tượng giống hệt mình. Và trong tay hữu của pho tượng là thanh Giáng Ma Phủ.
Tây Môn Giới bùi ngùi nói:
- Sau khi Sảng nhi bị Thanh Y nhân đánh rơi xuống vực thẳm Đại Hồ Sơn lão phu đã chế tác pho tượng này để nhớ đến nghĩa tử. Phía trong bộ võ phục viền lam kia là một chiếc áo chẽn bằng da bò Tây Tạng. Còn thanh Giáng Ma Phủ chính là thần vật mà lão phu đã tráo đổi của Thiện Đề đại sư! Cây búa mà Thiện Đề đang sử dụng chỉ là vật giả!
Tư Đồ Sảng cảm động đến rớt nước mắt trước lòng yêu thương vô bờ bến của nghĩa phụ!
Tây Môn Giới bước đến gỡ Giáng Ma Phủ ra khỏi bàn tay của pho tượng, trao cho Tư Đồ Sảng. Ông nghiêm nghị bảo:
- Sảng nhi! Con hãy hóa trang để đến núi Tần Lĩnh, may ra thoát được vài chặng mai phục của Hồ Ly Đế Quân! Ngươi mà có mệnh hệ gì thì chắc lão phu không sống nổi!
o0o
Trưa ngày hai mươi tháng hai, Tư Đồ Sảng bí mật rời cơ sở tạm thời của Tổng đàn võ lâm bằng cách vượt tường sau. Ngựa và hành lý đã được Tây Môn Tứ đưa ra ngoài cửa Tây thành từ trước. Chàng ra roi phi nước đại, những mong đến Đại Ba Sơn càng sớm càng tốt.
Đại Ba Sơn là ngọn núi cao nhất rặng Tần Lĩnh, khoảng một ngàn hai trăm bốn mươi bốn trượng (4.107m). Đấy là tính theo thước đo thời nhà Minh, còn như dùng thước thời nhà Thương thì số lượng sẽ gấp đôi. Đời Thương một thước chưa đến gang tay (16,95cm) nên so ra chiều cao cơ thể con người ước chừng khoảng trên dưới một trượng, bởi thế mà có từ “Trượng phu”. Sau này, chiều dài của trượng tăng dần song người ta vẫn dùng chữ trượng phu để chỉ một đấng nam nhi!
Nhưng giờ đây Tư Đồ Sảng chưa có mặt ở Đại Ba Sơn. Sáu ngày sau chàng mới đến Thiểm Huyện. Tuy mang tên Thiểm song địa phương này lại thuộc Hà Nam, cách ranh giới Thiểm Tây đến hơn trăm dặm. Thiểm Huyện nằm sát bờ sông Hoàng Hà và trên quan đạo chính Đông Tây.
Tư Đồ Sảng qua đêm trong thành, mờ sáng đã khởi hành. Cách cửa Tây hơn chục dặm, hai bên đường là rừng dã lê um tùm, cành nặng trĩu những quả vàng óng. Bìa rừng mé hữu có một quán rượu vách gỗ, mái ngói, phía trước quán cắm sào cao, trên phất phới lá tửu kỳ, và dựng một tấm bảng gỗ dán giấy vàng, viết nguệch ngoạc hai chữ “điểm tâm!”
Lúc này, vầng dương đã rạng rỡ đằng đông, Tư Đồ Sảng chưa ăn sáng nên ghé vào. Chàng không ngờ mình là người khách đầu tiên, ngoài ra chẳng còn ai khác. Tiểu nhị là một hán tử tuổi tứ tuần phốp pháp: Gã nhìn chàng rồi gượng cười mời mọc:
- Bẩm đại gia! Bổn quán có cả cơm lẫn bánh hấpằng đã tìm được hai trợ thủ đắc lực võ nghệ cao cường. Tuy nhiên, chàng vẫn rầu thúi ruột khi nghĩ đến cảnh mình được hộ tống bởi hai nữ nhân cổ quái. Với chàng thì họ không xấu nhưng tất nhiên là khác thường.
Tư Đồ Sảng rú lên gọi tuấn mã. Lát sau, con vật thông linh tìm đến cọ chiếc mõm ướt vào ngực chàng mà hí lên nhè nhẹ. Nó có tên là Bạch nhi, món quà mà cha chàng đã tặng khi chàng tròn mười lăm tuổi. Năm năm gần gần gũi đủ để khiến cho người với vật hiểu ý nhau và rất thân thiết.
Cơn giận trôi qua, lòng nhân trỗi dậy, Tư Đồ Sảng bùi ngùi nhìn tám cái xác áo xanh. Kiếp giang hố quả là phi lý khi người ta chém giết nhau, dù chẳng hận thù. Họ với chàng hoàn toàn xa lạ và có lẽ rằng những kẻ đã vây đánh cha mẹ chàng cũng chỉ làm theo mệnh lệnh mà thôi.
Tư Đố Sảng thở dài thườn thượt, bước đến bên rào trúc mé hữu nhặt cây mai đào đất. Chàng quyết định chôn cất tám nạn nhân xấu số kia.
Tư Đồ Sảng hì hục kéo lê những xác chết vào rừng đào bên trái đạo am rồi chuẩn bị đào lỗ: Nhưng Lăng Phi Tuyết đã như cơn gió ập đến, cười toe toét:
- Công tử bất tất phải nhọc công! Tiểu tỳ đã có cách phi tang rất hữu hiệu.
Nói xong ả mở nút trái bầu khô, trút phấn trắng bên trong vào từng xác chết. Tư Đồ Sảng nghe lông tóc dựng ngược khi nhìn thấy khói bốc nghi ngút và xương thịt bọn Thanh y tan thành nước vàng. Chàng biết đây là loại bột Hủ Thi Tán mà giới độc môn vẫn thường sử dụng.
Xong việc, Lăng Phi Tuyết hớn hở kéo tay chủ nhân:
- Mời cồng tử vào tắm rửa rồi dùng bữa trưa. Gia muội nấu nướng sắp xong rồi.
Hàm răng răng như ngọc của Phi Tuyết nhờ một chiếc khểnh mà mà nụ cười thêm duyên dáng. Đấy cũng là điểm để Tư Đồ Sảng nhận ra nàng. Răng của Phi Hồng đều như bắp.
Tư Đồ Sảng vừa ngượng ngập gật đầu thì Phi Tuyết đã lướt đi trước để chuẩn bị bồn tắm.
Chàng bật cười lẩm bẩm:
- Lạ thực? Sao hai ả này lúc nào cũng nhẩy nhót như nai, không đi chậm bao giờ cả?
Phía sau đạo am có giếng nước và nhà tắm riêng. Gần đấy chính là nhà bếp có Lăng Phi Hống đang tất bật nấu nướng. Phi Tuyết mở cửa nhà tắm lôi xệch Tư Đồ Sảng vào trong và nhanh tay cởi giải thắt lưng của chàng.
Tư Đỗ Sảng ngượng chín người, ấp úng nói:
- Ta đã lớn có thể tự tắm được! Cô nương ra ngoài đi! _
Phi Tuyết cười khanh khách:
- Bổn phận của nô tỳ là hầu hạ chủ nhân, xin công tử chớ ngại!
Tư Đỗ Sảng cười buồn:
- Ta là con nhà tiều phu, không quen để người khác hầu hạ!
Lăng Phi Tuyết sững người, mắt chớp nhanh rồi thỏ thẻ:
- Tướng mạo của chàng trân quý như rồng phượng, tuy xuất thân thanh bạch nhưng sau này vinh hiển tột bậc. Vả lại, bậc quân tử tuỳ ngộ nhi an, sao lại vì chút tiểu tiết mà khiến cho nô tỳ lỗi đạo?
Tư Đồ Sảng giật mình, không ngờ cô ả này lại đầy bụng kinh luân, nói năng như bậc nho gia lão thành. Chàng cười mát:
- Nàng nói hay lắm nhưng sao không nghĩ câu nam nữ hữu biệt, đưa ta vào cảnh thất lễ?
Phi Tuyết thản nhiên cười khì:
- Chẳng lẽ nô tỳ xấu như quỷ thế này mà cũng có thể khiến cho công tử nổi tà tâm, đưa đến thất lễ được sao?
Tư Đổ Sảng cứng họng vì đuối lý, nhưng không hề giận. Chàng vốn là một đứa trẻ bị ép buộc phải trưởng thành vì cái chết của song thân. Cách đây không lâu chàng vẫn còn lẩn quẩn bên váy mẹ, chỉ ngủ ngon khi nghe tiếng mẹ ru. Mẫu thân chàng thương con bằng tấm lòng như trời biển, cùng con nô đùa chẳng kể gì tuổi tác. Do vậy, dù cô độc nơi cánh rừng hoang vắng mà tuổi thơ của Tư Đồ Sảng luôn đầy ắp tiếng cười và những trò tinh nghịch.
Giờ đây, gặp phải cô ả ranh mãnh, Tư Đồ Sảng chẳng chịu thua, tìm cách phản đòn. Chàng nhếch mép cười đầy ẩn ý rồi để mặc cho Phi Tuyết hành động.
Lát sau, thân hình cường tráng đầy nam tính của chàng hiện ra khiến ngón tay Phi Tuyết run rẩy và ánh mắt nàng lộ vẻ ngượng ngùng. Những mảnh da trắng trên gương mặt nàng cũng đỏ rực lên.
Tư Đồ Sảng hiểu ngay cô ả này chỉ giỏi nghề chọc ghẹo chứ bản chất thì nhút nhát. Chàng khoái chí trầm giọng ra lệnh:
- Phiền nàng kỳ cọ cho ta vậy!
Rỗi chàng bước vào bồn gỗ đầy nước nóng và nhìn nàng với vẻ chờ đợi.
Phi Tuyết lỡ phóng lao phải theo lao, lóng ngóng dùng khăn vải thô cọ lưng và vai chủ nhân. Tư Đỗ Sảng bỗng khịt mũi chê bai:
- Nàng hôi quá! Sao không vào tắm chung với ta cho vui.
Phi Tuyết choáng váng, chưa kịp phản ứng gì thì đã bị Tư Đồ Sảng vươn tay nhấc bổng đặt vào bồn gỗ. Rồi chàng giả vờ cởi áo đối phương, Phi Tuyết hồn vía lên mây, lắp bắp van lạy:
- Xin công tử đừng làm thế!
Tư Đố Sảng phì cười:
- Té ra nàng chi là cọng giấy!
Phi Tuyết hồ thẹn đấm thùm thụp vào lồng ngực vạm vỡ của chàng. Nàng phụng phịu đứng lên rời bồn tắm, bỏ chạy ra ngoài.
O0o
Sau bữa cơm trưa, cơm tối thì hai ả họ Lăng đã hiểu rõ gia thế và mối huyết thù của Tư Đồ Sảng. Họ khẳng khái đòi đi theo để giúp chàng dương danh thiên hạ cũng như báo hận.
Tư Đồ Sảng băn khoăn bảo:
- Ta định gửi hai nàng về Lạc Dương nương tựa Lý thúc công, cũng là để nhang khói cho cha mẹ ta. Chốn giang hồ sắt máu này vốn chẳng phải là chỗ của nữ nhi.
Lăng phi Hồng cười ngất:
- Công tử sai rồi. Chính một kẻ không chút kinh nghiệm giang hồ như chàng mới không nên dấn bước. Còn chị em bọn nô tỳ là kẻ lão luyện, xảo quyệt, sẽ giúp chàng đạt được mục tiêu.
Tư Đồ Sảng đỏ mặt công nhận nàng nói đúng. Chàng chỉ là một chú cừu non giữa thảo nguyên đầy lang sói.
Lăng phi Tuyết ỏn ẻn phân trần:
- Bọn nô tỳ tuy võ nghệ không bằng công tử nhưng thủ đoạn có thừa để đối phó với tà ma. Nô tỳ giỏi nghề thuốc, thiện dụng độc, còn nhị muội thì đa mưu túc trí, tinh thông thuật kỳ môn trận thế. Bấy nhiêu tài mọn sẽ giúp ích được công tử.
Phi giồng chúm chím cười và nói thêm vào:
- Nô tỳ còn có tài nấu ăn thượng hạng, biết hàng ngàn món ăn lạ trong thiên hạ.
Tuy dung mạo xấu xí nhưng giọng nói của hai ả họ Lăng rất thanh tao, trong trẻo và ngọt lịm, gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến từ mẫu. Chàng bồi hồi xúc động, nhìn họ trìu mến và nói:
- Nhị vị đã có lòng như thế, Sảng tôi xin cung kính tuân mệnh. Từ nay sinh tử có nhau.
Sáng hôm sau, trong đại sảnh của Tổng đàn võ lâm xuất hiện một bộ ba vô cùng cổ quái. Nam thì anh tuấn, oai phong, xứng danh là Thần Phủ Lang Quân, còn hai nữ tỳ thì xấu cỡ Chung Vô Diệm.
Tuy chưa biết bản lãnh Thần Phủ Lang Quân Lý Thu cao cường đến đâu nhưng mấy chục hào kiệt đều phải e dè trước thân pháp nhanh như điện của hai ả lọ lem. Cứ như con nít lên năm, hai ả chạy lung tung, miệng cười toe toét. Có người cho rằng hai ả bị điên.
Lúc đầu, mọi người cảm thấy bực bội nhưng khi Lý Thu ra lệnh cho bọn tỳ nữ ngồi im thi quần hào lại thấy tiêng tiếc, thực ra thân hình thon thả nõn nà của hai con bé kia quả là đáng để ngắm nhìn. Ngoài trời tuyết rơi song trong sảnh có lò sưởi nên hai nàng đã cởi áo cừu để lộ bộ võ phục lụa vàng được cắt khéo, tôn vinh những đường cong cơ thể.
Nghe gọi, Phi Tuyết và Phi Hồng lướt đến ngồi hai bên chủ nhân, trố mắt nhìn viên quản sự của tổng đàn.
Lý Thu là cao thủ mới xuất hiện nên Hồ quản sự đích thân đón tiếp. Hồ lão tài trí tuyệt luân, nổi danh thiên hạ với mỹ hiệu Trại Tôn Tử.
Tuy danh nghĩa chỉ là quản sự nhưng Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ chính thực vị quân sư của võ lâm. Trải qua ba đời Minh chủ, Hồ lão vẫn chưa được nghỉ ngơi dù tuổi đã bảy mươi hai. Tư Đồ Xán đã khẩn khoản mời Trại Tôn Tử ở lại Tổng đàn giúp mình.
Tóm lại, Hồ quản sự đã giải quyết toàn bộ những cuộc tranh chấp trên giang hồ, thông qua miệng của minh chủ. Ông mớm ý cho những bậc anh hùng tứ chi phát triển, đầu óc còn non.
Hôm nay, Trại Tôn Tử vô cùng thích thú trước chàng trai họ Lý. Bằng vào tài trí siêu việt của mình ông đã phát hiện ra đóa kỳ hoa của võ lâm. Hồ lão tò mò gạn hỏi nhưng Lý Thu chỉ phúc đáp rất hạn chế.
Lăng Phi Hồng đã bịa ra một thiên cố sự đơn giản và rất đáng tin cậy. Tư Đỗ Sảng đã trình bày với Hồ lão như sau:
- Bẩm Hồ lão tiền bối! Vãn sinh học nghệ trên núi Đại Thê Sởn từ nhỏ, bốn tháng trước về thăm nhà thì mới biết song thân bị cường đạo thảm sát. Các bộ đầu ở Hán Trung cho biết rằng đấy có thể là hành vi của Quý Ảnh Hội vì thế, vãn sinh đến đây xin được chỉ giáo đôi điều để có thế tìm ra kẻ thù.
Lúc nói, chàng tưởng nhớ đến tử trạng của cha mẹ nên lòng đau như xé, nước mắt ứa ra, tạo niềm tin cho Trại Tôn Tử. Thế là Hồ Sĩ Tuệ vô cùng cảm động, bảo chàng rằng:
- Lão phu đã âm thầm huy động nhân lực điều tra suốt mười mấy năm nên dã tìm ra chút manh mối. Nhưng lão phu phải được sự đồng ý của Minh Chủ thì mới có thề tiết lộ cho Lý công tử biết. Vì vậy, cuối giờ Thìn sáng mai, công tử hãy quay lại đây để nghe phúc đáp.
Tư Đồ Sảng hoan hỉ vái dài, rời Hương Sơn quay về tòa đạo am trong rừng đào. Lăng Phi Hồng là đầu bếp lão luyện, chỉ cần hai khắc đã nấu xong bữa trưa, gồm ba món. Tư Đồ Sảng thầm khen ả nấu vừa miệng mình ăn. Chàng chợt thắc mắc:
- Hồng muội! Làm thế nào mà ngươi vừa học võ vừa học được nghề bếp núc?
Tư Đồ Sảng giống mẹ nên giọng nói ấm áp ngọt ngào và rất truyền cảm. Dù chàng nói năng tự nhiên, không hề kiểu cách song từng câu như mật rót vào tai người nghe. Trái tim nữ nhân lại dễ bị rung động trước âm thanh hơn là thị giác nên họ luôn say đắm những chàng trai ăn nói có duyên. Nghĩa là tuy Tư Đồ Sảng không cố ý tán tỉnh mà hai ả họ Lăng vẫn tái tê khi nghe gọi đến tên mình.
Phi Hồng nhũn cả người nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở. Hàm răng trắng đều và đôi môi đỏ mọng đã làm rạng rỡ gương mặt quái dị của nàng:
- Bẩm công tử! Gia sư là Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, nổi tiếng giang hồ về hai nghề nấu bếp và binh pháp. Bởi vậy nô tỳ học được cả hai tuyệt học dù chỉ có một thầy.
Mắt Tư Đồ Sảng lóe lên những tia nghi hoặc. Chàng quay sang hỏi Phi Tuyết:
- Còn Tuyết muội học nghệ của ai?
Phi Tuyết sung sướng đáp ngay:
- Bẩm công tử! Gia sư chính là Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa.
Tư Đồ Sảng thoáng giật mình cau mày nói:
- Phải chăng hai ngươi xuất thân từ Hạo Thiên Cung?
Hai ả họ Lãng run bắn, kinh ngạc đến tròn mắt, không ngờ chàng trai ngốc nghếch, thiếu kinh nghiệm này lại đoán ra lai lịch bí mật của mình.
Tư Đồ Sảng thấy vậy thì hiểu ngay rằng hôm qua đối phương đã nói dối khi kể là họ xuất thân từ một nhà đại phú đất Tứ Xuyên. Chàng là người cương trực và chất phác, không quen với việ ủy khúc, nên có cảm giác bị xúc phạm. Chàng cười nhạt bảo:
- Đã không thực lòng với nhau thì bất tất phái đồng hành. Tại hạ xin cáo từ!
Hai ả hồn phi phách tán chồm đến níu chặt tay chàng, mếu máo van xin. Phi Hồng khóc nói:
- Chị em bọn nô tỳ quả đúng là tỳ nữ trong Hạo Thiên Cung, phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc, sợ chết nên trốn ra ngoài. Nếu công tử không thương tình thu nạp thì hai kẻ xấu xí đáng thương này biết nương tựa vào ai?  Hay là công tử giết quách bọn nô tài cho xong. Hai ả đồng thanh khóc rống lên thảm thiết khiến Tư Đồ Sảng mềm lòng,khoái kiếm đến độ chót, chỉ vài thế thức đã đắc thủ, khiến thây người liên tiếp đổ xuống. Chàng hạ một hơi mười sáu kẻ địch, phá thủng vòng vây, chạy về hướng Đông!
Tuấn mã của Tư Đồ Sảng cũng cất vó phóng theo, nhờ không người cởi nên cước lực nhanh như gió! Con ngựa này có tên là Hồng nhi, lông hung đỏ, dáng vóc bình thường và chẳng mang đặc điểm gì khác lạ. Nghĩa là người cỡi không sợ vì nó mà bị nhận dạng!
Hồng nhi giống hệt như chủ cũ của nó là Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới! Ông có thể hòa lẫn trong đám đông, thật tầm thường và khó nhận biết!
Tuy thế, Hồng nhi rất thông minh, luôn bám sát chủ nhân. Khi Tư Đồ Sảng chiến đấu, nó lảng vảng phía ngoài đấu trường mà chờ đợi chứ không vì sợ hãi những âm thanh ồn ào của trận chiến mà bỏ chạy!
Hồng nhi quen với Thiếu chủ từ lúc Tư Đồ Sảng còn ở Thúy Phong Cốc nên giờ đây ngoan ngoãn phục vụ chàng!
Nhắc lại, phe địch thấy con mồi thoát bẫy liền cuống cuồng bảo nhau lấy ngựa đuổi theo. Đương nhiên tốc độ của lũ ngựa này không cao vì phải cõng thêm người trên lưng. Trong khi ấy, Hồng nhi được thảnh thơi, cùng chủ đua tài nên phi nhanh như gió, trong chốc lát đã bỏ xa truy binh vài dặm. Lúc này Tư Đồ Sảng mới nhẩy lên yên, tiếp tục bôn hành.
Chiều ngày mười chín tháng hai, Tư Đồ Sảng đến ải Hàm Cốc, một trong hai cửa ngõ chính dẫn vào đất Tần thời Chiến Quốc, tức Thiểm Tây!
Địa hình nước Trung Hoa rất nhiều núi non hiểm trở. Các dãy núi lớn ở phía Tây thường chạy theo hướng Bắc Nam. Ngoài một chút là những rặng núi nhỏ, thấp hơn, nằm theo hướng từ Tây sang Đông. Những sơn lộ này chia Trung Hoa thành nhiều miền cách biệt, chỉ thông với nhau bằng những con đèo! Ví dụ như Hà Nam và Thiểm Tây chỉ có thể qua lại bằng hai lối duy nhất là đèo Hàm Cốc và đèo Vũ Quan!
Thuở xưa, nước Tần đã xây dựng quan ải kiên cố trên hai cửa ngõ này! Khi đất nước đã thống nhất thì cánh cửa ải không còn, và hàng hóa, ngựa xe tấp nập qua lại ải Hàm Cốc!
Thiểm Tây nằm trên cao nguyên Hoàng Thổ nên địa hình cao hơn Hà Nam. Nghĩa là đoạn đường đèo hướng Đông khá dài và ải Hàm Cấc nằm ở đỉnh.
Địa thế Hàm Cốc hiểm tuấn phi thường, xứng với câu “Nhất phu đương quan vạn nhân nan quá.” Đường đèo có độ dốc khá lớn, hai bên là vách đá sừng sững, nên những đạo quân từ hương Đông tiến vào sẽ chẳng khác gì bầy gia súc bị lùa đến lò sát sinh!
Ải Hàm Cốc được xây dựng vô cùng kiên cố, nối liền hai vách đá chắn ngang đường đèo. Bức tường của quan ải dầy bốn năm trượng nên mặt bằng nóc ải rất rộng, có thể bố trí hàng ngàn quân cung nỏ!
Cửa ải hình vòm, cao và rộng rãi, đủ cho vài cỗ xe sánh vai qua lọt. Hiện tại thì cánh cổng quan ải đã không còn và cũng chẳng có quân binh canh gác. Đã mất vai trò ải địa đầu trọng yếu nên công trình đồ sộ ấy trớ thành hoang phế, tiêu điều, loang lổ rong rêu song vẫn hiên ngang thi gan cùng tuế nguyệt.
Chiều nay, đường đèo vắng tanh, chỉ có một người kỵ sĩ áo lông cừu đen lẻ loi. Tư Đồ Sảng đã lên được quá nửa con dốc, say mê ngắm dáng vóc lừng lẫy một thời. Vầng dương buổi hoàng hôn ở cuối trời tây đã rải nắng khắp rìa phố Tích khiến nó nổi bật trên nền trời xanh, có những đám mây trắng nhuốm hồng!
Nhưng khi còn cách cửa ải vài chục trượng, Tư Đồ Sảng chợt cảm thấy cảnh vật kia dường như thiếu vắng một nét nào đó? Chàng đã vài lần qua đây, từng nhìn thấy bầy quạ.đen bay lượn và quang quác trên nóc ải. Chúng đã chọn Tòa Địch lâu tróc ngói để làm tổ ấm. Và buổi chiều chính là lúc lũ chim ồn ào ấy quay về tổ.
Tư Đồ Sảng chột dạ cho ngựa bước chậm, chú tâm quan sát. Quả nhiên, lát sau, có một cánh quạ bay đến nhưng không đáp xuống mái Địch Lâu mà vội vã bay đi ngay!
Tư Đồ Sảng thở dài, hiểu rằng kẻ thù đã chọn địa thế hiểm ác của ải Hàm Cốc để mai phục. Trên nóc và phía sau quan ải chắc là có rất nhiều người đang chờ đợi chàng! Và cái bẫy này sẽ phải đáng sợ hơn chặng mai phục lần trước ở gần Thiểm Huyện!
Nhưng chàng bắt buộc phải vượt ải Hàm Cốc vì không còn thời gian để quay lại, xuống phía Nam để đi đường ải Đồng Quan, tức Vũ Quan nhưng mà trễ kỳ hạn thì sẽ mãi mãi không được nhìn thấy Bạch Phụng!
Tư Đồ Sảng không hiểu tại sao Hạo Thiên Cưng và Song Tuyệt Môn luôn phát hiện ra chàng và tìm được thời cơ thích hợp mà giăng bẫy? Phải chăng chính Hồ Ly Đế Quân đã mượn tay họ mà ngăn trở cuộc hành trình của chàng?
Tư Đồ Sảng là người can trường, bất khuất nhưng không phải hạng “Hữu dũng vô mưu!” Chàng suy nghĩ một lúc, cân nhắc thiệt hơn, rồi quyết định vượt ải lúc màn đêm bao phủ! Khi ấy, chàng sẽ chiếm được ưu thế nhờ nhãn lực phi thường! Ưu thế càng lớn thì sinh cơ càng nhiều!
Nghĩ vậy nên Tư Đồ Sảng quay ngựa đi ngược xuống chân đèo hướng Đông? Hành động này sẽ khiến đối phương hoang mang, không hiểu chủ ý của chàng. Có thể chúng sẽ đoán rằng Tư Đồ Sảng chờ đến sáng, hòa cùng đoàn lử hành đông đảo mà qua ải!
Chân đèo phía Đông có một trấn nhỏ, tập trung nhiều khách điếm, tửu quán và nhà thổ, để phục vụ những lữ khách, thương lái lỡ độ đường, đến đâu khi trời vừa tối nên chồng dám qua đèo!
Tư Đồ Sảng xuống đến trấn sơn cước ấy thì cảnh vật đã nhá nhem. Chàng ghé vào Thái Hòa lữ điếm mướn phòng trọ, khi bị gã tiểu nhị lực lưỡng níu kéo, mời mọc. Nhìn gâ, Tư Đồ Sảng bỗng nảy ra một ý hay!
Khoảng gần đến canh một, chàng gọi gã tiểu nhị họ Trần ấy vào phòng và nghiêm nghị bảo:
- Này Tiểu huynh đệ! Ngươi có muốn kiếm trăm lượng bạc hay không?
Và chàng đặt hai đĩnh bạc năm mươi lượng lên bàn khiến đôi mắt của Trần Khoát sáng rực lên. Gã nuốt nước miếng đáp:
- Bẩm lão gia! Chẳng hay người muốn tiểu nhân làm việc gì?
Tư Đồ Sảng từ tốn đáp:
- Lão phu có việc gấp phải đi Trường An song lại bị kẻ thù chặn ở cửa ải Hàm Cốc! Lão phu muốn nhờ ngươi thi hành kế nghi binh để lão phu có cơ hội vượt ải!
Trần Khoát nghe nói đến ân oán giang hồ liền tỏ ý lo ngại:
- Bẩm lão gia! Nghì binh như thế nào và liệu có nguy hiểm hay không?
Tư Đồ Sảng mỉm cười trấn an:
- Chẳng có gì đáng lo cả! Lão phu sê khởi hành trước và đúng một khắc sau ngươi sẽ cỡi con ngựa của lão phu và lên đèo. Và khi còn cách cửa ải năm sáu chục trượng thì ngươi quay ngựa trở về. Chỉ có vậy thôi! Tất nhiên, sau đó ngươi phải chăm sóc Tuấn mã mà chờ lão phu đến lấy lại!
Trần Khoát suy nghĩ rất kỹ lưỡng, tự nhủ rằng việc này quá ngon ăn, chẳng có chi đáng lo ngại cả! Hơn nữa, với trăm lượng bạc kia gã có thể cưới vợ và dư vốn để thoát khỏi cảnh tôi đòi trở thành một chủ quán trọ nho nhỏ.
Trần Khoát thò tay chụp lấy hai đỉnh bạc và cười hì hì:
- Tiểu nhân xin liều mạng phục vụ lão gia!
Tư Đồ Sảng dặn dò họ Trần thêm vài câu rồi vượt tường sau của lữ điếm. Trăng mười chín còn khuất sau đỉnh núi Hàm Sơn nên đường đèo rất tối tăm. chàng hài lòng hiểu rằng phe đối phương sẽ không thể nào phát hiện ra mình!
Tư Đồ Sảng ngậm Hắc Ngọc vào miệng, bước đi như gió thoảng vì cảnh vật trước mắt đã trở nên rất rõ ràng. Khoảng gần khắc sau, Tư Đồ Sảng chỉ còn cách cửa ải hơn chục trượng. Chàng nằm phục xuống bãi cỏ bên vệ đường mà quan sát và chờ đợi.
Đỉnh tường quan ải thường được xây theo hình răng lược, xen kẽ giữa những khu trống và ụ gạch, cao đến ngực để những cung thủ ẩn mình xạ tiến. Giờ đây, qua những khe ấy, Tư Đồ Sảng thấy thấp thoáng bóng người. Họ đang căng mắt nhìn xuống đoạn quan đạo gần cửa ải. Nghĩa là, nếu chàng liều mạng chạy qua cửa sẽ bị phát hiện vì khoảng cách quá gần!
Lát sau, tiếng vó ngụp lọc cọc khua động đêm trường, mỗi lúc một gần, khiến phe địch nhốn nháo, chuyển thị tuyến ra xa.
Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc hành động, liền bò nhanh trên mặt đất mà tiến lên! Chiếc áo lông cừu đen đã là vật ngụy trang rất tốt!
Bọn cung thủ trên Địch Lâu nghe tiếng vó ngựa nên cho rằng đối phương còn ở xa, không chú ý đến khoảnh đất gần cửa ải nữa. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng đã an toàn đến được chân tường quan ải di chuyển về mé tả, đứng sát cạnh cửa vòm, thò đầu vào xem xét!
Thấy không có người, Tư Đồ Sảng men theo vách gạch mà lần đến mặt sau cửa ải! Chàng nhận ra hàng trăm cung thủ đang ngồi đầy trên hai cầu thang gạch ở hai bên đường. Đôi cầu thang này vốn được xây dựng để quân Tần trèo lên mặt quan ải.
 Xa hơn một chút là chốt chặn của toán phục binh thứ hai. Nghĩa là, khi qua khỏi cửa ải là chàng sẽ trở thành ba ba trong rọ, vô phương tiến thoái?
Tư Đồ Sảng than thầm trong bụng, thi triển Bích Hổ Công bò lên nóc cửa vòm, treo mình chờ đợi!
Lát sau, tiếng vó ngựa của Trần Khoát xa dần vì gã đã quay trở xuống. Bọn cung thủ bực bội chửi thề ỏm tỏi. Xếp cung tên, rời vị trí tìm chỗ tiêu tiểu hoặc ngả lưng?
Tư Đồ Sảng thận trọng buông mình xuống đất, len lén bước ra, hoà vào bọn Hắc Y.
Trăng đã lên nhưng do đường đèo nằm lọt giữa hai vách đá cao nên không gian tranh tối, tranh sáng, khó nhìn rõ mặt người! Hơn nữa, trời đêm ở vùng núi non rất lạnh lẽo và có sương mù khiến phe đối phương phải mặc áo bông hoặc áo lông cừu, đa số là mầu đen!
Tư Đồ Sảng thản nhiên tiến về hướng trận địa mai phục của toán Hắc y thứ hai, cách cửa ải mười mấy trượng. Bọn này cũng đã uể oải tan hàng, kẻ đứng ngươi ngồi, miệng lầm bầm chửi rủa.
Tư Đồ Sảng hồi hộp bước đến cuối chặng mai phục, lòng thầm mừng rỡ. Từ vị trí này chàng có thể đào tẩu rất thuận lợi và không ai có thể theo kịp.
Nhưng dường như dáng vóc cao lớn của Tư Đồ Sảng đã khiến tên Hắc y sinh nghi, nhẩy ra quát hỏi:
- Này gã kia! Ngươi đi đâu thế? Mật khẩu?
Tất nhiên là Tư Đồ Sảng không biết mật khẩu của bọn chúng. Chàng chỉ nhận ra giọng nói và dung mạo của kẻ chặn đường. Lão ta chính là Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ!
Tư Đồ Sảng biết mình đã bị bại lộ liền rút gươm thần tốc, tấn công ngay. Tất Linh Kỳ lão luyện giang hồ nên đã sớm vận khí đề phòng. Giờ đây, lão kịp thời múa kiếm chống đỡ bằng một chiêu cực kỳ mãnh liệt, chủ yếu là chặn bước con mồi để đồng đảng vây lại!
Tiếc thay, lão đã không biết rằng nhãn lực Tư Đồ Sảng lại có thể nhìn xuyên đêm tối tựa loài cú vọ! Chàng dễ dàng hóa giải đường gươm ác độc và thọc một nhát vào ngực đối phương. Tất Linh Kỳ rú lên thảm thiết, ôm ngực gục ngã.
Nếu là ban ngày, Tư Đồ Sảng muốn giết được lão ta cũng phải trầy vi tróc vẩy. Nhưng đêm nay, chàng là kẻ sáng mắt còn họ Tất thì mù dở!
Tiếng thét lìa đời ghê rợn của Tiên nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã làm chấn động đêm trường. Bọn Hắc y ùa đến thì đã muộn vì Tư Đồ Sảng như mũi tên rời dây cung, lão vút vào màn đêm!
Thủ lĩnh thứ hai của chặng mai phục này chính là Giả Bạch Hồ. Gã giận dữ quát tháo:
- Mau lấy ngựa đuổi theo!
Lát sau, tiếng vó ngựa khua vang, Giả Bạch Hồ dẫn quân phi mau! Nửa canh giờ sau vẫn chẳng thấy bóng dáng của Tề Thanh Tuyệt họ đành phải bỏ cuộc vì lũ ngựa đã sùi bọt mép, kiệt lực!
o0o
Chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng đến Trường An. Chàng không dám vào thành, đi vòng qua khu ngoại ô phía Tây, tìm nhà dân xin nghỉ trọ.
Mờ sáng, Tư Đồ Sảng đã lên đường, lòng thầm lo Hồ Ly Đế Quân cạn tàu ráo máng đến mức báo cho Hạo Thiên Cung biết mà bày binh bố trận ngay chân núi Đại Ba Sơn, lúc ấy thì mạng của chàng khó mà vẹn toàn!
Trưa t quan trọng, đó là một nhà sư già râu ba chòm bạc phếch và một lão ăn mày đen nhẻm. Thiếu Lâm tự và Cái Bang đều thuộc địa phận phủ Lạc Dương nên hai vị chưởng môn đã được Tư Đồ Xán mời đến hỗ trợ. Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Giám Tuệ thiền sư, còn chúa ăn mày là Hắc Bì Cái Từ Long Chính.
Nãy giờ, hai vị long đầu lặng lẽ quan sát diễn biến và thì thầm bàn bạc. Họ cũng đã phát hiện mối hiểm nguy đang đe doạ Tư Đồ Xán, thì thầm lo cho lão ta và cục diện võ lâm.
Nam Hải Tiên Ông tuổi đã tám tư. nhiều năm không vào Trung Thổ, nay đột nhiên đưa Hải Hoa Bang đến đây chắc cũng vì miếng mồi quyền lực.
Nghĩa là, sau trận này Tư Đồ Xán phải chết hoặc đại bại, từ bỏ ngôi Minh chủ. Và khi võ lâm tổ chức đại hội thì Giáp Vô Yên sẽ đăng quang. Nhưng đấy chỉ là những suy luận không chắc chắn nên Giám Tuệ thiền sư bối rối bảo Hắc Bì Cái:
- A di đà phật! Lão nạp quả không thể hiểu nổi vì sao Nam Hải Tiên Ông lại muốn bang chủ Hải Hoa Bang trở thành Minh chủ võ lâm. Thực ra thì uy quyền của Minh chủ không lớn lắm, lợi lộc cũng chẳng nhiều, đâu bằng việc làm bá chủ biển Nam và các phủ vùng duyên hải?
Hắc Bì Cái nghe chí lý nên lúng ta lúng túng, lắc đầu đáp:
- Ừ nhỉ! Làm Minh chủ thì được quái gì?
Lúc này, Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán và Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên đã đứng tối diện nhau, cách xa hai trượng, chuẩn bị trao đổi chiêu đầu.
Họ Giáp là khách và nhỏ tuổi hơn nên đương nhiên có quyền xuất thủ trước, còn Tư Đồ Xán sẽ có lợi ở chiêu sau. Tuy nhiên, chắc gì Tư Đồ Xán còn sống hoặc còn đủ sức lực để đánh chiêu thứ hai.
Sánh nay trời rất đẹp nhưng giờ đây tuyết bất ngờ rơi lất phất đọng trên tóc và vai của hai đấu sĩ. Họ đã cởi bỏ áo choàng lông để không bị vướng víu khi giao tranh. Thân hình nhỏ nhắn thâm thấp của chú ruột làm cho Tư Đồ Sảng nhớ cha vô hạn.Nhưng lão ta là kẻ từng truy sát cha chàng đế giành gia sản nên tình ruột thịt không còn nữa.
Tư Đồ Sảng được Lăng Phi Hồng thỏ thẻ phân.....tích cục diện trước mặt nên cũng hiểu được dã tâm của Hải Hoa Bang. Chàng thầm nghĩ:
- Bọn này đáng ghét thật! Nếu nhị thúc thất thủ ta sẽ xin được đánh một trận.
Giáng Ma Phủ pháp là khắc tinh của pho Cửu Huyền đao pháp nên Tư Đồ Sảng chẳng hề úy kỵ. Ngay cả Nam Hải Tiên Ông cũng không biết việc sư tổ của lão là Đao Vương Bạch Hán Từ đã bị Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng hạ sát. Lão cứ đinh ninh rằng Đao Vương đã tìm nơi núi sâu mà tu tiên. Ngày ấy, Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm đã bất ngờ xuất hiện, rủ Đao Vương tái chiến trong cánh rừng vắng trên đảo Nhai Sơn, không người chứng kiến. Họ đã hứa với nhau rằng dẫu ai thắng cũng không được tiết lộ ra ngoài. Rốt cuộc xác của Đao Vương được vùi sâu nơi chiến địa hoang vu, không mộ chí.
Chính vì thế mà Nam Hải Tiên Ông cũng như Giáp Vô Yên hoàn toàn tin rằng Cửu Huyền đao pháp là vô địch. Giờ đây, bang chủ Hải Hoa Bang đắc ý dồn hết công lực vào chiêu Mông Lung Ám Bích, quyết lấy máu Tư Đồ Xán.
Cũng giống như Nam Hải Tiên Ông, Giáp Vô Yên có dung mạo khá  anh tuấn, mặt trắng mày dài, mũi huyền đảm, môi mỏng, cằm vuông. Đôi mắt họ Giáp hơi nhỏ, lấp loáng hàn quang dưới cáp mày chữ nhất xanh đen. Tuy tuổi đã sáu mươi mà mái tóc và bộ râu ba chòm của Giáp Vô Yên vẫn chưa hề điểm bạc.
Đao khá nặng nên các đao thủ phải là người cao to thì mới phát huy được thế mạnh. Giáp Vô Yên cao gần bằng Tư Đồ Sảng, nghĩa là hơn Tư Đồ Xán cả một cái đầu. Tuy nhiên, dù nhỏ con nhưng thần thái của vị Minh chủ võ lâm cũng rất oai phong, trường kiếm dựng xéo trước mặt, tỏa đầy sát khí.
Giáp Vô Yên đã động thủ, hóa thành đạo hào quang xanh biếc, lao vút về phía đối phương. Chỉ chậm hơn một cái chớp mắt, Tư Đồ Xán cũng đã vung kiếm dệt nên màn lưới thép lấm tấm sắc hồng. Lão ta nương theo kiếm quang mà bay đi và gặp đối thủ ở giữa đường.
Tư Đồ Xán vốn ỷ vào công lực thâm hậu vì lớn hơn họ Giáp năm tuổi, nhưng khi hai thanh thép chạm nhau lão mới biết mình lầm to, không hiểu Giáp Vô Yên ăn được kỳ trân gì mà tu vi lại cao hơn tuổi tác và hơn cả Tư Đồ Xán? Luồng chân nguyên hùng hậu ấy đã biến thanh bảo đao thành cơn bão cuồng mãnh, nuốt chửng lấy trường kiếm của đối phương.
Tư Đồ Xán kiên cường đánh trọn chiêu thức, mũi kiếm công phá tựa mưa rào vào lưới đao, cố tìm sơ hở mà hạ địch. Khổ thay, đao của họ Giáp tuy chậm hơn kiếm song lại cương mãnh phi thường, mỗi lần va chạm đều đẩy bạt mũi kiếm đi khiến đường gươm lỗi nhịp. mất cả uy lực. Và rồi lưỡi đao ấy hung hãn áp đảo trường kiếm, liếm vào người Tư Đồ Xán.
Vị Minh chủ nhỏ bé kia chỉ còn cách đào bộ lùi mau để bảo toàn tính mạng. Bộ pháp kỳ ảo ấy đã có hiệu quả nên Tư Đồ Xán thoát chết, chỉ bị một vết đao vắt ngang thân trước. Lão rú lên thảm khốc vì vài nhánh xương lồng ngực và xương sườn đứt rời.
Hai vị chưởng môn nhân vội lướt đến đỡ lấy Tư Đồ Xán, đặt xuống đất và tiến hành việc trị thương, quần hào gồm cả tám cận vệ Tổng đàn trợn mắt nhìn Giáp Vô Yên và Nam Hải Tiên Ông với ánh mắt căm hờn song không dám vọng động.
Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lạnh lùng bảo:
- Này Ninh lão quỷ! Lão đừng tưởng rằng Giáp Vô Yên thắng nổi Tư Đồ lão đệ thì sẽ trở thành Minh chủ trong đại hội kỳ tới. Nhân tài Trung Nguyên nhiều như lá mùa thu, không để cho thầy trò lão sính cường đâu.
Bị Hồ lão khinh thị, Nam Hải Tiên Ông bực bội cười dài và cuồng ngạo nói:
- Trừ phi trưởng lão các phái xuất quan, không cao thủ nào ở Trung Thổ có thể thắng được Giáp Vô Yên.
Lần này đi theo Giám Tuệ thiền sư còn có thủ tòa Đạt Ma Viện và La Hán Đường khổ thay, Võ nghệ của họ không bằng Tư Đồ Xán nên chẳng thể đwngs ra rửa nhục cho võ lâm Trung Nguyên. Mặt mũi quần hào xám ngoét lại vì nhục nhã, miệng đắng như ngậm Hoàng liên.
Nhưng bất ngờ có hai bóng xanh từ ngoài bay vào trận địa, quần hùng ồ nên vì nhận ra hai con bé mặt lông dê, tỳ nữ của Thần Phủ Lang Quân. Chỉ chúng mới có cái lối đi lại tất bật, vội vã như thế, dường như chỉ biết chạy nhẩy chứ chẳng biết đi. Một ả nhoẻn miệng cười, thản nhiên bảo Nam Hải Tiên Ông:
- Này Nam Hải lão nhi! Nếu có người tiếp nổi chiêu đao lúc nãy của Giáp Vô Yên thì lão tính sao?
Nghe giọng hỗn xược, Tiên Ông giận tái mặt, song lão là kẻ thâm trầm nên không phát tác, thận trọng hỏi lại:
- Thế kẻ ấy là ai, niên kỷ bao nhiêu?
Ả lọ lem thứ hai chính là Lăng Phi Tuyết. Cô nàng cướp lời em mà đắc ý đáp:
- Vị anh hùng ấy chính thị Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, tuổi mới tròn nhị thập!
Khách quan chiến nhất tề ồ lên vì kinh ngạc hoặc nực cười. Lẽ nào có kẻ háo danh đến mức đâm đầu vào lửa đỏ?
Nhưng có một người lại suy nghĩ khác, đó là Trại Tôn Tử, ông mừng rỡ thì thầm với hai vị chưởng môn:
- Nhị vị hãy thử quan sát chàng thanh niên mặc võ phục trắng, áo lông cừu đen ở mé bên kia xem. Hắn ta chính là Thần Phủ Lang Quân đấy. Lão phu đã tận dụng phép Ma Y Thần Tướng nhận ra hắn là bậc anh hùng cái thế, sau này danh lưu muôn thuở.
Hắc Bì Cái cười mát:
- Nếu hắn có thành đạt thì cũng phải nhiều năm nữa. Nay hắn liều lĩnh đấu với Giáp Vô Yên thì chỉ chết oan thôi.
Lúc này, Nam Hải Tiên Ông cũng đã biết mặt Lý Thụ, lão cười khanh khách bảo:
- Nếu đúng là gã tiểu tử họ Lý ấy thì Hải Hoa Bang xin tặng ngàn lượng bạc để mai táng.
Lăng Phi Hồng lắc đầu nguây nguẩy:
Bọn ta không cần vàng bạc mà chỉ muốn lấy chiếc hồ lô ngọc đỏ mà lão đang đeo trên ngực. Tất nhiên là gồm cả những viên Luân Hối Thần Đan ở trong đấy.
Nam Hải Tiên Ông biến sắc hỏi:
- Tiểu a đầu kia! Vì sao ngươi lại biết được bần đạo sở hữu Luân Hồi Thần Đan?
Quần hào xôn xao bàn tán, nhìn vào chiếc hồ lô nhỏ cỡ quả quít, bằng ngọc đỏ, trên ngực Tiên Ông. Tương truyền rằng Luân Hồi Thần Đan của Vạn Thực Y Vương có thế cứu được người sắp chết, nối xương liền thịt cực kỳ thầ n diệu  Người võ 1âm mà được linh đan ấy để phòng thân thì xem như có thêm vài mạng sống.
Lâng Phi Tuyết cười tươi. Khoe chiếc răng khểnh duyên dáng:
- Bọn ta là tiên giáng trần nên chuyện gì cũng biết. lão chẳng cần thắc mắc. Nếu lão sợ thua thì cứ tạ lỗi với võ lâm Trung Nguyên rồi trở về Nhai Sơn mà giải tán Hải Hoa Bang.
Nghe nàng tự xưng mình là tiên giáng trần, vài gã trẻ tuổi bật cười hô hố và chế giễu:
- Mẹ kiếp! Tiên mà xấu đến thế thì ta thà chết xuống địa ngục còn hơn được lên trời.
Nhưng cũng có người không để ý đến việc xấu đẹp, đồng thanh ủng hộ ý kiến của Phi Tuyết, quát lên:
- Cút về Nhai Sơn!
Nam Hải Tiên Ông bực tức nghĩ thầm:
- Hai con bé này có lẽ tình cờ biết được bí mật của ta, lên tiếng hù dọa thế thôi, chứ cái gã tiểu tử kia làm sao hơn được Tư Đồ Xán.
Và lão gằn giọng hậm hực:
- Được! Lão phu đồng ý với điều kiện của bọn ngươi.
Hai ả họ Lăng mừng rỡ lao vút về phía chủ nhân, vòng tay vui vẻ nói:
- Thỉnh công tử xuất trận. Bọn nô tài đã thương lượng xong!
Thân pháp nhanh như gió của hai ả đã khiến Tiên Ông chột dạ, tự hỏi bọn cổ quái này xuất thân từ cửa nào?
Giám Tuệ thiến sư cũng cau đôi mày bạc hỏi Trại Tôn Tử:
- Hồ thí chủ có biết lai lịch của bọn họ không?
Hồ Sĩ Tuệ ngượng ngùng đáp:
- Thú thực là lão phu cũng mù tịt. Hằng trăm năm nay chưa có cao thủ nào sử dụng búa mà nổi tiếng cả.
Họ ngưng bàn luận vì Thần Phủ Lang Quân Lý Thu đã trao áo choàng lông cho tỳ nữ, đủng đỉnh tiến vào đấu trường. Mọi người chú mục vào cây búa hai lưỡi đen bóng, tinh xảo và đẹp mắt, trên tay Lý Thu. Họ tự hỏi lúc nãy nó nằm ở đâu mà họ không thấy.
Rỗi họ quan sát đến dung mạo và phong thái của chàng dũng sĩ vô danh. Gương mặt anh tuấn của Lý Thu toát ra vẻ thuần hậu, điềm đạm dễ thân cận, ánh mắt chàng trong vắt không chút sợ hãi và cũng không sát khí.
Giáp Vô Yên đã rút bảo đao đứng thủ thế, mặt lạnh như tiền. Song trong lòng dàn dụa sát cơ. Lão quyết không tha cho tiểu tử ngông cuồng kia.
Lý Thu cầm búa bằng chỉ một tay, dựng đứng trước mặt tay kia bắt kiếm ấn. Tư thể này vốn là của người cầm kiếm.
Trại Tôn Tử đã bước ra làm trọng tài ông nghiêm nghị nói:
- Giáp bang chủ có quyến xuất thủ trước nhưng bắt buộc phải sử dụng chiêu đao lúc nãy. Dứt một chiêu là song phương đình thủ để phân thăng bại. Nếu Lý công tử còn đứng vững được thì xem là thắng trận.
Không ai phản đối nên Hồ lão lui xa trận địa địa để cuộc chiến bắt đầu.
Giáp Vô Yên không tấn công ngay mà đứng im nhìn đối thủ như mèo nhìn chuột. Lão tin rằng chỉ nửa khắc sau gã oắt con kia sẽ toát mô hôi, tay run rẩy vì cây búa nặng nề.
Thủ đoạn này không qua được mắt bậc lão thành. Giám Tuệ thiên sư liền lên tiếng:
- A di đà phật! Việc thi thố định lực chỉ thực hiện khi song phương cùng có quyền ra tay trước. Nay Giáp thí chủ làm như thế e không phải đạo.
Thiền sư vừa dứt lời thì Giáp Vô Yên động thân ngay, thi triển chiêu “Mông Lung Ám Bích” (cây cỏ rậm xanh) đao quang xanh màu thép, đao ảnh trùng điệp tựa cành lá sum suê, bao phủ đấu trường.
Tư Đồ Sảng tức Lý Thu cũng lao đi bốc chếch lên cao rồi phủ lưỡi búa xuống trái cầu đao ảnh. Chàng đã sử dụng chiêu “Lâm Thượng Liêm Chiêu” (Rèm lầu phở lại tuổi thanh xuân!
Nói xong, nàng vuốt mặt Tư Đồ Sảng, giải tỏa yêu pháp để chàng có thể cử động được. Rồi nàng nhả ra bàn tay một viên ngọc màu xanh Phi Thúy, nhỏ cỡ hạt lạc.
Hồ Ly Vương Phi nhét ngọc vào miệng Tư Đồ Sảng và bảo chàng nuốt. Lát sau, Tư Đồ Sảng nghe cơ thể nóng ran, da dẻ ngứa ngáy khủng khiếp. Chàng gãi đến đâu thì lớp da nơi ấy bong ra. Hồ Ly Vương Phi giúp chàng lột bỏ vùng lưng thái độ dịu dàng, ân cần.
Tư Đồ Sảng ngắm nghía làn da mịn màng của tuổi thanh xuân mà lòng ngập tràn cảm kích. Chàng vươn tay kéo Hồ Ly Vương Phi vào lòng và thì thầm:
- Ơn này kiếp sau ta sẽ báo đền!
Hồ Ly Vương Phi cười khúc khích:
- Thiếp là Hồ Ly Tinh, đứng ngoài luân hồi nên không còn kiếp lai sinh! Chỉ có chàng mới phải đầu thai thôi!
Và nàng liếm mặt chàng, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Tư Đồ Sảng hiểu ý hôn lên đôi môi chín mọng của nàng!
 Sau trận ái ân tiễn biệt, Hồ Ly Vương Phi biến mất. Tư Đồ Sảng bâng khuâng như người vừa đánh mất bảo vật, lững thững xuống suối tắm gội. Chàng ăn vội vài miếng thịt dê sấy rối lên đường, mặc dù trời đã về chiều!
Nỗi vui được trẻ lại đã khiến chàng vô cùng biết ơn Hồ Ly Vương Phi và bất giác sinh lòng yêu mến. Chàng còn thầm cao hứng vì đã cắm sừng cái lão Hồ Ly Đế Quân chết tiệt kia! Lão định cướp vợ của chàng không ngờ lại bị mất trước!
o0o
Chiều ngày hai mươi bẩy, Tư Đồ Sảng đã có mặt ở chân núi hướng Nam Đại Ba Sơn. Chàng vận công gọi lớn:
- Tại hạ là Tư Đồ Sảng đã đến theo lệnh đòi, mong Đế Quân cho phép được yết kiến!
Nhưng chàng gọi mãi mà chẳng thấy ai lên tiếng hoặc xuất hiện, đành tìm chỗ nghỉ ngơi và chờ đợi! Chàng nhẩy lên tảng đá khổng lồ gần đấy, mở túi lương khô ra ăn uống.
Tư Đồ Sảng đã mang vào chiếc mặt nạ già nua lúc khởi hành, tay đeo găng kín mít, để che giấu lớp da trắng trẻo mịn màng. Chàng sợ lộ mối ân tình ngắn ngủi với Hồ Ly Vương Phi!
Mờ sáng, Tư Đồ Sảng chợt nghe tiếng cành lá khua động vội ngồi lên xem thử. Chàng than thầm khi phát hiện vòng vây đã khép chặt bởi hơn ba chục quái nhân thân hình khôi vĩ, tay cầm chùy thép, người mặc giáp sắt.
Chàng ước lượng trọng lượng mỗi cây chùy có gai ấy phải trên hai chục cân, liền rút Giáng Ma Phủ ra. Giờ đây chàng mới hiểu tác dụng lời khuyên của Bạch nhạc phụ, cha Bạch Phụng. Từ Tâm Kiếm không thể nào chịu đựng nổi những cú đập như trời giáng của cây chùy. Và chỉ có Giáng Ma Phủ mới đủ sức phá được lớp giáp sắt trên người bọn quái nhân kia! Tư Đồ Sảng nhẩy xuống đất, đứng dựa tảng đá để khỏi phải đề phòng phía sau.
Đám quái nhân đã đến nơi, phơi bày những gương mặt xám xịt, sần sùi và ánh mắt vô hồn. Cước bộ của chúng khá mau lẹ chứ không hề chậm chạp dù phải mang giáp nặng.
Hai tên lướt đến tấn công Tư Đồ Sảng, chùy kình vun vút, khí thế như bão tố, chẳng phải chúng đánh bừa mà có chiêu thức hẳn hoi.
Tư Đồ Sảng xuất toàn lực đánh chiêu Tảo Vân Tần Nguyệt, chặn đứng đường chùy của hai kẻ địch! Và chàng thọc mũi thép nhọn ở đầu búa vào ngực quái nhân mé hữu. Sau đó thuận thế xoay lưỡi búa chém vào sườn gã mé tả.
Đòn đâm không đủ mạnh để phá thủng lớp giáp sắt, chỉ đẩy được đối phương văng ra. Nhưng thế chém của Tư Đồ Sảng rất mãnh liệt nên đã cắt phăng áo giáp và chặt gẫy xương gã thứ hai!
Nạn nhân đau đớn gầm lên những âm thanh man rợ, gượng đứng lên nhưng lại khụy xuống vì vết thương quá nặng. Bọn phía sau hung hăng ào lên thay thế, chẳng hề sợ hãi vì cái chết của đồng đảng. Nhưng Tư Đồ Sảng thần dũng tuyệt luân, kiên cường chống trả và lần lượt đả thương hoặc hạ sát từng tên!
Hai loại vũ khí nặng chạm nhau chát chúa, làm náo động cả vùng núi non tĩnh mịch. Tư Đồ Sảng nghe cánh tay tê chồn, lòng thầm khâm phục sức lực của bọn quái nhân!
Cuối cùng, chỉ còn một phần ba số quái nhân được lành lặn, đạp xác đồng đội mà xông vào! Nhưng xa xa có tiếng còi sắt ré lên cao vút, bọn chúng mới chịu bỏ cuộc, chạy đi!
Tư Đồ Sảng mệt muốn đứt hơi, đứng dựa lưng vào tảng đá mà thở dốc, thầm mừng vì tai họa đã qua! Chàng nhẩy lên đỉnh tảng đá, vớ lấy túi da uống ừng ực vì đang khát khô cả họng!
Tư Đồ Sảng. vẫn cảnh giác quay mặt ra ngoài nên sớm nhìn thấy ba bóng người đang lướt đến. Chàng ngao ngán nhận ra Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh đi cùng Giả Bạch Hồ và Triển Phi Hoan! Trong tình trạng sức lực mỏi mòn này, chàng không thể nào địch lại kẻ thù!
Tư Đồ Sảng đứng yên, tranh thủ thời gian nghỉ ngơi cố phục hồi được được phần nào chân khí để thêm sinh cơ!
Thiên Thư Tú Sĩ cười khanh khách:
- Té ra ngươi chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Lão phu không ngờ ngươi lại còn sống sót khi rơi xuống vực sâu!
Tư Đồ Sảng lạnh lùng bảo:
- Ta biết mình hôm nay khó lòng thoát chết, mong lão trả lời ta một câu hỏi!
Lăng Quân Vĩnh gật gù đắc ý và nói ngay:
- Chính lão phu là người đã cùng Tần Cốc Lý hạ sát song thân ngươi đấy khỏi cần phải hỏi!
Tư Đồ Sảng đau đớn gầm lên:
- Lão thất phu kia! Hãy đền mạng cho cha mẹ ta!
Lăng Quân Vĩnh cười nhạt:
- Ngươi cứ việc nhẩy xuống mà đòi nợ, lão phu sẽ trả gấp đôi!
Nào ngờ, cánh tay hữu của Triển Phi Hoan bỗng vung lên, ánh thép sáng ngời. Gã cắm phập mũi tiểu đao vào giữa lưng Thiên Thư Tú Sĩ rồi lập tức rút đao tấn công Giả Bạch Hồ. Lăng Quân Vĩnh trúng đòn trí mạng toàn thân run lẩy bẩy và ngã quị.
Tư Đồ Sảng mừng rỡ tung mình xuống, bủa lưới thép vào đầu Giả Bạch Hồ. Gã đang bị Triển Phi Hoan tấn công ráo riết nên không sao tránh khỏi chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh, thân hình bị Giáng Ma Phủ chẻ dọc làm hai mảnh.
Tư Đồ Sảng bùi ngùi ôm lấy Triển Phi Hoan và nói:
- Cảm tạ triển Đại ca!
Họ Triển bỗng xô chàng ra và nghiêm nghị bảo:
- Nhị đệ! Ta chính là Tư Đồ Phi Hoan, đại ca của ngươi đây! Gia mẫu là Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu, từng chung sống với phụ thân của chúng ta!
Tư Đồ Sảng hiểu ngay rằng gã nói thực, liền lột mặt nạ, quì xuống chống tay thi lễ, run giọng gọi:
- Đại ca!
Phi Hoan mỉm cười đôn hậu, đỡ chàng dậy. Hai người nhẩy lên đính tảng đá mà trò chuyện. Phi Hoan buồn rầu kể lại nguồn cơn:
- “Ngày ấy, Tiên phụ đưa Tiên mẫu trốn khỏi núi Vu Sơn, xuống đò để sang bờ Nam sông Trường Giang. Họ định đến Côn Minh xây tổ uyên ương và tránh sự truy tầm của Mân Xuyên Bá Đao.
Nào ngờ, khi thuyền vừa đến giữa sông thì mưa to gió lớn nổi lên dữ dội, khiến một chiếc thuyền buôn, đang xuôi giòng, đâm sầm vào đò ngang. Đò bị đắm, hành khách rơi cả xuống dòng sông đang cuồn cuộn sóng dữ và mịt mù mưa bão!
Do đó, hai người đã lạc nhau. Tiên mẫu sống sót là nhờ vớ được một mảnh ván đò. Bà dạt vào bở, được một ngư ông giúp đỡ. Tiên mẫu hồi phục, quay lại đoạn sông đã xảy ra tai nạn mà dò hỏi thì nghe nói rằng chẳng một ai thoát chết! Cha của chúng ta không biết bơi nên khả năng sống sót rất ít!
Tiên mẫu tuyệt vọng tìm đến Lô Sơn nương tựa người cậu ruột. Lúc này, bà đã mang thai mà không biết!”
Phi Hoan sa lệ, áy náy kể tiếp:
- “Vì ta là thai ngang nên Tiên Mẫu suýt chết khi sanh nở. Kể từ đó bà yếu hắn đi, thường xuyên bệnh hoạn. Nhà Cửu công lại nghèo nên tình cảnh càng bội phần khốn khó.
Từ năm mười lăm tuổi ta đã phải vào rừng chặt củi để nuôi mẹ, song chỉ đủ ăn chớ không khá nổi! Cuộc sống chật vật, thiếu thốn đã khiến Tiên mẫu qua đời lúc tuổi chưa đến sáu mươi! Trước khi chết, bà dặn ta tìm đến Tư Đồ Gia trang ở Phúc Châu để nhận Tông Môn! Nào ngờ, khi ghé vào xem Đại hội võ lâm ta lại gặp Nhị đệ! Và lúc cùng ngươi về Hàm Dương tảo mộ ta mới biết ngươi là em cùng cha khác mẹ!”
 Gã bật khóc và Tư Đồ Sảng cũng vậy! Lát sau, chàng gạt lệ hỏi:
- Sao Đại ca biết Lăng Quân Vĩnh là kẻ thù mà bám theo?
Phi Hoan tư lự đáp:
- Lúc đầu, ta dự định xâm nhập Kỳ Lân Bang để giết Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ mà báo thù. Nhưng khi tiếp xúc với lão ta mới biết ai là hung thủ thực sự. Ngu ca liền quay lại Hạo Thiên Cung, hết lòng hầu hạ Thiên Thư Tú Sĩ và xin làm học trò. Nhờ vậy ta được biết lão ấy cũng chính là anh em song sinh với Thanh Y nhân, kẻ đã đẩy ngươi xuống vực thẳm!
Tư Đồ Sảng kinh ngạc kêu lên:
- Thực thế sao?
Phi Hoan gật đầu xác nhận:
- Anh em Lăng lão quỉ luyện pho Âm Dương Chân Kinh, và may mắn tìm được một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô, nên công lực rất thâm hậu, có thể thi triển hai loại tuyệt học đối kháng!
Và gã hỏi lại:
- À! Thế Nhị đệ đến đây làm gì?
Tư Đồ Sảng sực nhớ ra vội mang lại mặt nạ già nua rồi kể sơ việc của Bạch Phụng.
 Phi Hoan ngạc nhiên trợn mắt:
- Té ra có Hồ Ly Tinh thực sao?
Gã mỉm cười nói tiếp:
Vậy thì ta không nên có mặt! Ngu ca sẽ về Trường An trước, hẹn gặp nhau ở Vị Thủy đại lữ điếm!
Nói xong, gã nhẩy xuống đất, lục lọi hai xác chết, vơ vét vàng bạc để làm lộ phí. Bỗng Phi Hoan reo lên:
- Nhị đệ! Ta tìm thấy quyển Âm Dương chân kinh! Tặng cho ngươi đấy!
Gã ném quyển sách cũ lên tảng đế cho Tư Đồ Sảng rồi đi ngay!
Tư Đồ Sảng hiếu kỳ lật ra xem thử, lát sau cất vào trong áo. Chờ đợi mãi, Tư Đồ Sảng mệt mỏi nằm thiếp đi và tỉnh giấc vì cái lưỡi ẩm ướt quen thuộc. Chàng ngồi bật dậy, nhấc con chồn nhỏ lên hỏi dồn:
- Phải chăng Hồ Ly Đế Quân đã thả nàng ra?
Chồn không biết nói nên chỉ gật đầu!
o0o
Hơn nửa tháng sau, Tư Đồ Sảng và Triển Phi Hoan về đến Lạc Dương. Trương Thiên Sứ cũng có mặt sau chuyến thượng kinh nên Tây Môn Giới bắt tay ngay vào việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!
Trưa mười chín tháng ba, Tư Đồ Sảng đánh xe song mã đến núi Thanh Sơn theo sự chỉ dẫn của Bạch Phụng mà trèo lên sườn phía Tây. Chàng phát hiện một động đá rất lớn và bên trong là hai nữ nhân Bạch Y, trên áo vẽ đầy những nét bùa chú ngoằn ngoèo. Họ ngơ ngẩn nhìn chàng bằng ánh mắt vô hồn.
Tư Đồ Sảng cố nén nỗi thương tâm, nhặt hai chiếc lọ sành ở góc động, bỏ vào tay nải. Chúng cũng được dán bùa vàng chữ đỏ ngang nắp.
Sau đó, Tư Đồ Sảng ôm cả hai ái thê lên, đưa xuống núi, đặt vào xe mà chở về Lạc Dương.
Đàn tế đã dựng sẵn, Đảo Mệnh Linh Kỳ cắm ở một góc. Sau nửa canh giờ tụng niệm, đốt bùa, Linh Kỳ bỗng tung bay phất phới, mặc dù trong sảnh chẳng hề có gió!
Trương Thiên sư mừng rỡ, mở nắp hai hũ sành. Kỳ diệu thay, Phi Tuyết, Phi Hồng đang quỳ bất động trước Đàn tế bỗng đứng lên, chạy đến ôm Tư Đồ Sảng mà khóc vùi! Cả nhà hân hoan cười vang, hết lời ca ngợi pháp lực của Linh Kỳ!
Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng đưa Triển Phi Hoan cùng bốn ái thê cùng con chồn trắng về Phúc Châu thăm nội tổ mẫu và các biểu muội. Hôn lễ của chàng sẽ được tổ chức ở đấy sau hai tháng nữa. Tây Môn Giới, Trại Tôn Tử, Liễu Mộ Hào cũng đi theo!
Đoàn người đến nơi lúc gần giữa tháng năm, bàng hoàng nhận ra cửa trang treo hai chiếc đèn lồng tử khí Phong Đăng, báo hiệu rằng nhà có người chết!
Tư Đồ Sảng ứa nước mắt, rời lưng ngựa lao vào đại sảnh như cơn lốc. Tư Đồ Lão Th Hồi Cố Thổ,-Thượng Kinh Cứu Quí Nhân">
  • Hồi 8
  • Hồi 9
  • Hồi 10
  • Hồi 11
  • Hồi 12
  • Hồi 13
  • Hồi 14
  • Hồi 15
  • Hồi 16
  • Hồi 17
  • Hồi 18
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
    !!!1899_2.htm!!!ái và mấy người đang mặc tang phục bật khóc. Khi thấy chàng, Lão Thái mếu máo nói:
    - Tạ ơn hoàng thiên đã xui khiến cho Sảng nhi về kịp lúc! Trước khi từ trần Ly nhi cứ nhắc ngươi mãi! Lão thân đã có ý tác hợp cho hai cháu nhưng không ngờ Ly nhi vắn số, chỉ có bệnh vài ngày là tuyệt khí!
    Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, đến ôm áo quan mà khóc và khấn vái:
    - Biểu muội? Kiếp này không duyên nợ thì đành hẹn kiếp lai sinh?
    Chàng tưởng nhớ đến gương mặt kiều diễm của cố nhân mà thương tâm vô hạn! Lẽ nào trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, bắt kẻ thanh xuân nhan sắc phải chết non?
    Bỗng thính giác tinh nhậy của chàng phát hiện trong quan tài có tiếng gõ bồm bộp! Chàng vội áp tai vào lớp gỗ nghe cho kỹ và mừng rỡ rú lên:
    - Tam biểu muội đã hồi sinh!
    Cả nhà kinh ngạc, không tin vào tai mình, trố mắt nhìn cảnh Tư Đồ Sảng nhổ bật nấp quan tài, bồng Bạch Ly ra!
     Tiếng reo hò hòa cùng tiếng khóc hân hoan mừng người chết hoàn dương. Bạch Ly cười rạng rỡ, tuột khỏi tay Tư Đồ Sảng, chạy vào sau thay y phục.
    Linh Hối Tử vội sai bọn gia nhân dọn dẹp quan tài và bàn tế vong vì không còn cần đến nữa!
    Đến lượt Tư Đồ Phi Hoan ra mắt bà nội. Gã cũng thấp lùn như Tư Đồ Quát khiến Lão Thái vô cùng xúc động, ôm lấy khóc ròng!
    Kế tiếp, bốn ả cháu dâu nghiêng mình, bái kiến, nhan sắc của họ đã khiến Tư Đỗ Lão Thái hài lòng, tấm tắc khen.
    Sau một lúc chuyện trò, khách được đưa vế phòng ở hậu viện. Tư Đồ Sảng mở tay nải ra thì phát hiện con chồn trắng đã chết! Chàng kinh hoảng bật khóc! Nhưng Bạch Ly đã chạy vào ôm chàng mà liếm mặt!
    Tư Đồ Sảng đã hiểu ra, hôn nàng và nghẹn ngào gọi:
    - Phụng muội!
    Bạch Phụng đưa bàn tay búp măng chận miệng chàng và nghiêm nghị bảo:
    - Tướng công! Bí mật này chỉ riêng đôi ta biết, không được để lộ đến tai người thứ ba. Thiếp vì quá yêu chàng mà liều lĩnh phạm luật trời, lòng luôn nơm nớp lo sợ. Hơn nữa, nếu bốn nàng kia biết thiếp là Hồ Ly tinh thì tình nghĩa chị em chung thuyền sẽ khó mà đậm đà được!
    Tư Đồ Sảng đồng tình:
    - Nàng nói chí phải! Từ nay ta sẽ xem nàng là Ly muội!

    Truyện Hắc Bạch Hương Hồ Ký ---~~~cungtacgia~~~---

    18 Tác phẩm

    --!!tach_noi_dung!!--


    Nguồn: Việt Kiếm
    Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
    vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

    --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--