Nhưng chúng ta hãy xét kỹ hơn một chút cái "bạo lực" vạn năng đó của ông Đuy-rinh, Robinson "tay cầm kiếm" nô dịch anh chàng Thứ Sáu. Vậy Robinson đã lấy kiếm ở đâu ra? Ngay cả trên những hòn đảo tưởng tượng trong những truyện kiểu Robinson, cho đến nay kiếm cũng chưa trả lời cho câu hỏi đó. Cũng như Robinson đã có thể tìm ra được cho mình một thanh kiếm, chúng ta cũng rất có thể có lý do để cho rằng một buổi sáng kia, anh chàng Thứ Sáu hiện ra với một khẩu súng lục đã lên đạn ở trong tay, thế là lúc đó toàn bộ quan hệ "bạo lực" liền đảo ngược lại: anh chàng Thứ Sáu chỉ huy và Robinson phải nai lưng ra lao động. Chúng tôi xin lỗi độc giả là cứ trở đi trở lại mãi câu chuyện Robinson và anh chàng Thứ Sáu, chuyện này thật ra là để dùng trong phòng trẻ chứ không phải dùng trong khoa học, nhưng chúng tôi biết làm sao bây giờ? Chúng tôi bắt buộc phải vận dụng một cách trung thực cái phương pháp định đề của ông Đuy-rinh, và sẽ không phải là lỗi tại chúng tôi nếu trong việc này chúng tôi luôn luôn phải trở đi trở lại mãi trong lĩnh vực thuần tuý trẻ con. Như vậy là súng lục thắng thanh kiếm, và ngay cả người tán thành phương pháp định đề một cách trẻ con nhất chắc chắn cũng nhận thấy rằng bạo lực không phải đơn thuần là một hành vi của ý chí, mà đòi hỏi những tiền đề rất hiện thực để thực hiện nó, cụ thể đòi hỏi những tiền đề rất hiện thực để thực hiện nó, cụ thể đòi hỏi phải có những công cụ, trong đó công cụ hoàn hảo hơn sẽ thắng công cụ không hoàn hảo bằng; rằng tiếp nữa, những công cụ đó phải được sản xuất ra đã, điều này cũng có nghĩa là kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực hoàn hảo hơn Vulgo là sản xuất ra vũ khí phải thắng kẻ sản xuất ra công cụ bạo lực không hoàn hảo bằng; nói tóm lại, thắng lợi của bạo lực dựa vào việc sản xuất vũ khí, và việc sản xuất vũ khí lại dựa vào sản xuất nói chung, do đó lại dựa vào "lực lượng kinh tế", vào "tình hình kinh tế", và những phương tiện vật chất mà bạo lực chi phối được. Bạo lực, hiện nay là quân đội và hạm đội, và cái hai như tất cả chúng ta, đau xót thay, đều biết rõ "tốn kém nhiều tiền một cách kinh khủng". Nhưng bạo lực không thể làm ra tiền được, mà nhiều lắm cũng chỉ có thể chiếm đoạt được số đã làm ra thôi, và tiền đó cũng chẳng có ích gì nhiều lắm như chúng ta cũng lại đau xót thay, đã biết được qua trường hợp mấy nghìn triệu của Pháp[59]. Vậy xét cho cùng thì tiền phải do sản xuất kinh tế làm ra; vậy một lần nữa, bạo lực lại do tình hình kinh tế quyết định, tình hình kinh tế cung cấp cho bạo lực. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Không có gì lại phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế hơn là chính ngay quân đội và hạm đội. Vũ trang, biên chế, tổ chức, chiến lược, chiến thuật phụ thuộc trước hết vào trình độ sản xuất tương ứng, và vào phương tiện giao thông. Trong lĩnh vực này có tác động cách mạng hoá không phải là "Những sáng tạo tự do của trí tuệ" của những tướng lĩnh thiên tài, mà là do việc phát minh ra những vũ khí tốt hơn và sự thay đổi trong chất liệu người lính, ảnh hưởng của những tướng lĩnh thiên tài nhiều lắm cũng chỉ giới hạn trong việc làm cho phương thức tiến hành chiến đấu thích hợp với vũ khí mới và chiến sĩ mới mà thôi. Vào đầu thế kỷ XIV, thuốc súng đã chuyển từ tay người A-rập sang người Tây âu, và ai nấy đều biết là nó đã làm đảo lộn cả toàn bộ công việc quân sự. Nhưng việc đem dùng thuốc súng và súng hoàn toàn không phải là một hành vi bạo lực, mà là một tiến bộ về công nghiệp, do đó là một tiến bộ về kinh tế. Công nghiệp vẫn là công nghiệp, dù nó hướng vào việc sản xuất các đồ vật hay vào việc phá hoại những đồ vật đó. Và việc đem dùng súng đã có tác dụng làm đảo lộn không những đối với bản thân công việc tiến hành chiến tranh, mà còn đối với những quan hệ thống trị và nô dịch về mặt chính trị nữa. Muốn có được thuốc súng và súng thì phải có công nghiệp và tiền, mà công nghiệp và tiền lại nằm ở trong tay thị dân. Cho nên, ngay từ đầu, súng đã là vũ khí của các thành thị và của chế độ quân chủ đang lên, dựa vào thành thị để chống lại giai cấp quý tộc phong kiến. Những bức thành đá của những lâu đài của giới kỵ sĩ xưa nay không thể ai chiếm lĩnh được giờ đây đã không thể đứng vững trước những khẩu đại bác của các thị dân, những viên đạn súng trường của thực dân đã xuyên thủng áo giáp của các hiệp sĩ. Cùng với sự sụp đổ của đội kỵ binh mặc áp giáp của giai cấp quý tộc thì sự thống trị của giai cấp quý tộc cũng sụp đổ theo, cùng với sự phát triển của giới thị dân thì bộ binh và pháo binh ngày càng trở thành những binh chủng có tính chất quyết định; do pháo binh bắt buộc nên nghề quân sự phải kèm thêm một ngành mới có tính chất hoàn toàn công nghiệp: nghành công binh. Việc hoàn thiện cây súng diễn ra rất chậm chạp. Đại bác vẫn còn nặng nề, súng trường còn thô sơ, mặc dầu đã có nhiều phát minh về chi tiết. Phải mất hơn ba trăm năm mới có được một khẩu súng thích hợp để trang bị cho toàn thể bộ binh. Chỉ mãi đến đầu thế kỷ XVIII, thì cây súng hoả mai và có lưỡi lê mới loại hẳn chiếc giáo ra khỏi việc vũ trang cho bộ binh. Bộ binh hồi bấy giờ gồm có những người lính được huấn luyện rất nghiệt ngã, nhưng hoàn toàn không đáng tin cậy, do các vua chúa tuyển mộ từ những phần tử hư hỏng nhất trong xã hội và chỉ có roi gậy mới bắt được họ phải phục tùng; lắm lúc cũng gồm những tù binh địch bị bắt buộc sung vào quân đội; và hình thức chiến đấu độc nhất trong đó những binh lính này có thể sử dụng cây súng mới là chiến thuật dàn hàng ngang, chiến thuật này đã đạt tới mức hoàn hảo nhất dưới thời Friedrrich 11. Toàn thể bộ binh của một đạo quân đuợc xếp hàng ba thành một hình bốn cạnh rất dài và rỗng ở giữa, và trong đội hình chiến đấu thì chỉ vận động như là một chính thể mà thôi; cùng lắm thì người ta chỉ cho phép một trong hai cánh được tiến lên hay lùi lại một chút. Cái khối vụng về đó chỉ có thể vận động có trật tự được trên một địa hình hoàn toàn bằng phẳng và hơn nữa cũng chỉ vận động theo một nhịp độ chậm chạp (75 bước mỗi phút ); trong khi đang tác chiến thì không sao thay đổi được đội hình chiến đấu, và một khi bộ binh đã được vào trận đánh thì thắng lợi hay thất bại cũng được quyết định trong một thời gian ngắn, bằng một đòn đả kích. Trong cuộc chiến tranh giành độc lập ở Mỹ, những toán nghĩa quân đã chống lại những đội hình truyền thống cứng nhắc ấy; quả thật là những toán nghĩa quân này không biết đi đều bước, nhưng với cây súng có nòng xé răng của họ, họ lại có thể bắn trúng hơn; chiến đấu vì lợi ích thiết thân nhất của mình, họ không đào ngũ như bọn lính đánh thuê; và họ không làm cho binh lính Anh thích thú bằng cách cũng dàn thành hàng ngang và chiến đấu chống lại chúng trên một địa hình bằng phẳng trống trải, lại bố trí thành những đội hình dọc bộ binh phân tán và cơ động nhanh chóng ở trong rừng, được dùng làm nơi ẩn nấp. Đội hình hàng ngang ở đây trở thành bất lực và bị thất bại trước những địch thủ không trông thấy được và không sao tìm thấy được. Như vậy là người ta lại phát minh trở lại đội hình bộ binh cơ động - phương thức chiến đấu mới do sự thay đổi trong chất liệu lính. Điều mà cuộc cách mạng Mỹ đã mở đầu, thì được cuộc cách mạng Pháp hoàn thành, - cũng trong lĩnh vực quân sự. Để đương đầu với quân đội của khối liên minh gồm lính đánh thuê được huấn luyện tốt, cách mạng Pháp cũng chỉ có những quần chúng được huấn luyện kém nhưng đông đảo, chỉ có việc tổng động viên toàn quốc. Nhưng với những quần chúng đó lại phải bảo vệ Pa-ri, nghĩa là phải bảo vệ một địa hình nhất định, và không thể làm được điều đó nếu không thắng được trong một trận chiến đấu đông người tại nơi trống trải. Chỉ có bắn nhau theo đội hình phân tán thì không đủ nữa rồi; cũng cần phải tìm ra một hình thức để sử dụng được số đông, và hình thức đó là đội hình hàng dọc. Đội hình hàng dọc cũng cho phép những đội quân ít được huấn luyện vận động khá có trật tự, hơn nữa thậm chí lại với một tốc độ còn nhanh hơn ( mỗi phút từ 100 bước trở lên ); nó cho phép chọc thủng được những hình thức cứng đờ của đội hình hàng ngang cũ, cho phép chiến đấu được trên bất cứ địa hình nào, do đó chiến đấu được cả trên những địa hình bất lợi nhất đối với đội hình hàng ngang, tập hợp được quân đội theo bất cứ một cách nào phù hợp với tình thế và kết hợp với những hoạt động của những xạ thủ phân tán, cho phép kìm hãm, thu hút và làm kiệt sức những đội hình hàng ngang của quân địch, cho đến khi có thể chọc thủng được đội hình đó ở điểm quyết dịnh bằng những khối đông được giữ làm dự trữ. Phương thức tiến hành chiến đấu mới đó, dựa trên sự kết hợp giữa những xạ thủ phân tán và những đội hình hàng dọc và dựa trên sự phân chia quân đội thành sư đoàn hay quân đoàn độc lập, gồm đủ các loại binh chủng - phương thức đã được Napoléon đề xuất toàn bộ cả về mặt chiến lược lẫn về mặt chiến thuật - đã trở lên cần thiết, trước hết là do sự thay đổi trong chất liệu của người lính của cách mạng Pháp. Nhưng phương thức chiến đấu đó cũng còn cần phải có hai tiền đề kỹ thuật rất quan trọng: một là, những giá đại bác dã chiến nhẹ hơn do Gribeauval chế tạo, chỉ nhờ chúng người ta mới di chuyển được những đại bác dã chiến ấy với tốc độ đòi hỏi nhanh hơn như hiện nay, và hai là việc áp dụng báng súng công năm 1767 ở Pháp, bắt chước báng súng săn - từ trước đến nay nó vẫn nằm thẳng tuột với nòng súng - khiến cho có thể nhắm từng người một mà không nhất thiết phải bắn chệnh. Không có sự tiến bộ đó, thì khẩu súng cũ không thể áp dụng việc bắn theo đội hình phân tán được. Hệ thống vũ trang toàn dân có tính chất cách mạng chẳng bao lâu sau đã bị hạn chế bởi chế độ quân dịch ( đối với người giầu thì có quyền thay thế bằng cách bỏ tiền ra chuộc ), và đa số các nước lớn trên lục địa đều áp dụng hình thức đó. Chỉ có nước Phổ, với chế độ quân hậu bị của mình, là đã cố thu hút lực lượng quân sự của nhân dân với những quy mô to lớn hơn. Thêm nữa, Phổ còn là nước đầu tiên đã trang bị cho toàn thể bộ binh của mình bằng vũ khí hiện đại nhất - tức là bằng cây súng trường lên đạn bằng quy lát sau khi cây súng có nòng xé rãnh, lên đạn từ phía nòng, có thể dùng cho chiến tranh và được hoàn thiện giữa những năm 1830, đã đóng xong vai trò ngắn ngủi của nó. Nhờ hai điều mới này mà nước Phổ đã thắng trận năm 1866[60]. Trong cuộc chiến tranh Đức - Pháp, lần đầu tiên hai đội quân dùng súng có nòng xẻ rãnh lên đạn bằng quy lát đã đối diện với nhau và hơn nữa cả hai về thực chất đều có những đội hình chiến đấu giống như thời kỳ cây súng hoả mai có nòng nhẵn. Chỉ có điều khác nhau là ngươì Phổ cố tìm trong việc áp dụng đội hình đại đội xếp theo hàng dọc một hình thức tác chiến thích hợp hơn với vũ trang mới. Nhưng, đến ngày 18 tháng tám ở Saint - Privat, khi đội binh vệ Phổ muốn thử áp dụng một cách nghiêm túc đội hình đại đội xếp theo hàng dọc, thì năm trung đoàn tham chiến nhiều nhất, trong không quá hai tiếng đồng hồ, đã bị mất hơn một phần ba quân số của chung ( 176 sĩ quan và 5114 lính ) và từ đó, đội hình đại đội xếp theo hàng dọc với tư cách là hình thức tác chiến đã bị lên án, không kém gì đội hình tiểu đoàn xếp theo hàng dọc và đội hình dàn hàng ngang tiểu đoàn xếp theo hàng ngang. Từ nay trở đi, mọi mưu toạn đẩy bất kỳ những đơn vị mật tập nào vào dưới hoả lực của kẻ thù cũng đều bị từ bỏ, và về phía người Đức, cuộc chiến đấu chỉ được tiến hành bằng những tuyền tán binh dầy dặc mà thôi, những tuyền tán binh mà ngay trước đây dưới làn mưa đạn của kẻ thù, các đội hình hàng dọc thường cũng đã tự động phân tán thành, nhưng vẫn bị các sĩ quan cao cấp luôn luôn chống lại, coi đó là trái kỷ luật. Cũng như trong phạm vi hoạt động của hoả lực địch, từ nay trở đi, vọt tiền đã trở thành hình thức di chuyển duy nhất. Một lần nữa, lính tỏ ra khôn ngoan hơn sĩ quan; chính anh ta, người lính, do bản năng mà đã tìm ra được hình thức chiến đấu duy nhất tỏ ra là thích hợp từ trước đến nay dưới làn đạn của cây súng lên đạn bằng quy lát, và bất chấp sự chống đối của cấp chỉ huy, họ vẫn thực hiện nó một cách đầy thắng lợi. Chiến tranh Đức - Pháp đã đánh dấu một bước ngoặt có một ý nghĩa khác hẳn tất cả bước ngoặt trước kia. Một là vũ khí đã rất hoàn hảo đến nỗi không còn có thể có một tiến bộ mới nào khả dĩ gây ra được một ảnh hưởng đảo lộn nào đó. Khi mà người ta đã có những đại bác có thể bắn trúng được một tiểu đoàn chừng nào mắt người ta còn phân biệt được nó, và có những cây súng có thể ngắm và bắn trúng từng người một cách cũng thành công như thế, hơn nữa việc lắp đạn lại đòi hỏi ít thời gian hơn là việc ngắm bắn, - thì tất cả những sự tiến bộ khác đều ít nhiều không quan trọng đối với dã chiến. Như vậy là về mặt này kỷ nguyên phát triển đã chấm dứt về căn bản. Nhưng hai là, cuộc chiến tranh đó đã buộc tất cả những nước lớn trên lục địa phải thi hành chế độ quân hậu bị của Phổ một cách mạnh hơn ở nước mình và đo đó phải mang một gánh nặng quân sự làm cho những nước đó nhất định phải phá sản sau vài năm. Quân đội đã trở thành mục đích chủ yếu của nhà nước, trở thành một mục đích tự nó; nhân dân chỉ còn tồn tại để cung cấp binh lính buôn binh lính mà thôi. Chủ nghĩa quân phiệt thống trị và ngốn hết châu âu. Nhưng chủ nghĩa quân phiệt đó cũng mang trong lòng nó mầm mống của sự tiêu vong của nó. Sự cạnh tranh giữa các nước bắt buộc các nước đó một mặt, phái tiêu tốn mỗi năm ngày càng nhiều tiền hơn để duy trì quân đội, hạm đội, đại bác v.v.. do đó ngày càng đẩy mạnh sự sụp đổ về mặt tài chính, mặt khác, là ngày càng coi trọng chế độ nghĩa vụ quân sự phổ biến, và do đó rút cục phải làm cho toàn dân quen với việc sử dụng vũ khí, thành thử đến một lúc nào đó, nhân dân có thể thực hiện được ý chí của mình bất chấp giới chỉ huy quân sự. Và lúc đó sẽ đến, khi mà quần chúng nhân dân - tức là công nhân thành thị và nông thôn, và nông dân có một ý chí. Đến lúc đó, quân đội của vua chúa biến thành quân đội của nhân dân, bộ máy từ chối không làm việc nữa, chủ nghĩa quân phiệt tiêu vong do tính chất biện chứng của chính ngay sự phát triển của nó. Điều mà phái dân chủ tư sản năm 1848 đã không thể thực hiện được chính vì nó là dân chủ tư sản chứ không phải vô sản, - cụ thể là đem lại cho quần chúng lao động một ý chí mà nội dung phù hợp với địa vị giai cấp của họ - thì chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thực hiện được. Và điều đó có nghĩa là chủ nghĩa quân phiệt, và cùng với nó là tất cả những quân đội thường trực, đều bị nổ tung từ bên trong. Đó là một trong những bài học của lịch sử bộ binh hiện đại của chúng ta. Bài học thứ hai làm cho chúng ta lại nghĩ đến ông Đuy-rinh, là toàn bộ tổ chức và phương thức chiến đấu của quân đội, và do đó, thắng lợi và thất bại, đều tỏ ra là phụ thuộc vào những điều kiện vật chất, nghĩa là điều kiện kinh tế, vào chất liệu của con người và của vũ khí, nghĩa là vào chất lượng và số lượng của dân cư và của kỹ thuật. Chỉ có một dân tộc chuyên đi săn như người Mỹ mới có thể phát minh ra lại đội hình bộ binh phân tán - và họ là những dẻ đi săn chỉ vì những lý do thuần tuý kinh tế, cũng như hiện nay vì lý do thuần tuý kinh tế mà cũng chính người Yankee đó của các bang cũ đã biến thành nông dân, nhà công nghiệp, nhà hàng hải và nhà buôn, họ không bắn lẻ tẻ trong những rừng già nữa, nhưng lại càng bắn giỏi trên trường đấu cơ, ở đó họ cũng đã tiến được rất xa trong nghệ thuật sử dụng quần chúng- Chỉ có một cuộc cách mạng như cách mạng Pháp, giải phóng người tư sản và nhất là người nông dân về mặt kinh tế, mới có thể tìm ra được hình thức quân đội có tính chất quần chúng, đồng thời lại tìm ra được cả những hình thức vận động tự do làm cho những đội hình dàn hàng ngang cứng nhắc xưa kia, - phản ánh chủ nghĩa chuyên chế mà những đội hình đó chiến đấu để bảo vệ, ở trong ngành quân sự - phải tan vỡ. Và những tiến bộ về kỹ thuật, một khi chúng đã có thể áp dụng và được áp dụng vào lĩnh vực quân sự, thì lập tức - hầu như là cưỡng bức, thêm nữa, thường là ngược lại ý muốn của cấp chỉ huy trong quân đội- gây ra những sự thay đổi và thậm chí cả những sự đảo lộn trong phương thức tác chiến như thế nào- điều đó chúng ta đã thấy trong tất cả mọi trường hợp xem xét trên đây. Ngoài ra, việc tiến hành chiến tranh phụ thuộc vào năng suất và vào phương tiện giao thông ở hậu phương của một nước cũng như ở chiến trường như thế nào, điều ấy ngay hiện nay bất kỳ một hạ sĩ quan chăm chỉ nào cũng có thể giải tích cho ông Đuy-rinh rõ. Tóm lại, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, những điều kiện kinh tế và tài nguyên kinh tế đều là những cái đã giúp cho "bạo lực" chiến thắng, nếu không có những điều kiện và tài nguyên đó thì bạo lực không còn là bạo lực nữa, và kẻ nào muốn đứng trên một quan điểm ngược lại để cải cách quân sự, theo những nguyên tắc của ông Đuy-rinh, thì kẻ đó chỉ có thể ăn đòn mà thôi (1). Nếu bây giờ chúng ta đi từ đất liền ra biển, thì chỉ riêng hai mươi năm qua cũng cho chúng ta thấy một sự đảo lộn có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Chiếc chiến hạm trong cuộc chiến tranh Crưm [61] là thứ chiến hạm hai boong hay ba boong bằng gỗ, có từ 60 đến 100 khẩu đại bác, chủ yếu còn chạy bằng buồm và chỉ có một máy hơi nước yếu để làm công việc phụ. Chiến hạm đó thường chỉ có những cỗ đại bác 32 pao với một nòng nặng chừng 50 tạ và chỉ vài cỗ 68 pao nặng 95 tạ. Vào cuối cuộc chiến tranh đó, xuất hiện những pháo đài nổi bọc thép, những con quái vật nặng nề gần như không di động, nhưng không thể nào công phá nổi đối với pháo binh hồi bấy giờ. Chẳng bao lâu việc bọc thép cũng được áp dụng vào chiến hạm; lúc đầu thép còn mỏng, dày độ 4 in - sơ thì đã là một vỏ thép hết sức nặng rồi. Nhưng chẳng bao lâu sự tiến bộ của pháo binh lại vượt vỏ thép; cữ mối lần thay đổi chiều dày của vỏ thép, thì lại xuất hiện một thứ đại bác mới, nặng hơn và dễ dàng bắn thủng vỏ thép đó. Như vậy, hiện nay chúng ta đã thấy có, một mặt, những vỏ thép dày từ 10,12,14,24 in -sơ (nước Ý có ý định đóng một chiếc tàu có vỏ thép dày 3 phút ); và mặt khác lại thấy có những đại bác có nòng xé rãnh nặng 25,35,80 và đến cả 100 tấn ( mỗi tấn 20 tạ ) và bắn những viên đạn nặng từ 300-400, 1700 cho đến 2000 pao với một cự ly trước kia chưa từng thấy. Tàu chiến nay là một chiếc tầu thủy bọc sắt khổng lồ có chân vịt chạy bằng hơi nước, có trọng tải từ 800 đến 9000 tấn, và từ 6000 đến 8000 sức ngựa, có những pháo đài quay, với 4 và nhiều lắm là 6 cỗ đại bác hạng nặng, và trước mũi tàu, dưới đường mớn nước có một búa đâm nhô ra dùng để đánh đắm các tàu địch; đó là một cái máy khổng lồ duy nhất, trên đó hơi nước không những đẩy tàu chạy nhanh lên phía trước mà còn dùng để lái tàu, hạ và cát neo, xoay các pháo đài, quay súng và lắp đạn, bơm nước, hạ hay cắt ca-nô - bản thân những ca-nô này một phần cũng dùng hơi nuớc để chạy v.v.. Và việc chạy đua giữa vỏ thép và hiệu lực của đại bác còn lâu mới chấm dứt, đến mức là hiện nay, mỗi một chiếc tàu hầu như thường thường không sao đáp ứng được những yêu cầu đề ra cho nó và trước khi hạ thuỷ thì đã lỗi thời rồi. Tàu chiều hiện đại không những là một sản phẩm mà đồng thời còn là một kiểu mẫu của nền công nghiệp lớn hiện đại, một nhà máy nổi tuy chủ yếu là một nhà máy sản xuất việc lãng phí tiền bạc. Nước nào trong đó công nghiệp lớn phát triển nhất, thì hầu như nắm độc quyền đóng những hạng tàu đó. Tất cả những thiết giáp hạm Thổ, hầu hết các thiết giáp hạm Nga, phần lớn các thiết giám hạm Đức đều đóng ở Anh; những tấm vỏ thép ít nhiều có thể dùng được hầu hết chỉ được chế tạo ở Sheffield; trong số ba nhà máy luyện kim có thể đúc được những đại bác hạng nặng nặng nhất ở châu âu, thì hai cái ( Wiilwwick và Elswick ) là ở Anh, còn cái thứ (Krupp) là ở Đức. ở đây người ta thấy một cách cụ thể nhất rằng vì sao mà "bạo lực chính trị trực tiếp" mà ông Đuy-rinh cho là "nguyên nhân quyết định của tình hình kinh tế", trái lại, lại hoàn toàn phục tùng tình hình kinh tế; rằng tại sao không những việc chế tạo, mà cả việc sử dụng công cụ bạo lực trên mặt biển, tức là tàu chiến nữa, cũng đều trở thành một ngành đất của nền công nghiệp lớn hiện đại. Và không ai khó chịu về sự diễn biến như thế của tình hình hơn là chính bản thân bạo lực, tức là nhà nước vì hiện nay mỗi chiếc tàu cũng tốn bằng cả một hạm đội nhỏ trước kia, nhà nước ấy phải tận mắt thấy rằng những chiến tầu đắt tiền đó, ngay trước khi hạ thuỷ cũng đã trở thành lỗi thời rồi, nghĩ là đã mất giá trị và nhà nước chắc chắn cũng cảm thấy bực dọc chẳng kém gì ông Đuy-rinh khi thấy rằng trên boong tàu con người của "tình hình kinh tế", tức là người kỹ sư, bây giờ lại quan trọng hơn con người của " bạo lực trực tiếp", tức là thuyền trưởng. Trái lại, chúng ta thì hoàn toàn không có lý do gì để bực bội khi thấy rằng trong cuộc chạy đua ấy giữa vỏ thép và đại bác, tàu chiến được cải tiến đến mức hoàn thiện và tinh vi khiến cho nó trở thành quá đắt cũng như trở nên không thích dụng đối với chiến tranh(1), và thấy rằng cho đến cả trong lĩnh vực chiến tranh trên mặt biển, cuộc đấu tranh đó cũng bộc lộ những quy luật nội tại của sự vận động biện chứng, theo nó thì chế độ quân phiệt, cũng như bất cứ mọi hiện tượng lịch sử khác, đều tiêu vong vì những hậu quả của sự phát triển của chính nó. Vậy là cái ở đây nữa, chúng ta thấy rõ như ban ngày rằng, phải "tìm cái có trước trong bạo lực chính trị trực tiếp chứ không phải trong một lực lượng kinh tế gián tiếp" - là một điều không thể làm được. Trái hẳn lại. Thật vậy, cái gì mới chính là "cái có trước" của bản thân bạo lực? đó là lực lượng kinh tế, tức là việc nắm được những phương tiện mạnh mẽ của công nghiệp lớn. Bạo lực chính trị trên mặt biển, - dựa vào các tàu chiến hiện đại - tỏ ra hoàn toàn không phải là "trực tiếp", mà chính là do lực lượng kinh tế, do sự phát triển cao của ngành luyện kim, của khả năng chi phối được những nhà kỹ thuật khéo léo, và những mỏ than dồi dào. Nhưng nói đến những cái đó để làm gì? Trong cuộc chiến tranh sắp tới trên mặt biển, cứ hãy để cho ông Đuy-rinh làm tổng chỉ huy là ông sẽ tiêu diệt được tất cả những hạm đội thiết giám còn bị nô lệ vào tình hình kinh tế, không phải dùng đến ngư lôi hay quỷ kế gì khác, mà chỉ cần đến cái phép mầu "bạo lực trực tiếp" của ông ta mà thôi.