Khi Karik và Valia bước vào đường phố thì trời đã tối. Những ánh lửa vàng chiếu sáng trên cửa sổ các căn nhà. Đường phố vắng tanh. Ở đâu rất xã có tiếng trẻ con la hét. Chắc hẳn chúng đang chơi trò kỵ binh Kozak đuổi bọn cướp. Một vầng sáng đèn điện màu xanh lơ chiếu xuống khu vườn rẩm rạp mang tên “Vườn quốc tế cộng sản”. Tiếng ca nhạc âm vang, những cái đu kêu cót két. Mọi người đang cười nói ầm ĩ trong vườn. Tiếng chuông reo vui vẻ và tiếng kèn vang lên như vẫy gọi. Karik lắng nghe rồi nói: - Có cuộc vui ở vườn hoa. Như vậy hôm nay là ngày nghỉ. Valia hỏi: - Thế chúng mình mất tích hôm nào? - Lâu lắm rồi. Valia thở dài: - Chắc độ hai tuần lễ. Thế mà cứ tưởng như mấy năm trôi qua. Vườn hoa cách nhà không xa lắm. Valia đề nghị: - Chúng ta chạy đi nào! - Đồng ý! Nhưng chúng vừa mới chạy được mấy bước thì từ dưới cổng một ngôi nhà lớn có một con cho tai rách, chân cong, lông lấ xù xì nảy xổ ra. Nó sủa váng lên, lao vào Karik và Valia định cắn chân chúng. Karik ném một hòn đá vào con chó. Con chó rít lên cụp đuôi lại lẩn vào trong cổng. Có ai đó hét lên ở trong cổng. - Ê, anh đánh con Tuzik của tao thế? Cánh cổng kể cót két. Một đám trẻ con chạy ra phố. Karik và Valia dừng lại. Một tay giữ quần cho khỏi tụt xuống, tay kia nắm gói lá trong có giáo sư giơ cao lên trên đầu. Karik nói: - Đừng để cho Tuzik của các cậu cắn người. Bọn trẻ tiến lại gần vây chặt lấy Karik và Valia. Một thằng bé mặc ái ghi lê, đút sâu hai tay vào túi tận khuỷu hùng hổ nhổ nước miếng ngắm Karik và Valia từ đầu đến câhn. Nó hỏi giọng nhạo báng: - Người nào thế này? Ở đâu ra những người thế này trong phố của ta nhỉ? Valia rụt rè nói: - Chúng tôi là khách du lịch! Bọn trẻ ồ lên cười. Một đứa kêu lên: - Nó theo mẹ du lịch ở ngoài chợ ấy! - Ấy, sao lại nói thế? Đây là con gái của chính bà hải cẩu bị trôi giạt trên mảnh băng cùng với những người trú đông đấy mà. - Làm gì có chuyện ấy! Nó du lịch dưới gầm bàn ấy mà! Karik cau mày. Cậu ghếch một chân lên trước rồi nói: - Nào, có tránh ra không thì… - Không thì sao? - Lúc đó mày sẽ biết. Bọn trẻ bắt đầu giựt áo sơ mi trên người Valia và quần dài trên người Karik. Valia thút thít khóc: - Thôi đi nào, chúng tôi cần về nhà ngay. Chúng tôi vắng nhà đã lâu rồi. Thằng bé mặc ghi lê hỏi: - Chúng mày ở đâu về thế? - Chuyện ấy không liên quan gì đến mày! – Karik nói. - Nhất định có liên quan chứ. Ở vườn rau nhà tao vừa bị mất hai hình nộm: một hình nộm mặc áo sơ mi, còn hình nộm kia mặc quần dài! Bọn trẻ cười cồ cả lên. Một đưa hết to: - Này các cậu ơi! Lôi chúng ra vườn rau để đuổi chim đi. Karik dũng cảm nói: - Nào, cứ thử xem nào! Cậu giơ nắm tay có giáo sư ở trong, trợn mắt thét lên một tiếng khủng khiếp: - Microgaster Nemorum! Bọn trẻ ngơ ngác nhìn nhau. Valia thét lên: - Triungulina! Karik, rít qua kẻ răng: - Carabus! Một đứa trong bọn trẻ kêu lên sợ hãi: - Trời ơi! Mấy đứa điên! Và cả bọn kéo nhau chạy tản đi mất. Trong bóng tối thấp thoáng những vạt áo trằng, bên phải bên trái tiếng đóng cửa ầm ầm. Trong chớp mắt đường phố lại vắng tanh. Karik thở hổn hển nói: - Đấy, em thấy không, môn sinh vật học cũng có lúc dùng được việc cho ta đấy chứ… Còn bây giờ phải chạy mau về nhà để khỏi gặp ai nữa.. Có lẽ chúng mình cũng giống như hình nộm thật đấy. Karik và Valia chạy như bay, bên tai gió rít vù vù. Nhà cửa, vườn tược, đường phố - tất cả đều lướt qua như trong phim chiếu bóng. Bọn trẻ theo đà chạy lao vào trong sân nhà. Valia thở hổn hển hỏi: - Anh không đánh mất bác Ivan Germogenovich đấy chứ? Karik thận trọng hé mở gói lá ra. - Bác ấy vẫn còn đây, đang ngồi! Sân nhà không một bóng người. Bon trẻ ngẩng đầu, nhìn rất lâu vào những cửa sổ đèn sáng tầng hai. Qua rèm cửa thấy bóng ai đó – bà hay là mẹ - đi từ cái bàn đến tủ bát đĩa. Valia thì thầm: - Đang chuẩn bị ăn chiều. Karik nói: - Thế thì chúng ta đã về đúng bữa! Đi nào! - Chao ôi! Anh Karik! Em sợ lắm… Mẹ sẽ mắng cho một trận. - Thế mà cũng nói! Chả lẽ mẹ đang sợ hon con ong vẽ ư? Bọn trẻ xô đẩy nhau chạy lên cầu thang, dừng lại trước căn hộ số 39. Karik vội vã ấn chuông màu trắng. Tiếng chuông vang lên sau cửa. Sau chừng nữa phút – bọn trẻ tưởng chừng như hàng thế kỷ - nghe thấy tiếng bước chân vội vã. Cái xích cửa kêu loảng xoảng. Cánh cửa mở ra. Mẹ đứng trên ngưỡng cửa. - Các con đấy ư? – mẹ kêu lên và òa ra khóc – Các con yêu quý của mẹ, cho mẹ ông lấy nào! Mẹ hôn các con chùn chụt và xiết chặt chúng trong vòng tay. Valia vùng vẫy kêu lên: - Mẹ ơi, khoan đã nào! Mẹ làm bẹp bác Ivan Germogenovich mất. Mẹ càng khóc to hơn và nói: - Valia ơi, con làm sao thế? Karik nghiêm trang nói: - Khoan đã mẹn, mẹ đừng có khóc. Tốt hơn là mẹ hãy đưa cho con một cái ly nhỏ sach. - Một cái ly nhỏ? Karik gật đầu. - Đúng thế! Để con đặt bác Ivan Germogenovich vào đó, không thì con sợ đánh rơi bác ấy mất. Mẹ đập hai tay vào nhau: - Trời ơi, cả hai đưa điên mất rồi! Làm sao thế hả trời? Xô vào những cái ghế, hất chúng ngã xuống sàn, mẹ chạy lại bên máy điện thoại nhấc ống nói lên, giọng đầy nước mắt: - Xe cấp cứu! Nhanh lên! Ngay lập tức. Cái gì thế? Địa chỉ nào cơ chứ? À, địa chỉ của chúng tôi ấy à? Karik giằng lấy ông nói từ tay mẹ rồi nói: - Khoan đã mẹ, bác ấy chỉ cần một cái ly thôi mà mẹ gọi cả một cái xe cấp cứu… Cái đó có ích gì? Rồi bác ấy sẽ lạc trong xe và lang thang cả năm trời trong đó mất… Tốt nhất mẹ đưa con cái ly nhỏ. Mẹ sợ hãi bước lùi lại. Bà sực nhớ ra là đối với người điên thì phải theo ý họ, không nên làm họ giận dữ. Bởi vậy bà lẳng lặng lấy cái ly ở trong tủ ra đưa cho Karik, mặt đầm đìa nước mắt. Bà nén thở chờ đợi xem Karik sẽ làm gì. Trong khi đó cậu bé trải cái lá mã đề đã nhàu nát ra, đặt cái ly nằm nghiêng rồi nói: - Bác Ivan Germogenovich ơi! Bác chuyển sang cái lâu đài pha lê này đi! Đột nhiên mẹ nhìn thấy trên mặt lá có một “con sâu” đi hai chân chạy rất nhanh vào trong cái ly. Karik từ từ nâng cái ly đứng trở lại rồi đặt lên bàn. - Bác ở đó có tiện không ạ? Cậu hỏi rồi sau đó ghé sát tai vào miệng ly. Trong ly có tiếng chiêm chiếp. Karik nói: - Vâng ạ! Cháu sẽ đậy chiếc khăn sạch lên lâu đài pha lê và đút một nhúm bông vào cho bác làm đệm. Bây giờ bác cứ nghỉ đi. Mẹ mỉm cười qua hàng nước mắt: - Bây giờ thì mẹ hiểu rồi. Lại một trò chơi mới chứ gì. Thế còn con sâu mà con bỏ trong ly là con gì vậy? Karik tức giận: - Con sâu à? Mẹ nói hay thật đấy!... Sao mẹ dám gọi nhà bác học là con sâu? Mẹ cười vui: - Mẹ hiểu rồi, trong trò chơi của con thì gọi nó là nhà bác học chứ gì. - Không phải trong trò chơi mà trong cả nên khoa học của thế giới… cũng không phải là “nó” mà là “bác ấy”. - Thôi được, đưa mẹ xem nào! Mẹ cúi khom mình nhìn vào cái ly. Bà tưởng sẽ trông thấy một con côn trùng nào đó. Đột nhiên bà kêu thất thanh: - Con vật… hình người! Karik nói: - Không phải là vật hình người đâu mẹ ạ. Đó là vị giáo sư của chúng ta, bác Ivan Germogenovich. Bác ấy chế ra một chất lỏng biến bác ấy thành bé lại như vậy. Chúng con cũng đã được biến thành hỏ như vậy. Sau đó chúng con ăn một thứ bột kỳ diệu và lớn trở lại. Nhưng thứ bột đó không đủ cho bác Ivan Germogenovich. Tuy nhiên ở trong phòng làm việc của bác ấy thì vẫn còn thứ bột đó. Chúng con bay agiờ sẽ đưa bác ấy lại đó để bác to trở lại. Mẹ kinh ngạc nghe bọn trẻ nói và cuối cùng hiểu ra rằng các con bà không bị điên. Bà nói: - Các con ạ, nhưng mà căn nhà của bác Ivan Germogenovich được công an niêm pong lại rồi. Chúng ta sẽ phải đợi tới sáng. Con nói với bác ấy như vậy đi. Karik nói rõ nhưng rành rọt tất cả những điều đó giáo sư nghe. Ivan Germogenovich vui vẻ lí nhí nói: - Không sao đâu cháu Karik ạ! Bác ở đây cũng tốt chấn… Ta sẽ đợi đến sáng mai. Karik ngẩng đầu lên nói với mẹ: - Chúng ta sẽ đợi đến sáng. Trong cái ly có tiếng chiêm chiếp. Karik lắng nghe rồi nói: - Mẹ ngồi xuốgn đây đi. Bác Ivan Germogenovich bảo con kể lại cho mẹ nghe hết mọi chuyện… Mẹ ngoan ngoãn ngồi xuống. Karik hắng giọng, chậm rãi kể lại những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của ba khách du lịch trên mặt đất và dưới mặt đất, trên mắt nước và dưới mặt nước, giữa trời và đất, trong không khí, trong rừng cây trên núi và trong các hang động. Và cả ba người trong câu chuyện kể đã lập nên những chiến công: họ đã chiến đấu dũng cảm, đã bơi trên biển, bay trong không trung và chui xuống những hang sâu tối đen. Mẹ vừa nghe Karik kể vừa lắc đầu sụt sịt khóc. Đôi khi mẹ cũng cười vui, nhưng thường thì mẹ lặng người không dám thở, mở to mắt vì hồi hộp sợ hãi. Mẹ lấy khăn tay chùi nước mắt rồi nói: - Các con tội nghiệp của mẹ! Các con phải trải qua biết bao nỗi gian truân khổ sở. Lát nữa bà về nghe chuyện bọn con chắc sẽ kêu trời lên vì ngạc nhiên. Karik nói: - Mẹ à, con nghĩ không nên kể cho bà nghe về những cuộc phiêu lưu của chúng con. Mẹ suy nghĩ một lát rồi mỉm cười: - Con nói có lý – mẹ nói – bà già yếu rồi, nghe những chuyện như vậy chắc là có hại. Mẹ sẽ nói với bà là các con ở chơi đằng bác Pjotr Andrejevich… Bây giờ các con muốn ăn gì nào? Valia nói: - Mẹ ơi, bây giờ thì bọn con ăn hết mọi thứ, gì cũng ngon cả. Mẹ lo tíu tít. Tiếng chén bát khua vang. Lửa reo vui trên bếp hơi. Trong khi bọn trẻ tăm rửa thay quần áo, mẹ dọn thức ăn lên bàn. Trên bàn có món trứng rán với giăm bông, thịt gà luộc để nguội, rau xà lách, phó mát và một núi bánh mì thơm tho mềm mại. Mẹ đứng trước tủ đồ ăn lưỡng lự hồi lâu rồi mở cánh cửa tủ bằng kính, lấy ra một chai rượu sẫm có hàng chữ vàng ở trên đề “Rượu vang”. Mẹ nói: - Thoi cũng được. Nhân dịp này cho các con uống một chút vang pha với nước nóng cũng không sao. Khi các mon ăn đã dọn xong, mọi người ngồi xuống quanh bàn. - Thưa bác Ivan Germogenovich! Xin mời bác ngồi vào bàn! – Karik nói và trịnh trọng đặt chiếc ly có giáo sư ở trong khoảng giữa chiếc đĩa ăn của cậu và của Valia. Karik cắt một mẫu phó mát và bỏ vào trong lý rồi nói: - Xin mời bác ăn. Trong ly có tiếng chiêm chiếp. - Bác ấy xin bánh mì đấy! Làm sao mời bác Ivan Germogenovich uống rượu vang đươc bây giờ? Karik đứng phắt dậy kêu lên: - Con biết rồi, chúng ta đổ rượu vào cái vỏ đạn. Cậu chạy vào phòng lấy ra một cái vỏ đạn súng trẻ con bằng giấy. Mẹ rót một giọt rượu vang vào đó rồi Karik thận trọng đặt nó xuống đáy ly. Một lát sau mỗi người ăn uống rất vui vẻ. Karik nâng cái ly nước nóng co hòa chút rượu vang lên và nói: - Cháu xin chúc sức khỏe bác Ivan Germogenovich! Valia kêu lên: - Chúc mừng cuộc du lịch của chúng ta! Mọi người chạm cốc rồi cùng nhau ăn uống. Giáo sư cũng không bỏ phí thời gian. Ông ăn phó mát và uống rượu vang. Một lát sau mọi người đi ngủ. Karik và Valia thở đều đặn trên giường nệm trắng tinh. Giáo sư cuộn mình trong miếng bông ngủ ngon lành. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, giấc ngủ của họ mới trở lại bình yên. Không có gì đe dọa họ nữa. Ngày hôm sau Ivan Germogenovich ngồi trong phòng làm việc của mình như không hề có chuyện gì xảy ra. Mười phóng viên chụp ảnh giáo sư ghi vào sổ tya những cuộc phiêu lưu kỳ diệu của ông. Ít lâu sau trong một tạp chí nọ in một bài báo tuyệt diệu cùng với ảnh của giáo sư kể về mọi chuyện này. Có ai đó tung tin đồn tựa như giáo sư Enotov học được cách biến con voi thành con ruồi. Sau đó người ta lẫn lộn lung tung lại nói rằng: “Ông ta làm con ruồi thành con voi”(1). Nào ai biết được! Biết đâu chẳng có một ông giáo sư làm con ruồi thành con voi. Nhưng tôi không biết gì hết nên chẳng dám nói. Bởi vì tôi không thích viết về những chuyện mà chính mắt tôi chưa thấy bao giờ. Dịch theo nguyên bản tiếng Nga (Nhà xuất bản Thiếu Nhi Leningrat 1957)Chú thích: (1) Trong tiếng Nga có thành ngữ: “Làm con ruồi thành con voi” ý nói sự việc bé xé ra to. Ở đấy tác giả có ý đùa nghịch chơi chữ. (ND) HOÀN TẤT