Trong lúc tiếp tục cuộc truy đuổi “Albatros”, Êrik đã ra lệnh chuẩn bị khẩu đại bác đặt trên mũi "Aljaska" sẵn sàng chiến đấu. Việc này choán mất không ít thời gian. Khi các thủy thủ gỡ tấm áo phủ bằng vải tẩm nhựa ra khỏi khẩu súng, nạp đạn và nhằm mục tiêu thì kẻ địch đã ra ngoài tầm súng. Tất nhiên, nó không quên lợi dụng sự trắc trở của đối phương để tăng tốc độ giới hạn và bứt khỏi tàu đang truy đuổi nó ba - bốn hải lý. Quả thật, khoảng cách ấy đối với súng đại bác không phải là không khắc phục nổi, nhưng sự tròng trành, tốc độ chạy nhanh của cả hai tàu và sự hạn hẹp của mục tiêu di động đã làm cho viên đại bác không trúng đích, mà rơi xuống nước. Tốt hơn là đợi đã, nhất là bây giờ đây khoảng cách giữa cả hai tàu tuy chưa rút ngắn lại nhưng không tăng lên nữa. Kinh nghiệm cho thấy khi cả hai tàu cùng chạy hết tốc lực thì tốc độ chạy sẽ như nhau. Cự ly của chúng sẽ không thay đổi trong suốt nhiều giờ. Nhưng, muốn vậy thì phải chịu hao phí nhiều than, mà số lượng than dự trữ trên tàu “Aljaska” đã bị tiêu hao rất nhanh. Cũng cần phải đề phòng: hao phí than quá mức như vậy sẽ không có lợi nếu không đuổi kịp "Albatros" trước khi đêm xuống. Êrik không cho phép mình được mạo hiểm quả như thế nếu không trao đổi trước với cả đoàn. Chàng cho kêu mọi người lên boong và thẳng thắn thông báo hết tình hình sự việc. - Thưa các bạn của tôi - chàng nói - các bạn biết tình huống đặt ra rồi đó: hoặc là chúng ta sẽ bắt được và giao cho toà án hàng hải tên đê tiện đã âm mưu giết hại chúng ta ở Bas-Fruađ, hoặc là chúng ta để hắn trốn mất. Than của chúng ta đủ cho nhiều nhất là sáu ngày đêm. Bất kỳ một đoạn đường đi chệch hướng nào cũng đều bắt chúng ta sau đó phải chạy bằng buồm mà như vậy thì có thế cản trở việc hoàn thành thắng lợi cuộc hành trình. Mặt khác, “Albatro” chỉ đợi đêm xuống là đánh lạc hướng chúng ta. Bởi vậy chúng ta phải luôn luôn bám sát nó qua ánh sáng đèn pha, không được chậm trễ một phút nào. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng chẳng bao lâu nữa sẽ phải chấm dứt cuộc truy đuổi thôi, bởi vì ngày mai hoặc ngày mốt chúng ta sẽ đến vĩ tuyến 78-79, là vùng có băng vĩnh cữu sẽ chặn mọi con đường đi đến cực. Nhưng tôi không muốn tiếp tục cuộc truy đuổi nếu không được sự đồng ý của các bạn và không thông háo cho các bạn biết tất cả những khó khăn mà chúng ta có thể sẽ gặp phải. Các thuỷ thủ hội ý nhỏ với nhau và giao cho bác Hecsêbom phát biểu thay mặt cho cả đoàn. - Chúng tôi cho rằng, trách nhiệm của "Aljaska" là phải hy sinh tất cả để tóm được tên đê hèn ấy - Ông già bình tĩnh nói. - Thế thì tuyệt! Chúng ta sẽ làm tất cả để đạt bằng được điều ấy - Êrik đáp. Sau khi đã nhận rõ là các thủy thủ đều đứng về phía mình, Êrik không tiếc nhiên liệu, và không để cho Tuyđôr Braun có thể bứt xa khỏi "Aljaska", mặc dù những cố gắng tuyệt vọng của hắn. Mặt trời vừa lặn, trên đỉnh cột buồm "Aljaska" ánh đèn pha đỏ rực sáng rọi thẳng vào “Albatros” để đến lúc rạng đông không cho nó biến khỏi tầm mắt dõi theo. Suốt đêm, cự ly giữa hai tàu không thu ngắn lại. Sáng ra, cả hai vẫn lao nhanh về vùng cực như cũ. Đến trưa, tọa độ của "Aljaska" đã được xác định theo mặt trời là: 780 21' 14" vĩ Bắc và 980 kinh Đông. Những tảng băng trôi mà suốt hai tuần lễ vừa qua không hề gặp thì bây giờ thấy mỗi lúc một thường xuyên hơn. Không ít trường hợp đã phải dùng búa để đập phá băng như đã có lần làm ở vịnh Barfiôv. Êrik tin chắc rằng chẳng bao lâu nữa sẽ xảy ra hiện tượng băng ùn lại, nên chàng cho "Aljaska" quay chếch về phía trên phải "Albatros" một chút để cản đường nó về hướng Đông, nếu nó định đổi hướng, khi đường lên phía Bắc bị nghẽn. Sự phòng xa ấy đã tỏ ra hoàn toàn đúng, bởi vì đến hai giờ chiều, nơi chân trời đã thấy xuất hiện một lớp băng cản đường khá dài. Chiếc tàu Mỹ quay ngay về hướng Tây, bỏ lại phía mạn tàu bên phải những đám băng chồng chất, kéo dài bốn năm hải lý. “Aljaska” liền chỉnh hướng theo, nhưng lần này chếch sang bên trái “Albalros” để cắt đường nó có thể tháo lui về hướng Nam. Cuộc truy đuổi mỗi lúc một trở nên căng thẳng hơn. Dựa theo hướng đi bắt buộc của "Albatros”, "Aljaska" định đuổi kịp nó ở phía sườn, vì vậy đã ép nó mỗi lúc một sát hơn vào mép bãi băng. Chiếc tàu Mỹ sau khi bị mất hướng đi cũ, chốc chốc lại bị vướng băng trôi, nên đã buộc phải thường xuyên chạy nương theo gió, lúc phóng thẳng về phía Bắc, lúc lại cua gấp về phía Tây. Từ trên “tổ quạ”, Êrik đang tập trung theo dõi sự di động của kẻ địch, sẵn sàng đối phó với mọi cách đi của nó, thì bỗng "Albatros" dừng lại đột ngột và quay mũi về phía "Aljaska". Vùng băng trăng kéo dài về phía Tây đã giải thích lý do của sự chỉnh hướng này: "Albalros" bị sa vào một cái vịnh thực sự được hình thành giữa ngay các đường khúc khuỷu của bãi băng, và như một con thú dữ bị dồn đến đường cùng, nó quay mặt lại phía địch thủ. Chàng thủy thủ trẻ của "Aljaska" chưa kịp tụt xuống boong thì một viên đại bác đã vút qua đầu anh với tiếng rít hung dữ. Thế nghĩa là "Albatros" cũng được trang bị súng và quyết định tự vệ. - Nếu hắn đã nổ súng trước thì như thế càng hay! - Êrik nói thầm và ra lệnh phát hỏa. Nhưng phát đạn đại bác của chàng cũng không may mắn hơn phát đạn của Tuyđor Braun. Đạn rơi cách đích hai trăm mét. Cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt, súng bắn mỗi lúc một trúng đích hơn. Đạn đại bác Mỹ cưa đứt trục buồm lớn của "Aljaska", nổ tung trên boong giết chết hai người, trong khi đó đại bác Thụy Điển rơi trúng ngay vào mũi tàu "Albatros" và có lẽ đã gây thiệt hại lớn. Những phát đạn bắn liên tục từ phía bên này và bên kia đã làm hỏng nặng phần mui và trang bị dây buồm của hai tàu. Dần dần hai tàu đã xích lại gần nhau và mỗi khi bắn trả đại bác vào nhau lại phải quay đi thật nhanh. Nhưng kìa, có tiếng ầm ầm nào đó từ xa vọng lại đã bắt đầu át tiếng gầm của đại bác. Mọi người ngẩng đầu lên, thấy bầu trời ở hướng Tây trở nên đen kịt. Chẳng lẽ cuồng phong, sương mù hay bão tuyết sẽ giúp Tuyđor Braun chạy trốn chăng? Tất cả đều có thể, nhưng Êrik không thể để như thế được! Và chàng đã quyết định xông thẳng vào chiếc tàu Mỹ. Sau khi chuẩn bị cho mọi người kiếm, rìu và dao găm, Êrik cho tàu chạy với tốc độ tối đa, đâm thẳng vào "Albatros". Nhưng Tuyđor Braun không chịu để bị tấn công. Hắn kịp thời cho tàu lui lại và chạy dọc theo bờ băng, cứ năm phút lại nã một phát đạn đại bác sang "Aljaska". Song phạm vi của hắn bây giờ đã bị thu hẹp. Bị kẹp trong gọng kìm giữa một bên là bãi băng và một bên là “Aljaska”, hắn quyết định thực hiện một hành động tuyệt vọng để thoát ra biển khơi. Để đạt được ý đồ ấy hắn đã làm một vài động tác giả, hy vọng che mắt đối phương. Êrik không cản đường hắn. Nhưng đúng lúc "Albatros" đang chạy hết tốc lực và vào đúng tầm, "Aljaska" đã bổ búa thép vào nó. Cú bổ ấy như trời giáng. Thân chiếc tàu buồm hoác ra vết thương to tướng. Sau giây lát uể oải, "Albatros" nằm bất động, hầu như mất hết mọi khả năng cơ động. Trong khi ấy, "Aljaska" vội lui trở lại và chuẩn bị một cuộc tấn công mới. Không nên chậm trễ nữa, bởi vì biển đã bắt đầu đe dọa mỗi lúc một nguy hiểm hơn. Bão đã bắt đầu. Trận gió giật cuốn theo tuyết từ hướng Đông Nam ập đến. Gió chẳng những tạo nên những con sóng quái đản, mà còn xua những tảng băng vào trong vịnh, nơi cả hai chiếc tàu như bị kẹt vào trong miệng phễu. Những tảng băng trôi tưởng chừng như từ khắp nơi trên trái đất đổ dồn về đây, Êrik hiểu rằng bây giờ không thể để phí một phút nào hết, mà phải tìm mọi cách thoát khỏi các cạm bẫy này, nếu không "Aljaska" có thể bị kẹt trong đó và sẽ bị kẹt mãi. Sau khi cho tàu quay về hướng Đông, bây giờ chàng chỉ còn nghĩ cách đối phó với gió, tuyết và "đạo quân" băng đang ầm ầm kéo đến. Nhưng, chẳng bao lâu chàng đã biết chắc rằng không thể nào thoát ra biển khơi được nữa. Bão đã điên cuồng nổi lên với mức độ hung dữ, đến cả máy móc của "Aljaska" lẫn búa thép của nó cũng đều không sao chống cự nổi. Con tàu chuyển dịch hết sức khó khăn, có lúc buộc phải lui lại nhiều mét. Các cột buồm bật lên tiếng rên thảm hại dưới sức ép của gió. Tuyết dày đặc che tối bầu trời và làm lóa mắt mọi người đã phủ một lớp dày lên boong và dây buồm. Băng ùn lại mỗi lúc một nhiều trong cái vịnh hẹp, mỗi khi cơn gió giật ào tới, lại tạo thành những vật cản mới không thể nào vượt qua. “Aljaska” buộc phải tránh vào bờ bãi băng và gần như cố tìm lấy một cái vũng nào đó để trú đợi bão tan. Trong khi ấy, chiếc tàu buồm Mỹ bị mất hút trong bão tuyết, tình trạng thảm thương của nó sau khi bị ăn búa của "Aljaska" khiến mọi người tin rằng nó chẳng thể nào chống chọi nổi với bão. Càng khó dự đoán rằng nó đã kịp thoát ra ngoài khơi. Vả lại, tình hình trở nên hết sức nguy kịch bắt buộc Êrik bây giờ không phải quan tâm đến việc truy lùng kẻ địch nữa, mà phải lo cứu "Aljaska". Mối nguy hiểm mỗi lúc một tăng thêm. Không có gì đáng sợ hơn những trận bão Bắc cực này, khi những sức mạnh thiên tai hình như chỉ cốt thức tỉnh lại để cho các nhà hàng hải cảm thấy được rằng thời kỳ băng hà xưa kia khủng khiếp như thế nào. Trời tối như bưng, mặc dù đồng hồ mới chỉ năm giờ chiều. Vì máy hơi nước đã ngưng chạy nên chẳng nghĩ đến việc bật đèn pha làm gì. Hòa với tiếng bão hú ù ù, với tiếng sấm rền vang, với tiếng băng trôi va đập vào nhau chan chát là tiếng băng vỡ rầm rầm vang lên tứ phía từ lúc chập tối. Mỗi khi hình thành một vết nứt mới thì tiếng bão hú lại bị tiếng băng nổ rầm rầm, chẳng khác gì tiếng đại bác gầm lên, át hắn đi. Tần số của những tiếng nổ ấy đã chứng tỏ rằng vô số kẽ nứt đã được tạo nên. Chẳng mấy chốc đến lượt chính "Aljaska" lại bị hứng đòn. Vùng biển nơi nó trú bão, chẳng lớn gì cũng đầy ắp băng trôi y như tất cả các eo khác. Phía trước mũi tàu mọc lên bức tường băng dường như được tuyết rơi xuống liên tục gắn kết lại thành dày đặc. "Aljaska" đã sa vào cảnh bị giam hãm. Tiếng thân tàu kêu cót két hòa lẫn với tiếng băng vỗ ẫm ầm ép vào nó từ khắp phía. Tưởng chừng sườn tàu sắp bị bẹp dúm tới nơi, như một cái vỏ trứng vậy. Và, điều ấy chắc chắn đã có thể xảy ra, nếu như người ta không gia cố trước cho nó để đề phòng trường hợp bị sức ép kinh khủng như thế này. Êrik đã quyết định chiến đấu chứ không chịu bó tay đầu hàng. Chàng tập trung tất cả mọi người để xây dựng quanh tàu một hàng rào bằng những súc gỗ nặng đóng thẳng xuống nhằm tùy theo khả năng mà có thể giảm nhẹ bớt lực ép của băng và phân tán đều nó trên một bề mặt rộng hơn. Nhưng những cọc chống này, thực chất là những trụ bảo vệ thân tàu, chẳng mấy chốc đã gây nên một hiểm họa khác không lường trước, có thể gây ra chết người. Con tàu đáng lý bị đè bẹp thì bây giờ, mỗi khi bãi băng bị chấn động dù nhỏ mấy nó cũng bị tung lên khỏi mặt nước, rồi giáng xuống băng như búa hổ. Cứ mỗi lần bị đập kinh khủng như vậy lại thấy con tàu như sắp có thể vỡ toác, bị dò, chìm đến nơi. Để chống lại hiểm họa này chỉ có một cách, nếu được thì gia cố, liên tục gia cố hàng rào che chắn bằng băng và tuyết, tốt xấu thế nào chưa rõ, nhưng dẫu sao thì nó cũng bảo vệ cho thân tàu, gắn với tàu thành một khối gần như thống nhất. Tất cả mọi người đều làm việc hết sức hăng hái. Thật đúng là một cảnh cảm động! Một dúm người “chim chích” với sự giúp sức của những chiếc mõ neo, cọc gỗ và dây cáp định chống chọi với thiên tai bão táp hoành hành! Con người đã kịp thời bịt kín các lỗ thủng, đã lèn tuyết vào những khoảng trống giữa mạn tàu và bức tường che chắn bằng băng... Sau bốn hoặc năm giờ lao động vượt quá sức người, tất cả đều đã kiệt sức, nhưng hiểm họa vẫn không giảm đi chút nào, bởi vì bảo vẫn hoành hành dữ dội hơn. Sau khi trao đổi với các sĩ quan, Êrik đã ra lệnh cho dỡ lương thực và đạn dược, dụng cụ xuống bãi băng, đề phòng trường hợp "Aljaska" không chịu nổi những cú dập khủng khiếp ấy. Tuy nhiên ngay từ lúc bão bắt đầu, mỗi thành viên của đoàn đều đã được phát tài liệu hướng dẫn cần phải làm gì nếu xảy ra tai nạn, và được cấp tận tay khẩu phần ăn cho một tuần. Ngoài ra, mọi người đã được lệnh đeo vũ khí ngang vai mà ngay lúc làm việc cũng không định bỏ ra. Dỡ xuống băng hai mươi thùng phuy lớn đâu phải dễ dàng gì, nhưng cuối cùng họ cũng đã làm được! Các thứ lương thực, dụng cụ đã được xếp cách tàu 200 mét, che bằng vải bạt tráng nhựa. Chẳng mấy chốc tấm vải đậy cũng đã được phủ lên một lớp thảm tuyết xốp. Các biện pháp đề phòng do Êrik đưa ra đã làm cho mọi người yên tâm phần nào. Nếu xảy ra tai nạn đắm tàu thì họ cũng không bị đe dọa chết ngay. Các thủy thủ ngồi vào bàn, bồi dưỡng sức khỏe bằng một bữa ăn thêm buổi tối và uống trà với rượu rum. Đang lúc ăn tối thì một cú chấn động bất ngờ còn mạnh hơn tất cả những lần trước đã làm rung chuyển các bãi băng đến mức lớp băng và tuyết mà "Aljaska" đang nằm trên đó đã bị vỡ ra vì sức ép quái đản ấy. Bị ép ở phía đuôi, con tàu vổng lên kêu răng rắc, rồi dập mũi chúi sâu dưới nước, tưởng như chìm luôn xuống đáy biển. Mọi người bắt đầu hốt hoảng lao lên boong. Có mấy người cho rằng tạm thời thì cách thoát thân ở trên băng còn chưa muộn, nên đã nhảy ra khỏi mạn tàu mà không đợi có lệnh của thuyền trưởng. Bốn hay năm người trong số những người không may ấy đã được cứu thoát bởi vì họ ngã xuống tuyết, còn hai người khác thì lại mắc vào khe giữa vỉa băng và lớp ván bọc mạn tàu bên phải đúng lúc con tàu rít lên ken két và nằm thẳng ra trở lại trạng thái cân bằng. Những tiếng la hét tuyệt vọng và tiếng xương người gãy kêu răng rắc đều bị át đi bởi tiếng hú ầm ầm của bão tố... Im lặng đã trở lại, con tàu nằm bất động. Bài học bi thảm như thế đó, Êrik một lần nữa đề nghị với toàn đoàn giữ bình tĩnh và trong mọi trường hợp chỉ hành động theo lệnh của những người chỉ huy. - Các bạn hiểu cho - chàng nói với những người cùng đi của mình - Nhảy xuống, đó là một biện pháp đặc biệt, chỉ khi nào thật cần thiết mới buộc chúng ta phải áp dụng đến nó. Mọi nỗ lực của chúng ta đều phải hướng vào việc cứu "Aljaka"! Nếu chúng ta để mất nó thì tình hình của chúng ta sẽ còn tệ hơn nữa kia! Chúng ta sẽ chỉ rời tàu trong trường hợp nó hoàn không thể dùng được nữa. Nhưng ngay cả khi rủi ro như vậy thì việc rời tàu cũng được tiến hành một cách bình tĩnh: nếu không sẽ không tránh khỏi bị tai nạn! Tôi khuyên các bạn hãy trở lại buổi ăn tối dở dang, các sĩ quan hãy quan tâm đến các hoạt động tiếp theo. Thái độ kiên quyết thể hiện qua những lời lẽ ấy đã làm yên lòng ngay cả những người nhút nhát nhất và các thủy thủ đã đi xuống phòng của đội tàu. Sau đó, Êrik mời bác Hecsêbom đến, yêu cầu bác cởi xích con chó Klass trung thành ra và lặng lẽ đi theo nó. - Chúng ta đi xuống bãi băng - chàng khẽ giải thích - đi tìm những người chạy trốn đưa về tàu, và kêu gọi họ có ý thức trách nhiệm. Như thế sẽ tốt hơn là bỏ mặc họ. Những thủy thủ tội nghiệp lấy làm xấu hổ về sự non gan của mình. Họ vẫn còn ở trên rìa bãi băng. Nghe thuyền trưởng yêu cầu họ liền trở lại “Aljaska”. Sau khi biết chắc chắn những người chạy trốn đã có mặt trên tàu, Êrik và bác Hecsêbom đi đến kho thực phẩm, vì đoán có thể còn thủy thủ nào đó trốn ở đây chăng. Họ đi vòng quanh kho, nhưng không gặp ai nữa. - Thưa bố, bố thấy sao, để tránh một sự hoảng hốt mới, đã đến lúc cần chuyển một bộ phận trong đoàn lên bãi băng chăng? - Êrik hỏi. - Có lẽ là - bác ngư dân trả lời - nếu những người ở lại trên tàu sẽ không ganh tỵ với những người được chuyển lên bãi băng, thì như vậy mới được. Không thì biện pháp phòng ngừa ấy sẽ càng gây cho thủy thủ lo lắng hơn. - Vâng. đúng như thế! - Êrik nói tiếp - Hợp lý nhất là liên kết đến phút cuối cùng những nỗ lực của họ để chống chọi với bão táp. Hơn nữa, con thấy chỉ có cách duy nhất ấy mới cứu được tàu. Nhưng tiện thể đã lên bãi băng, ta đi xem tình hình nó thế nào. Thú thật là tiếng băng vỡ, nổ rầm rầm khiến con nghĩ nó không được chắc chắn lắm đâu. Êrik và người bố nuôi của chàng rời khỏi kho đi về hướng Bắc chưa được ba trăm bước đã buộc phải dừng lại: một khe nứt to tướng hoác ra ngay dưới chân họ. Muốn qua đó phải có những cây sào dài, nhưng họ đâu có ngờ thế này mà mang theo. Khi ấy họ bèn quyết định đi men bên rìa khe theo hướng Đông để xem cái khe nứt ấy có dài không. Họ đi đã hơn nửa giờ mà chưa thấy hết vết nứt. Như vậy là kho thực phẩm nằm trên một tảng băng to. Yên tâm về những kết quả khảo sát của mình, Êrik và bác Hecsêbom quay trở lại. Khi họ đi còn cách kho nửa đường nữa thì bãi băng lại xảy ra sự chấn động mới kèm theo tiếng băng vỡ ầm ầm inh tai. Không lo lắng lắm, họ vẫn rảo bước, mong sao sớm biết sự chấn động ấy có gây cho "Aljaka" những nguy hiểm mới nào không. Lát sau họ về đến kho thực phẩm, rồi đến vùng biển nhỏ, nơi tàu đậu. Êrik và bác Hecsêbom lau mắt hỏi nhau xem phải chăng họ đang nằm mơ: "Aljaska" không còn ở đó nữa! Ý nghĩ đâu tiên của họ là tàu đã bị đắm. Qua tất cả những gì mà nó đã phải chịu đựng thì điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Nhưng, may sao, họ đã phải từ bỏ ngay điều phỏng đoán buồn thảm ấy: trên mặt nước không thấy có dấu vết gì của tàu cả. Quang cảnh chung của vùng biển nhỏ bị thay đổi đến mức không thể nhận ra được sau một thời gian ngắn ấy đã gây ấn tượng càng lạ lùng hơn. Cả bức tường được dựng lên bằng băng trôi tạo thành một vòng bao chắn quanh tàu và được bão bồi đắp thêm suốt mấy giờ qua cũng đã biến mất cùng với "Aljaska", không để lại dấu vết gì. Và thậm chí còn hơn thế nữa. Tất cả những chỗ bờ biển lượn cong bây giờ đây đều đã hiện lên hết sức rõ ràng, tưởng như bãi băng đã loại trừ được hết mọi dị vật, trở lại với những đường nét cũ của mình. Đúng lúc đó bác Hecsêhom đã ghi nhận một tình huống mà lúc đi vòng quanh bãi băng bác đã bỏ qua, nhưng bây giờ khi trở lại nơi xuất phát, khiến bác mới chú ý là gió đã đổi hướng, giờ đây đang thổi từ hướng Tây! Có thể là gió đổi hướng đột ngột đã đẩy những tảng băng trôi chất đống quanh "Aljaska" vào sâu hơn nữa trong vịnh chăng? Có lẽ như thế thật. Chỉ còn kiểm tra tính xác thực của điều phỏng đoán ấy nữa mà thôi. Êrik và bác Hecsêbom liền đi dọc theo dải bờ biển. Họ đi khá lâu, tới bốn - năm kilômet. Các mép băng ở chỗ nào bây giờ cũng đều đã thoát khỏi những tảng băng trôi; những cơn sóng giận dữ đập vào bờ băng y như vào bãi cát, còn vịnh biển thì mỗi lúc một xa hơn, không thấy điểm cuối đâu cả. Nhưng điều đặc biệt lạ lùng là: mũi băng cao ngất án ngữ vịnh ở phía Nam cũng đã biến mất. Cuối cùng Êrik dừng lại. Bây giờ chàng đã hiểu tất cả. Chàng siết chặt tay bác Hecsêbom. - Bố - Êrik nói với một vẻ đầy ý nghĩa - bố thuộc hạng những người mà con phải nói ngay với bố tất cả sự thật là: những tảng băng trôi cản đường "Aljaska" đã tách khỏi bãi băng. Chúng ta đang ở trên một hòn đảo nổi với chiều dài vài kilômet và rộng vài trăm mét, hòn đảo ấy đang bị cuốn ra đại dương theo ý muốn kỳ quặc của bão!