áng hôm sau, dân làng Piatra dậy thật sớm, nhưng không ai ra khỏi nhà mà chỉ làm việc quanh quẩn trong sân để nghe ngóng tình hình. Họ chờ tiếng xe nổ của Severin. Severin xuất hiện như thường lệ và đến thẳng phường. Dân làng không hiểu họ phải có thái độ nào nhưng họ khôn ngoan chờ đợi, họ không muốn bị ngỡ ngàng, bởi họ biết chờ đợi lính đến bắt Ion Kostaky, Pillat và không biết còn ai nữa; lo sợ cứ tăng dần lên nhưng cho đến trưa, Severin vẫn thản nhiên tập dượt cho lính, dạy dỗ cho lũ thanh niên. Giữa trưa, Pillat hết cả kiên nhẫn, bàn với Ion Kostaky: - Boris Bodnariuk hiện đang ở trên phố, ở Molda. Con sẽ đến gặp hắn và nói thật với hắn. Không muốn để Pillat đi một mình, Kostaky nói: - Ba cũng cần mua một ít đinh và ván để sửa lại hàng rào, vậy để cho ba cùng đi luôn. Hai người lính gác chận họ ở cổng làng, hỏi họ đi đâu, như thường lệ, rồi để họ đi. Pillat nói: - Con không muốn hạ mình xin xỏ, nhưng con chỉ mong hắn để cho mình yên ổn. Hắn với con cùng học một trường thuở nhỏ, có lẽ hắn sẽ nghe lời con. Có được không ba nhỉ? Kostaky gật đầu và quất ngựa đi nhanh. Đến phố, Kostaky lo mua đinh, trong lúc Pillat đến thẳng nhà Boris, đề nghị: - Boris, tao muon xin mày một chuyện không dính gì đến quyền hạn trong đảng của mày cả, là tao muốn trở thành một đảng viên nhiệt thành. Tao thực lòng muốn gia nhập đảng. Mày chờ một thời gian để tao chứng tỏ bằng hành động. Tao muốn trở thành một thành phần hữu ích cho cộng đồng xã hội và cho đảng. Mày hãy nhìn thẳng vào mắt tao và mày sẽ thấy tao rất thành thật lúc nói thế. Boris trả lời: - Tao biết mày thành thật, nhưng mày yêu cầu một điều không thể được. - Nếu tao thành thật muốn thế, và nếu tao hướng tất cả cố gắng về mục đích đó, mày có tin là tao sẽ trở thành một người cộng sản tốt? Boris mỉm cười: - Không, mày không thể trở thành như thế được. Mày có nhớ bài học giáo lý ở trường Hoàng gia «con lạc đà bước qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu có bước vào nước Chúa». Không ai nghĩ đến việc kết tội Thiên chúa giáo vì tôn giáo này khai trừ người giàu có. Một tên trí thức trưởng giả không thể nào trở thành một người cộng sản. - Người giàu có thể trở thành nghèo, nếu họ từ chối của cải. Cho nên không thể mãi mãi loại họ ra ngoài, với điều kiện là họ phải từ bỏ hết. Boris, tao đã từ bỏ hết. Vậy hãy để tao cùng làm việc với các đồng chí. Mày hãy giúp tao trở thành người cộng sản. - Làm sao mày có thể chối bỏ nguồn gốc trưởng giả của mày được? Vô ích, mày đã là một trí thức trưởng giả. Bây giờ nhân dân cầm quyền, và nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền đó lúc cầm quyền là tìm mọi cách để loại bỏ giai cấp trưởng giả. Đằng nào mày cũng bị tố khổ. - Để phạt tao mày phải có bằng cớ, vậy mày kết án tao điều gì? - Trong cuộc cách mạng vô sản, chúng tao không cần biết đến cá nhân. Xã hội không được cấu thành bởi cá nhân và bởi giai cấp. Cá nhân mày không có gì để lo lắng, nhưng giai cấp tư sản có tội và chúng tao trừng phạt giai cấp đó. Mày là một thành phần đã hưởng lợi cho nên mày phải bị trừng trị với giai cấp đó. Giản dị có thế thôi. Boris khoác áo da và khăn quàng đỏ, trong lúc Pillat cố nói những lời sau cùng: - Nhưng đặc biệt tao xin mày một ân huệ. Tức là hãy để cho tao gia nhập vào giai cấp vô sản, mày sẽ không thất vọng về điều này đâu. - Không, mày không nên xin tao một điều không thể được. Nếu tao cho phép, tao phản bội nhân dân và đảng. Tao có phận sự loại trừ các thành phần giai cấp trưởng giả ở các thành phố và làng mạc, như lũ nha sĩ phải nhổ những chiếc rằng hư. Người trưởng giả nào cũng là một ung nhọt nguy hiểm cho đảng. Xã hội cũng có những định luật về vệ sinh chính trị và nhân danh các đỉnh luật đó mà mày phải bị khai trừ. Các anh trí thức trưởng giả, lúc nào các anh cũng tự hào là biết hết những tế nhị của cuộc sống, làm sao các anh lại không biết đến những nguyên tắc giản dị đến thế? Cuộc hội kiến thế là chấm dứt. Boris để cho Pillat ra về mà không cần chìa tay bắt xã giao. Trước quận, Ion Kostaky đợi Pillat về. Pillat ra ngồi lên xe ngựa không nói một lời nào. Kostaky hiểu là chuyến đi thật vô ích.Phần thứ nhất - I & II & III & IV & V
VI & VII & VIII & IX & X
XI & XII
(Phần thứ hai - I & II & III
IV & V & VI & VII
VIII & IX & X
Phần thứ ba - I & II & III
Phần thứ nhất - I & II & III & IV
V & VI & VII & VIII
XI & X & XI
XII & XIII & XIV & XV
Phần thứ hai- I & II & III
III & IV
1 & II & III
IV & V
Phần thứ ba - I & II & III & VI
CUỐN SÁCH CỦA SỰ LÙI VÀO BÓNG ĐÊM
CUỐN SÁCH KẾT THÚC I & II & III
IV & V
CHỈ CÒN MỘT THẾ GIỚI - I & II
KẾT
---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
Cơ May Thứ Hai
Lối Thoát Cuối Cùng
!!!15215_20.htm!!! nhìn lũ lính gác phá tan mảnh đất có hình trái tim dưới gót giày đinh. -Tụi trưởng giả các anh tưởng là người cộng sản ngốc hết hay sao, nhưng chúng tôi biết cái gì chúng tôi muốn biết, và biết cái gì kẻ thù chúng tôi muốn làm. Với mục đích gì mà các anh làm một mô đất có hình trái tim lớn như một bích chương mà bên ngoài đường cũng có thể trông thấy được? Marie ngạc nhiên hỏi: - Mà có ai nói cho chúng tôi biết là chúng tôi không được phép trồng hoa theo hình trái tim đâu? - Trái tim tượng trưng cho quyền tư lợi. Đúng là ngày chúng tôi bắt đầu tập sản hóa đất đai, các anh đã tức khác vẽ hình trái tim trong vườn để phản đối công việc tập hóa đất đai ở Piatra. - Tôi thề với đồng chỉ là không bao giờ tôi có ý tưởng đó cả. - Chúng tôi đã ngăn cản lũ phản động tìm cách phản đối công việc tập sản hóa đất đai bằng cách cho làm mô hình trái tim ngay giữa vườn như là một dấu hiệu phản kháng. Chúng tôi theo dõi mọi phong trào, các anh đừng có đánh lạc hướng vô ích. Lũ phản cách mạng không thể thắng nổi. Tụi lính đã phá xong bãi cỏ, đứng nhìn Severin. Tên nầy lại ra hiệu, và sáu đứa nhào vô cướp cái rìu trên tay Ion Kostaky và trong chốc lát phá hết bức rào, ván gẫy, cột nghiêng. Nhà Kostaky và Pillat thế là không còn hàng rào che chở nữa. Ván bị vứt hết ra đường và bị dẫm nát. Lũ thanh niên phá hoại xong, phủi tay, vứt cuốc, cầm lại khí giới như thường, trong lúc Severin điều tra: - Ai đã ra lệnh cho các anh làm thêm hàng rào nầy? Kostaky hằn học trả lời: - Nó hư đi thì chúng tôi phải sửa lại. Các ông bây giờ lại cấm việc làm hàng rào nữa sao? Chúng tôi đã bắt được mật lệnh truyền cho lũ phản động là phải lập hàng rào thật cao và chắc chắn để núp trong đó mà chóng đối âm thầm kế hoạch tập sản hóa đất đai. Severin bắt đầu đọc một đoạn trong báo do Boris gởi: «Hàng rào là hình ảnh của một xã hội phong kiến và là sáng kiến của cá nhân chủ nghĩa. Lũ đại tư bản đã dùng tường cao hào sâu để tự cô lập mình. Chủ nghĩa cộng sản lại muốn kiến tạo một cuộc sống cộng đồng, kết hợp mọi người lại chứ không chia rẽ. Cho nên các rào dậu không thể tồn tại giữa các cá nhân trong một cộng đồng. Vì thế phản ứng cấp thời của lũ tư bản là ra lệnh cho cán bộ của họ ở Lỗ ma ni ra công sửa sang gấp rút rào dậu quanh nhà.» Phong trào sửa hàng rào, đắp mô hình trái tim giữa vườn bắt đầu đúng lúc chúng tôi nêu kế hoạch tập sản hóa đất đai.» Pillat bảo: - Thực chúng tôi không có ẩn ý gì cả. Thật mà. - Tôi sẽ đưa cả ba người ra hội đồng xã để khai hết cả, để nói cho chúng tôi biết mật lênh ấy ở đâu ra. Phải khai hết những cán bộ, chủ tịch, nghĩa là tất cả những kẻ âm mưu.
V
Buổi chiều, Ion Kostaky bắt đầu sửa hàng rào. Ông ta cảm thấy cần một hàng rào thật kín và thật chắc. Tất cả dân làng Piatra đều sửa lại ổ khóa nhà cửa. Pillat cuốc đất ở ngoài vườn, cùng với Marie. Chính giữa vườn, Pillat lấy cỏ mịn đắp quanh thành hình trái tim. Bỗng có tiếng hỏi: - Pillat, bao giờ thì anh hết khiêu khích nhỉ? Pillat ngửng đầu lên đã thấy Severin và lính gác đứng trước cổng. Pillat có cảm tưởng là họ đến bắt chàng. Severin vào trong sân: - Tôi tưởng anh đứng về phía chúng tôi chứ? Severin nói thế và ra hiệu cho lũ lính gác. Chúng vứt khí giới xuống và cùng nhau dẫm nát bãi cỏ hình trái tim. Pillat không hiểu ất giáp gì cả lặng yênVI
Đã ba ngày trôi qua từ lúc bị phá phách, Pillat thầm cảm ơn trời đất đã không bị hỏi han điều tra lôi thôi về hoạt động «phản cach mạng» của chàng, chàng nghĩ là họ đã để cho chàng được yên ổn. Ngày ngày quanh quẩn trong sân, tối vào gian nhà tranh nho nhỏ bên cạnh Marie đối với chàng đã là một niềm vui lớn. Có ông bà nhạc gia ở cạnh là một niềm vui khác. Chàng tìm sự yên nghỉ trong công việc trồng trọt hằng ngày và tìm nguồn vui trong những sự kiện nhỏ nhặt nhất, từ ánh nắng mặt trời, sự trong mát của hồ nước cho đến màu xanh bầu trời và tất cả mọi sự việc khác. Mỗi lần nghe tiếng xe gắn máy của Severin ngoài đường, chàng trốn vào nhà cho yên thân. Nhưng khác mọi lần, Severin ngừng xe ngay trước nhà. - Pillat, tại sao anh trốn tôi? Không ai có thể trốn tránh người Sô Viết cả. Ba người lính theo Severin bước vào: - Tôi thấy anh có nuôi con chó trong nhà? - Chó hoang đấy mà, đến sân nhà tôi chừng ba tuần. - Đó, thấy không, chó cũng đánh hơi được nhà của bọn phản động. Chó đến nhà có chứng minh được thức ăn của nhà anh thừa thải không nhỉ? - Chó thì ăn cơm thừa canh cặn, cho nên người nghèo kiết xác cũng còn nuôi nỗi chó nữa, huống hồ. - Theo bản thống kê của đồng chí Boris thì ở Lỗ ma ni hiện nay có chừng 30 triệu mèo, chó. Mỗi chủ nhà phải chia thức ăn của mình và con cái cho một chó và một mèo. Như thế là một số lượng khổng lồ thức ăn đút vào mồm những thứ vô tích sự đó. Chỉ có một chế độ bóc lột lao động mới có thể đem cơm nước của lao động cho chó mèo. Chừng đó thôi cũng chứng minh sự man rợ của giai cấp trưởng giả; đó là chưa kể những bệnh hoạn do loại đó mang lại. Nhà nước đã quyết định loại bỏ chúng bằng cách khoá miệng 30 triệu mèo chó đó lại để phân phát thức ăn cho kẻ nghèo khổ. Vào lúc nhà nước quyết định thế thì anh lại nuôi chó, làm sao giải thích thái độ đó của anh nhỉ, chắc anh không thể cho là tình cờ chứ? Marie, Iléna và Kostaky và vài người hàng xóm lại phải lắng tai nghe một lời kết tội mới. Severin nói tiếp: - Một trong những thứ vui bỉ ổi nhất của lũ bóc lột lao động là thản nhiên nhìn lũ trẻ con nhân công chết đói, trong lúc thức ăn họ đem quăng cho mèo chó. Nên đã từ lâu Nga sô quyết định loại bỏ súc vật vô ích. Xã hội nào còn nuôi thú vật ăn bám là một xã hội thoái hoá. Chúng ta bắt chước gương sáng của Nga sô để rửa nhục cho dân tộc. Da của loài thú đó sẽ đem dùng vào kỹ nghệ. Mỡ sẽ được chế thành xà phòng cho nhân dân xài. Nga sô đã viện trợ máy móc cho chúng ta phát triển thứ kỹ nghệ đó. Nói xong, Severin ra hiệu, bốn thanh niên cùng nhắm bắn con chó. Tiếng nổ hòa lẫn với tiếng rên la quằn quại của con chó. Máu văng vào tường nhà và vườn tược của Pillat. Lính gác vẫn tiếp tục bắn. Marie, Iléna, Kostaky bịt tai bưng mặt chạy vào nhà để khỏi nghe tiếng rên siết. Pillat bỗng nhiên mặc nhận một tội lỗi sâu xa. Chàng kinh hoàng chứng kiến cảnh đó mà không phát ra một cử chỉ nào cả. Đành rằng chàng không thể nào cứu mạng sống con chó nhưng ít ra chàng phải có cử chỉ phản đối. Chàng đã không làm gì cả, và điều đó xem như là một sự phản bội. Chó không bao giờ phản chủ, thế mà con người lại đang tâm phản bội mèo chó. Severin gọi Kostaky và Pillat lại gần: - Nào, mang chó ra trụ sở phường, còn nhiều con nữa. Ra ngoài đó rồi người ta sẽ dạy cách lột da chó. Lũ thanh niên lại cầm khí giới đi hạ sát chó trong làng Piatra. Đàn bà trốn biệt trong nhà cầu nguyện Đức mẹ đồng trinh. Lúc Ion Kostaky đến gần con chó, Severin đá sau lưng hách dịch: - Nhanh lên, tởm hả? Chó là bạn thân của tá điền. Nó sống trong nhà ông, bây giờ ông lại tởm à? Kostaky muốn quay lại, nhưng một cú đá khác bắt ông cúi xuống con vật: - Nào, mang lên vai ngay. Máu chó chảy xuống cả vai Kostaky, thân thể nó còn nóng như lúc còn sống. Chưa tha, Severin còn gọi Marie, Iléna: - Hai người kia, ra đây cầm lấy cái đuôi chó. Marie và Iléna vừa khóc vừa bước ra. Cả ba cùng theo lệnh Severin tiến ra trụ sở phường, trong lúc dân làng nhìn cạnh đó nghiến răng kèn kẹt. Severin nói tiếp với Pillat: - Bước theo ba người kia, bắt đầu từ hôm nay tất cả bọn phản động phải lột da chó và mèo. Việc làm nầy mới xứng với chúng nó...VII
Mỗi tối, lính gác tiếp tục giết mèo chó trong làng Piatra. Dân làng cứ phải mang đến trụ sở phường để lột da. Chiều hôm đó trở về nhà, Kostaky còn ngửi thấy mùi máu đong trên áo quần, da thịt và hình như đong lên cả ký ức của ông ta nữa. Cũng như Pillat, cả nhà không ai thiết đến chuyện ăn uống. Họ cùng quay quần trong bóng đêm để tìm một lối thoát. Cửa ngỏ mở toang cả ra để thoáng hơi, nhưng mùi thịt chó mèo nóng hổi hình như đã thấm sâu vào tường. Bỗng một chiếc bóng xuất hiện trong sân. Nicolas Vornik bước vào nhà trong dáng dấp sợ hãi, áo quần rách rưới, mình mẩy đầy máu: - Họ sẽ bắt tụi mình đêm nay. Đừng thắp đèn lên, cứ nói chuyện trong bóng tối thế nầy tốt hơn. Chúng gọi tôi lại phường, giam vào hầm và đánh đập tôi không ngớt cho tới bây giờ. Bác nhìn xem, chúng đập tôi đến nát xương. Vornik run rẩy kể tiếp: - Tôi có nghe lỏm thằng Nga nó đọc lệnh mới vừa nhận được. Bảy người ở làng này sẽ bị bắt đêm nay và bị đưa đi đày. Cả bác lẫn cô Marie và cậu Pillat đều nằm trong sổ đen. Có tôi và một vài người họ hàng của bác nữa vị chi là bảy người tất cả. Ion Kostaky cẩn thận bảo vợ ra ngoài, chỉ còn Vornik và Pillat ông ta mới bảo: - Bác kể lại cho nghe một lần nữa đi. - Chính tai tôi nghe là đêm nay khoảng 3 giờ lính sẽ đến bắt chúng mình, bởi vì lúc đó tôi đang bị giam phòng bên cạnh và tôi chỉ biết có thế thôi, nhưng phải đến đây để cùng bàn xem sao. Vornik ôm đầu suy nghĩ trong lúc Kostaky ra ngoài bảo Iléna làm cơm, và bảo với vợ con: - Đêm nay mình sẽ không ngủ ở nhà. Marie, con cùng đi với ba luôn. Kostaky đề nghị với Vornik: - Chúng mình trốn vào rừng, cuộc biến động rồi sẽ qua đi, sau đó vài ngày chúng mình lại về nhà chứ gì. Thế là, Marie và Pillat sửa soạn đồ dùng, Vornik về nhà, báo tin cho họ hàng Kostaky. Iléna lo sửa soạn thức ăn. Thấy quyết định của mình sắp thực hiện sẽ rất trầm trọng, Kostaky bước ra sân, ngắm cây cối, vườn tược, nhà cửa, vào chuồng vuốt ve mấy con ngựa, và tự nhủ: - Mình không đi đâu hết. Thà chết trong sân nhà còn hơn. Không, mình không đi đâu cả. Nhưng ông ta lại đổi ý kiến: - Đi chứ, mình đi một đêm thôi để tránh chúng nó, rồi sau đó mình trở về ngay. Ông ta hỏi con rể: - Con có tin là họ sẽ bắt chúng mình không? - Dù sao cũng đừng nên ngủ ở nhà đêm nay. - Ừ nhỉ. Buồn đến phát khóc, Kostaky đứng trước nhà như muốn hít hết không khí cả làng mình đang ở, như muốn đem theo hết với mình nếu có thể, không những chỉ không khí mà thôi, mà còn muốn mang hết vào trong hai buồng phổi cả nhà cửa lẫn súc vật trong chuồng. Kostaky vào nhà bảo vợ đi tìm cha Thomas Skobai, còn ông ta thì ở nhà để xem chừng lũ lính gác, rồi thầm nghĩ: - Mình chỉ ăn qua loa thôi, vì mình sẽ trở về nhà. Mà họ bắt mình làm gì mới được chứ? Nghĩ thế, nhưng ông ta vẫn ra chuồng, vuốt ve lại một lần nữa mấy con ngựa thân yêu. Họ hàng, đức cha, Vornik mới đến, tất cả đều âm thầm sửa soạn trong bóng tối. Kostaky an ủi vợ: - Bà đừng khóc, vì nếu đêm nay không có gì xảy ra ngày mai mình lại trở về nhà, lo gì. Kostaky lại hỏi: - Bác có chắc là chúng sắp bắt tụi mình không? Hay bác nằm mơ? Vornik lập lại một cách chắc chắn: - Đúng 3 giờ đêm nay. Vợ Vornik đã băng đầu lại cho ông ta và thay áo. Duy chỉ còn cái quần còn dính máu chưa kịp thay. - Thưa cha, cha cầu nguyện cho chúng con đi, một thứ kinh cầu ngắn ngủi cho những con chiên đang gặp nguy hiểm, cho một giai đoạn khó khăn của thời cuộc. Đức cha cầu kinh trong bóng tối, mọi người đều quì xuống. Nửa đêm, mưa bắt đầu đổ xuống. Thỉnh thoảng một lằn chớp lóe sáng đủ để cho mọi người nhìn rõ dáng dấp dong dỏng, vần trán cao, bộ râu tóc bạc phơ của đức cha. Và sáu người đang quỳ gối, Marie gục đầu lên vai mẹ. Tất cả bức tranh đó xuất hiện trong chốc lát, rồi mọi sự lại chìm trong bóng tối. Và người ta chỉ còn nghe tiếng mưa rơi cùng tiếng cầu kinh trầm trầm của đức cha như tiếng đại hồ cầm. Sau cùng, Kostaky lên tiếng: - Thôi, chúng ta đi. Cần phải ra đi đột ngột, để khỏi nghe tiếng khóc của Iléna, Kostaky dặn vợ lần nữa: - Hết mưa thì mình phải dẫn cha Skobai về, và mình chờ tôi, chừng ngày mai tôi sẽ trở về. Mình xem chừng nhà cửa. Nếu chúng có hỏi thì mình cứ bảo là tôi đi kiếm củi trong rừng. Mọi người mang xắc lên vai, hôn tay đức cha, chào Iléna và bước đi. Lúc người cuối cùng ra khỏi cửa, Iléna mới bắt đầu khóc. Bà khóc thảm thiết như là trong nhà có người chết. Cha Thomas dù tin rằng điều tốt cũng như điều xấu đều do Chúa ban bố nhưng trước khung cảnh trốn tránh của đám nông dân cha cũng không khỏi ngậm ngùi, nỗi buồn nầy đối với cha còn nặng nề hơn cả lúc chứng kiến cảnh một người chết. Cha thầm nghĩ, ý nghĩ giống như một lời kinh hay một bài thơ: «Lúc bác nông dân bỏ hoang ruộng vườn, lúa cỏ cũng buồn theo, bởi ai cắt cỏ ai gieo mạ? «Lúc bác nông dân bỏ đi, trâu bò cũng buồn theo bởi nước đâu mà uống, rồi cũng đói cả. «Lúc người nông dân bỏ đi, chim chóc cũng buồn theo, bởi luống cày không có, mồi đâu mà kiếm? Giọt mưa cũng buồn theo Cả vũ trụ cũng buồn theo Lúc người nông dân bỏ hoang ruộng vườn...» Và nỗi buồn như thế lan tràn khắp làng Piatra từ lúc bảy người đó trốn đi.