Một buổi sáng thứ ba, Tuấn-em đang ngồi chăm chỉ nghe thầy giáo lớp Năm giảng bài Địa dư, bổng có tiếng giầy tây của quan Đốc học đi lộp độp ngoài hiên rồi bước vội vàng vào lớp, học trò đứng dậy. Quan Đốc ( người tỉnh Nghệ-an ) nói tiếng tây trọ-trẹ với thầy giáo vài ba câu gì đó, rồi quay lại nói tiếng Việt với học trò: - 5 giờ chiều nay có máy bay tới tỉnh, vậy chiều nay cho nghỉ học để các trò đi coi máy bay. Tất cả học trò đều phải đến trường hồi 3 giờ để thầy giáo dẫn đi. Nghe không? Cả lớp đều đồng thanh dạ rân một itếng. Quan Đốc lại nói tiếng Tây với thầy giáo vài ba câu rồi ra đi. Thầy bảo học trò: - Asseyez-vous! ( các trò, hãy ngồi xuống ) Học trò ngồi xuống, rồi thầy tiếp tục giảng bài. Dạy xong, gần mãn giờ, thầy mới bảo: - Các trò nghe quan Đốc dặn lúc nãy, phải nhớ đấy! Chiều nay nghỉ học nhưng 3 giờ các trò phải đến trường để thầy dẫn đi coi máy bay... Các trò có biết máy bay là cái gì không? Cả lớp đồng thanh trả lời: - Thưa thầy, các con không biết. Thầy giáo giảng: - Máy bay là cái máy biết bay. Nó bay như con chim bay vậy, nhưng nó là con chim thật to, trong ruột nó có cái máy, nó ở ngoài Tourane bay vô, nó sẽ đậu gần chợ Ông Bố, cách xa tỉnh 4 cây số. Tuấn-em ngồi bàn đầu, dơ ngón tay lên. Thầy hỏi: - Trò Tuấn hỏi gì? Tuấn đứng dậy, vòng tay lễ phép: - Thưa thầy, máy bay nó đậu trên ngọn cây hay nó đậu trên nóc chợ? Thầy cười: - Nó đậu trên đám đất trống phía sau chợ. Một trò khác dơ ngón tay lên hỏi: - Thưa thầy, máy bay nó đậu trên đám đất, nhưng chiều nay nó thấy mình tới coi đông quá, nó sợ nó bay mất thì làm sao coi được? Thầy trả lời: - Máy bay có ông quan Ba Tây lái ổng cho nó đậu đấy để người ta tới xem. Sáng mai nó mới bay vô Qui-nhơn. Tuấn-em lại dơ tay lên hỏi: - Thưa thầy, thầy đã thấy cái máy bay chưa? Mình đứng coi, nó có hít mình vô trong bụng nó như xe điện không? - Thầy thấy hình vẽ cái máy bay trong tự điển Larousse chớ chưa thấy cái máy bay ở ngoài. Chiều nay thầy dắt các trò đi coi, thầy cũng coi. Từ trước tới giờ, đâu có máy bay mà coi. Bây giờ nhà nước bảo hộ mới đem một chiếc máy bay từ bên nước Pháp qua cho người An Nam xem.Quan Công Sứ tư giấy cho quan Đốc học, để cho học trò đi coi. Vậy chiều nay tới chỗ nó đậu, các trò phải đứng với tôi, tôi đi đâu các trò đi theo đấy, chớ đừng chạy bậy bạ, đừng có lại gần nó mà chết đấy, nghe không? - Dạ ( cả lớp đều dạ một cách hồi hộp lo sợ ) Tuấn em về nhà thưa lại với anh Hai nó và cha mẹ nó..Cứ mỗi lần thằng con trai út sắp đi lễ hay đi đâu như thế, là thím Ba, mẹ Tuấn, lo cho Tuấn rất tươm tất, không để thiếu sót một tý gì. Thím mặc áo quần sạch sẽ cho nó ( áo dài đen bằng vải trang đầm, quần vải quyến trắng ), thím lấy chổi lông gà quét bụi trên chiếc mũ trắng của nó, cho nó một tiền ( 60 đồng tiền ăn ba ) để nó đi xa có tiền ăn bánh uống nước. Luôn luôn thím căn dặn nó "Con nắm áo thầy giáo đi theo sát bên cạnh thầy, chớ đừng nô dỡn với bạn bè chạy nhảy tung tăng, cái máy bay nó hít chết nghe không con! ". Tuấn-em ngoan ngoãn dạ. 4 giờ chiều, 5 ông thầy giáo dẩn 5 lớp học trò đến đám đất trống sau chợ Ông Bố, thì thiên hạ đã tụ tập nơi đây như một buổi chợ. Nghe đồn có máy bay đến, hầu hết người lớn trẻ nhỏ trong thành phố đều nao nức đến xem. Người ta kéo nhau lũ la lũ lượt đi chật đường chật xá, dân chúng khắp nơi đổ dồn về đông nghẹt. Tất cả sở nhà nước đều nghỉ việc, để cho các thầy Thông thầy Ký, dắt vợ dắt con đi xem máy bay. Con đường hương lộ từ tỉnh lên chợ Ông Bố, ngày thường chỉ lưa thưa vài ba bóng người, nông dân đi cày bừa, thôn nữ đi chợ, hôm nay có hàng muôn nghìn người chen chúc nhau đi, như một ngày đại hội. Đường đấp đất ruộng, bụi bay lên mù mịt... Trừ ra những người giàu sang có tiền đi xe kéo, còn toàn thể đều đi bộ trên đường quanh co giữa thôn quê dài trên bốn cây số. Xe kéo có đeo trái lạc, chiếc xe chở hai ba người, anh phu xe khom lưng kéo, tay rung chiếc lạc kêu leng-keng... leng-keng... người bộ hành phải bước xuống ruộng để cho xe đi vì con đường chật hẹp. Nhiều người bực mình, cứ đi giữa đường, không chịu né một bên, anh phu xe phải năn nỉ: "Bà con làm phước tránh chổ cho xe đi chớ, bà con.! " Tránh chỗ thì tránh, nhưng không tránh khỏi cãi nhau vì tranh giành nhau đi trước, vì ai cũng sợ tới trễ. Rốt cuộc, tất cả mọi người đều vui vẻ, đến đám đất chợ Ông Bố chờ, mà máy bay chưa tới. Nếu đếm số người đi đón xem máy bay hôm ấy có lẽ hơn vài ngàn người. Đây là lần đầu tiên người ta nói đến máy bay. 4giờ rưỡi, ai nấy xôn xao. Quan Sứ đi "xe điện" đến. Lính tập đã sắp hàng đứng đón, thổi kèn lên và bồng súng chào. Dưới ánh nắng chiều, hai dẫy lưởi lê cắm trên miệng súng, sáng quắt nom thật là oai hùng... Các quan tây cũng lục tục kéo tới, người đi ngựa, kẻ đi xe kéo bánh sắt, hay bánh cao su. Một lúc sau, quan Tuần phủ mới đến, có lính lệ cầm trống tiêu-cổ đi trước báo hiệu, đánh trống tum! tum! Nhưng quan Tuần có vẻ sợ sệt khi thấy Quan Sứ đã đến trước rồi, quan Tuần vội-vàng xuống xe kéo cao su, đi thẳng đến Quan Sứ, cúi đầu vái... vái... Người ta thấy Quan Sứ vui vẻ nhã nhặn bắt tay Quan Tuần. Quan tây nói chuyện với quan ta, có thầy phán Tuấn đứng bên cạnh làm thông ngôn. Quan Tây móc "đồng hồ trái quít" ở trong túi ra xem "đã 5 giờ kém 15". Ông liền truyền lịnh đốt rơm và bã mía đã chất sẳn thành một đống to tướng nơi góc ruộng kế đấy. Tuấn-em không hiểu đốt rơm làm gì, hỏi thầy giáo, thầy giáo không hiểu chạy đi hỏi quan Đốc, quan Đốc cũng không hiểu chạy đến hỏi Phán Tuấn. Tuấn bảo: "Dạ thưa quan lớn, đốt để khói lên làm dấu hiệu cho máy bay thấy chỗ đáp xuống, vì máy bay sắp đến". Tiềng xì xầm truyền từ miệng này sang miệng khác: "Máy bay sắp đến! Máy bay sắp đến!". Và không ai bảo ai, muôn nghìn cái đầu ngước lên vòm trời xanh thẳm... Muôn nghìn cặp mắt lục lọi, nhìn đăm đăm tận các làn mây xa... xa tít ngoài hướng Bắc... tìm kiếm bóng dáng chiếc máy bay mà chưa ai biết như thế nào. Làn khói trắng từ nơi đống rơm và bã mía ngùn-ngụt cháy, vươn mình lên không trung như một nàng Tiên uốn lượn thân hình mảnh khảnh, như say sưa một vũ điệu mê ly, đón chờ con Chim Thần của Khoa Học Tây Phương. 5 giờ... 5 giờ 15, 5 giờ 30... Nhiều người bắt đầu nói bông lơn. Nói bông lơn, vẫn là đặc tính của người dân quê ta. Kẻ thì tủm tỉm cười, bảo: "Chắc chim bay xa, gãy cánh rớt xuống biễn rồi!". Kẻ đáp lại với giọng mỉa mai khác:"Chú mày nói bá láp nè! Chim Thần Điểu của nước Đại Pháp thì có phép lớn, đâu như chim sẻ của An Nam!" Các Quan Tây coi bộ sốt ruột lắm. Trời đã chạng vạng. Nắng chiều đã tắt sau các luỹ tre xanh xào-xạc gió. Làn khói rơm duyên dáng cũng đã mỏi mệt, chỉ còn như một hơi thở yếu dần... Một con quạ bay tít nơi xa... hàng trăm ngón tay chỉ chỏ... và bao nhiêu người reo lên: "Máy bay tới kìa". Các quan Tây, quan An Nam cũng tưởng thật, tất cả những con mắt đều ngó theo con quạ đen... Rốt cuộc con quạ đáp xuống một cành tre. Có lẽ nó mắc cỡ, không dám bay xuống phi trường. Thiên hạ chăm chú ngó con quạ, trong lúc một người lính Tây và một ông tập phi ngựa từ dưới tỉnh lên, lính cỡi ngựa ô chạy trước, ông Tây cỡi ngựa kim chạy theo sau, tức tốc đến "phi trường" mà không ai trông thấy... Ông Tây phi ngựa thẳng tới chổ quan Sứ rồi hai người bắt tay nhau nói chuyện xí lô xí la, xem giấy tờ nhau, rồi cười ầm ầm. Thiên hạ không ai chờ đón máy bay nữa, nhưng lại tò mò muốn biết ông Tây nào lạ mới đến đây vội vã bất ngờ như thế, có chuyện chi? Người ta xôn xao, hay có biến loạn ở đâu? Bổng từ chổ ông Sứ đứng, quan Đốc học đi nhanh đến các thầy giáo, vừa nói vừa cười: - Sáng nay Quan Sứ ở Tourane đánh giây thép vào cho Quan Sứ ta, bảo là: "Commandant avion arrivera ce soir" ( Quan Ba máy bay sẽ đến chiều nay ). Ông Tây lạ mới đến kia chính là quan Ba phi công ở ngoài Tourane vào để quan sát phi trường đã, xem diện tích có rộng lớn và bằng phẳng cho máy bay đáp xuống được không, nếu được thì sáng mai ông trở ra Tourane rồi ba hôm sau máy bay mới đến. Nên kể thêm rằng, ba hôm sau, cũng khoảng 5 giờ chiều máy bay có đến. Một chiếc máy bay lớn sơn màu trắng, bốn cánh hình chữ nhật cũng mầu trắng, hai cánh trên, hai cánh dưới. Phi cơ bay lượn ba vòng trên đám đất trống khá rộng và đã được dọn dẹp sạch sẽ không có một bụi cỏ. Nhưng nó bay tít vào hướng Nam, một cái chấm đen rồi biến mất làm cho khán giả lại thất vọng, tưởng nó bay luôn. Nhưng một lát sau, nghe tiếng ầm ầm trên trời, mà không thấy nó đâu... bổng từ trong làn mây trên rặng tre xanh, nó xuất hiện ra đột ngột, to lớn như một con chim kỳ quặc kinh khủng, bay lượn mấy vòng nữa, tiếng nó vang động cả vòm trời. Rồi nó lù lù hạ thấp xuống tận nơi xa và chạy thẳng đến giữa phi trường, ngừng lại. Một cái chong chóng còn quay tít, gây ra môt làn gió mạnh, làm bay nón, bay khăn của đám khán giả ngơ ngác. Ai nấy hoảng sợ, cả đám học trò, chạy lui xa năm, sáu bước. Người ta thấy rõ mặt ông Quan Ba hôm trước từ trong phi cơ bước ra tươi cười bắt tay Quan Sứ... Đó là năm 1920. Cũng như tất cả mọi người trong tỉnh, hai anh em Tuấn được trông thấy chiếc máy bay lần đầu tiên.