Hai lực lượng có tính quần chúng và có khả năng đề kháng những độc tố huỷ hoại sinh lực quốc gia là đảng phái và tôn giáo, sau 9 năm bạo trị của chế độ Ngô Đình Diệm, chỉ như đóm lửa bùng lên lần chót và cao điểm ngày cách mạng 1-11-63, rồi sau đó không còn tiềm lực để duy trì thành quả của một phong trào đang lên. Ba năm xáo trộn mà tôi trình bày trong chương trước chỉ là hậu quả tất nhiên của cái thời kỳ chín năm khốc hại trước mà thôi.Các nhà làm chính sách của Hoa kỳ không nhìn thấy được nguyên uỷ đó, lại càng không phát hiện được vai trò và nhiệm vụ lịch sử của các tôn giáo trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt nam, nên đã đánh giá sai lạc vị trí và sức mạnh của các Tôn giáo Cao Đài, Hoà Hảo và Phật giáo Việt nam mà họ cho là không chống cộng như Giáo hội Thiên chúa giáo, cho nên sau ba năm xáo trộn, người Mỹ lại can thiệp mạnh mẽ vào chính trường Việt nam (như cách đó 10 năm trước họ đã áp lực để đưa ông Diệm về và đẩy ông lên làm Thủ tướng) để khai sinh ra một nền Đệ nhị cộng hoà với hai đặc tính rõ rệt: quân phiệt, để sử dụng võ lực chống cộng, và Thiên chúa giáo để bảo vệ tinh thần chống cộng. Nghĩa là chống cộng bằng vũ khí và bằng quyết tâm của tông đồ “diệt ma quỷ”. Khai sinh ra nền cộng hoà Đệ nhị với hai đặc tính đó sau ba năm xáo trộn quả thật phù hợp với ý đồ của lực lượng chính trị của Giáo hội Thiên chúa giáo đang thoả mãn vì thấy "không có cụ thì loạn như thế", và đang lợi dụng tình trạng hỗn loạn (mà họ cũng đã là một thành tố đóng góp) để tìm cách trở lại chính quyền.Vì chỉ là một phần mười dân số và vì đa số người Thiên chúa giáo chỉ sống tập hợp đông đảo tại Sài gòn và vùng phụ cận nên đã làm cho những ai thiếu nghiên cứu hoặc chỉ phân tích một cách phiến diện theo nhãn quan chính trị Tây phương, tưởng rằng trong vấn đề tương quan quyền lực tại Việt nam, khối Thiên chúa không phải là một thế lực chính trị vững mạnh và có tầm vóc quyết định cục diện chiến trường miền Nam. Trước năm 1954, tại miền Nam Việt nam, Giáo hội Thiên chúa giáo chỉ có các giáo phận Huế, Qui Nhơn, Sài gòn, Vĩnh Long, Cần Thơ. Nhưng từ khi ông Diệm lên cầm quyền và với cuộc di cư của trên 700.000 giáo dân miền Bắc, ông Diệm và Giáo hội La mã cấp tốc mở thêm các giáo phận Đà Lạt, Mỹ Tho, Long Xuyên (1960), Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc và Phú Cường (1964) trong ý đồ mở rộng nước chúa việc mở thêm hai giáo phận cuối cùng đã được sắp đặt từ thời Tổng thống Diệm, đến năm 1964 mới thực hiện.Đồng thời để bảo vệ cho dinh Độc lập và cho "căn cứ địa" của chế độ là thủ đô Sài gòn, cũng như để phô trương sức mạnh của Thiên chúa giáo, ông Diệm đã cho xây dựng một cái giáp sắt Thiên chúa giáo (danh từ của Jean Lacouture trong Le Vietnam en tre deux paix) bao quanh Sài gòn và cho phép giáo dân "xâm chiếm" đất đai Sài gòn và vùng phụ cận. Ai đã từng sống tại Sài gòn từ trước 1954 cũng phải nhận thấy rằng đến năm 1963, Sài gòn không còn mang tính chất "Nam Kỳ" nữa mà đã "Bắc Kỳ hoá" theo kiểu Thiên chúa, Sài gòn không có được sự tổng hợp phải có ba miền sau cuộc di cư với sự hoà đồng văn hoá mà đã tiến thành một đô thị đặc biệt Thiên chúa giáo. Trước năm 1954, Sài gòn và Chợ Lớn chỉ có nhà thờ Đức Bà, nhà thờ Huyện Sĩ, nhà thờ Tân Định, nhà thờ Ngã Sáu, nhà thờ Kỳ Đồng, nhà thờ Chợ Lớn (sau này quen gọi là nhà thờ Cha Tam) mà tín đồ phần đông là người Pháp, người Pháp gốc Việt và người Tàu. Nhưng từ ngày ông Diệm lên cầm quyền thì nhà thờ và tu viện mọc ra khắp nơi (chưa kể số nhà thờ trong các đơn vị quân đội chỉ mới được thiết lập sau khi ông Diệm lên cầm quyền). Giáo dân sống tràn ngập vùng Phú Thọ, Ngã Tư Bảy Hiền, ngã ba ông Tạ, vùng Lăng Cha Cả, vùng Hạnh Thông Tây, vùng Tân Châu Sa, ngã ba Chú ía, vùng Tân Định, Gò Vấp... Cứ nhìn khu Phạm Ngũ Lão náo nhiệt gần chợ Sài gòn thì đủ thấy các cơ sở thương mại, kinh tế, báo chí đa số đều do người công giáo làm chủ. Cứ nhìn vào con số các trường tư ta sẽ có ý niệm về sức bành trướng ảnh hưởng của người Thiên chúa giáo tại miền Nam Việt nam dù dân số họ thua kém cả hai tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài. Cho đến năm 1969 (trên toàn quốc) Thiên chúa giáo có 1.256 trường trung, tiểu học và mẫu giáo. Trong lúc đó thì mãi cho đến năm 1970, Phật giáo mới chỉ có 160 trường trung, tiểu học Bồ Đề. Còn cơ sở giáo dục của hai tôn giáo Cao Đài và Hoà Hảo thì thật vô cùng khiêm tốn, nếu không muốn nói là con số không.Chỉ một lãnh vực trên, khi phóng rộng ra mà không sợ sai nhiều, ta cũng thấy được sự hoạt động xông xáo của người công giáo di cư về mọi mặt, đặc biệt là về mặt chính trị, thứ chính trị giành giựt địa vị, danh lợi. Đã thế người công giáo Việt nam còn được Hoa kỳ, cả chính quyền, Giáo hội lẫn tư nhân tin cậy, yểm trợ hết lòng về phương tiện và thế lực nên Thiên chúa giáo Việt nam càng bành trướng quyền lực mau lẹ và dữ dội. Người Thiên chúa giáo "Bắc Kỳ", như Jean Lacouture đã nói trong tác phẩm của ông, là hạng người hiếu động, “to mồm”, mang nặng hận thù với người Việt dân tộc từ thế kỷ 17, 18. Họ lại cuồng tín, giáo điều, và hẹp hòi đến độ bất nhân cho nên sau cái chết của ông Diệm họ vẫn không chịu công nhận tội lỗi và trách nhiệm để trở về hoà đồng với đại khối dân tộc. Họ tìm cách vùng lên, tìm cách tái tạo thế lực hầu tiếp tục quá khứ vàng son của họ để vừa có thể nắm được chính quyền vừa để trả thù những lực lượng dân tộc vốn chỉ là nạn nhân của họ. Sau cái chết của ông Diệm, người công giáo trở nên đoàn kết hơn, cả những người đã từng chống đối anh em ông Diệm cũng quay về đứng chung một giới tuyến, làm hậu thuẫn cho Nguyễn Văn Thiệu mà trường hợp Linh mục Hoàng Quỳnh và Cao Văn Luận là điển hình. Hiện tượng đó, bên trong là do mặc cảm tội lỗi và bên ngoài là vì sau cái chết của ông Diệm những sự thật về mối liên hệ giữac men, binh sĩ của tôi càng ngày càng mất khả năng cũng như tinh thần chiến đấu. Bị cô lập và phải hoàn toàn tự lực tất cả mọi mặt, tôi không tìm ra được phương thế nào để chấn chỉnh lại sức mạnh của đơn vị đang càng lúc càng rơi vào tình trạng tê liệt. Đã vậy, thỉnh thoảng các chính trị viên Việt minh đến thanh tra chiến khu lại gay gắt phê bình và lên án những nhược điểm của chúng tôi mà không đề nghị một biện pháp giải quyết nào cả.Vừa bực mình vì thái độ vô trách nhiệm của các chính uỷ, vừa bắt đầu lo sợ vì màu sắc chính trị không cộng sản của mình, và nhất là vừa nhớ nhà sau hơn hai năm trời biền biệt trong khói lửa, nên vào một buổi chiều nọ, tôi rời khỏi chiến khu Ba Râu, trốn ra vùng biển Ninh Chữ, giả vờ làm thường dân tản cư, thuê ghe về Tuy Hoà để từ đó tìm đường về quê. Ra đến Tuy Hoà không ngờ tôi lại tạm trú tại nhà một vị cựu công chức Nam triều nên biết được một số tin tức về ông Diệm.Nguyên sau khi Việt minh cướp chính quyền tại Nam Bộ, ông Diệm liền theo đường bộ rời Sài gòn để về Huế. Cùng đi với ông có Võ Văn Hải và một đồng khí trẻ là Bảo. Đến Nha Trang thì ông bị Việt minh bắt giữ nhưng nhờ kỹ sư Đặng Phút Thông đang làm việc ở Ty Hoả Xa và một trung uý Hiến binh Nhật can thiệp nên được trả tự do. Sáng hôm sau, ông tiếp tục cuộc hành trình chỉ với Bảo, nhưng cả hai lại bị Việt minh chặn bắt tại Sông Cầu. Riêng Võ Văn Hải, vì ngủ quên tại nhà một người quen tại Nha Trang nên thoát khỏi.Sau gần hai tuần lễ chỉ để vượt một đoạn đường không đến 500 cây số, lúc thì đi bằng thuyền, lúc thì xe hoả, lúc thì xe hàng, cuối cùng tôi cũng đặt chân được đến Huế.Tại ngôi nhà Phú Cam, tôi mới biết tin ông Diệm bị Việt minh bắt đem ra Bắc không biết số phận như thế nào, còn ông Ngô Đình Khôi và người con trai độc nhất của ông là Ngô Đình Huân cùng bị bắt với ông Phạm Quỳnh. Một số lớn đồng chí của tôi, trong đó có Nguyễn Tấn Quê, kẻ thì bị bắt giam vào lao Thừa Phủ, kẻ bị giam giữ ở những trại tù bí mật xa thành phố Huế, có người lại bị thủ tiêu mất tích.Về Huế mà tôi như lạc lõng đến một vùng đất xa lạ Cũng thành quách soi bóng nước sông Hương mơ màng, cũng cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, cũng tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân vang, cảnh cũ vẫn đó mà người xưa đâu còn. Ngọn cờ đỏ Sao vàng ngạo nghễ tung bay trên kỳ đài Ngọ Môn đã làm đảo lộn dân tình xứ Huế. Nhân dân tự vệ, vệ quốc quân đang soạn sửa để chờ đợi cuộc giao tranh, dân chúng đang lo lắng để tan cư về vùng thôn dã. Công dân Vĩnh Thuỵ đã ra đi kinh thành trưởng giả, đài trang, cổ kính xưa kia nay đã biến thành một quê hương ly loạn. Mấy năm sau, đọc bài thơ của Vũ Hoàng Chương, tôi vô cùng thán phục thi nhân đã lột tả được một cách thần tình những thay đổi của Cố đô và tâm trạng của những con người vốn nặng lòng hoài cổ:Một gánh gươm dàn tới Cố đôMưa liền sông tạnh tưởng vào NgôBìm leo cửa khuyết ai ngờ rứaRồng lẫn mây thành chẳng thấy môLăng miếu tỉnh chưa hồn cựu mộngVàng son đẹp nhỉ bức dư đồTiếng chuông Thiên Mụ riêng hoài cảmTốt đã vào cung loạn thế cờSau khi ở Huế mấy hôm để dò la thêm tin tức và đau đớn chấp nhận một thực tại khốc liệt và tổ chức đã tan, lãnh tụ đã bị bắt, thế cờ đã loạn, tôi quyết định rời Huế để trở về lại quê làng Thổ Ngoạ của tôi. Trận đói Ất Dậu (năm 1945) khủng khiếp vẫn còn hằn in nét đau thương kinh hoàng trên từng luống đất của làng xóm, trên mỗi khuôn mặt của bà con: mồ mả ngổn ngang mọc đầy đồng làm loang lổ những đám ruộng nứt nẻ, bà con chỉ còn xương bộ da thất thểu đi tìm nhau trong tuyệt vọng. Chỉ còn có cán bộ Việt minh và Nhân dân tự vệ, tay súng tay dao, ngạo nghễ hành xử quyền làm chủ một đại xã nổi tiếng văn học, nho phong của ngày xưa.Gặp lại người vợ mỏi mòn vì trông đợi mà đôi vai gầy như oằn xuống vì sức nặng của nhớ mong và của thiên tai, gặp lại hai đứa con trai còm cõi tay lấm chân bùn đang ê a những mẫu tự vỡ lòng trên chiếu chiếu lá xơ xác, lòng tôi như quặn lại. Tôi tự nghĩ chí hướng và sự nghiệp của mình đang dang dở mà Việt minh thì bây giờ lại xem mình như thành phần đã từng hợp tác với Pháp, cuộc sống tương lai chắc chắn sẽ vạn phần bấp bênh nguy hiểm.Bị dằn vặt trong tâm trạng đó, tôi bèn giừ thái độ “gặp thời thế thế thời phải thế”, chủ trương sinh hoạt như một kẻ an phận thủ thường để lo nuôi vợ dạy con, vốn đã quá cơ cực bần hàn với ước mơ chịu đựng cho qua cơn bão tố để chờ ngày trời quang mây tạnh. Nhưng người anh vợ của tôi, là ông Nguyễn Bá Mưu, vốn bất khuất, luôn luôn mang đầu óc quật cường, đã cùng với một số đảng viên Việt Quốc thành lập một tổ chức đối kháng lại với Việt minh, tìm cách bắt liên lạc với những đảng phái quốc gia ở ngoài Bắc. Ông kết nạp những thành phần cựu hào lý, quân nhân, công chức chế độ cũ gồm người cùng làng và những làng lân cận, trong đó có hai người anh ruột và anh rể của tôi. Nhưng chẳng may âm mưu bị bại lộ, ông Nguyễn Bá Mưu cùng một số đảng viên Việt Quốc bị ban ám sát của Việt minh đang đêm đến bắt ngay tại nhà. Người anh rể, một người anh ruột và tôi bị bắt lên chiến khu Trung Thuần, mỗi người bị đem giam một chỗ.Riêng tôi và một số anh em Thiên chúa giáo khác đang biệt giam tại một trại tù ở dưới chân núi đèo Ngang kịp thời phá tù trốn thoát được trong đường tơ kẽ tóc. Tôi dựa vào bóng đêm và men theo đường rừng, mò mẫm về được làng cũ trong bí mật. Nhưng chỉ mấy hôm sau, để tránh tai hoạ cho gia đình, vào một buổi tối mưa lớn đổ ào ạt, nhìn lại lần cuối hai đứa con trai đang ôm nhau ngủ vùi trong manh chiếu rách, hôn vợ và ôm chặt đứa con trai thứ ba mới sinh được hơn hai tháng, tôi lại lầm lũi ra đi, rời làng vào Đồng Hới. Mưa xối nặng nề trên mái tranh xác xơ của ngôi nhà như nước mắt của người vợ hiền tiễn chồng ra đi ngút ngàn vì nghiệp dĩ đấu tranh...Vào đến Đồng Hới, đang bơ vơ chưa biết liên
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~--- !!!9604_20.htm!!! hủ chỉ muốn bảo vệ một nền quân chủ. Cho đến năm 1955, vì ở vào tình trạng tranh chấp với Bảo Đại và muốn có quyền hành thật to lớn ông mới chủ trương thành lập nền Cộng hoà để ông làm một nhà độc tài.Đối với tôi chọn lựa này rất phù hợp với tư thế chính trị và bản chất đấu tranh của những người như ông Diệm và ông Lý, vốn là những vị quan lại được sinh ra và lớn lên, rồi lại được thăng hoa trong hệ thống phong kiến, nhưng lại có va chạm với những định chế Tây phương trong vị trí của một viên chức công quyền. Lửa cách mạng để lột xác một cách triệt để và toàn diện, để dứt khoát hoàn toàn với quá khứ không thể có được trong các ông.Tuy nhận định như vậy, nhưng lúc bấy giờ, đối với tôi thể chế tương lai chưa phải là mối lo âu hàng đầu mà chính sự xây dựng một tổ chức vững mạnh với một đội ngũ cán bộ kiên trì là yếu tố quan trọng để khi đuổi Tây đi, giành được độc lập thì vẫn còn sức mà "sống mái" với lực lượng Việt minh. Lý luận đơn giản và chắc nịch như thế, nên tôi để mặc những vấn đề thế chế cho các vị đàn anh như ông Diệm hay ông Lý, còn mình thì chỉ xả thân hoạt động trong phạm vi cấp thấp của mình.Tôi trở lại Đồng Hới làm việc dưới quyền của ông tỉnh trưởng Nguyễn Hữu Nhân để điều khiển một lớp đào tạo cán bộ gần 40 khoá sinh mà nội dung giảng huấn gồm cả hai phần chính trị lẫn quân sự nhằm mục đích xây dựng cái lõi nhân sự đầu tiên cho một đơn vị quân chính tương lai.Độ gần một tháng sau, nhân chuyến đi kinh lý ở Đồng Hới ông Trần Văn Lý có ghé thăm lớp huấn luyện và tỏ ra rất ngạc nhiên về những tiến bộ và thành quả của khoá. Cùng đi với ông còn có kỹ sư Lê Sĩ Ngạc (hiện đang ở Mỹ), lúc bấy giờ là uỷ viên của Hội đồng chấp chánh và ông Trần Trọng Sanh, một lãnh tụ Việt Quốc tại Huế đang là Giám đốc Công an Trung phần (hiện ở Mỹ)Song song với việc điều hành lớp huấn luyện, tôi bắt đầu tổ chức lại từ căn bản phong trào ủng hộ ông Diệm trong địa phương của mình, đặc biệt là gây dựng lại hệ thống nhân sự cho tổ chức. Vì Đồng Hới là cửa ngõ mở ra Liên khu Tư nhưng cũng là cửa thoát cho các phần tứ quốc gia muốn rời bỏ Việt minh để “về tề”, nên tôi đã thành lập một bộ phận chỉ chuyên điều nghiên để kết nạp các phần tử này.Hoạt động của tôi dù kín đáo bao nhiêu nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi đôi mắt nghi ngờ của mật thám Pháp. Nghi ngờ đó biến thành thái độ đối phó khi họ quyết định bắt tôi và ba đồng chí cốt cán của tổ chức lúc khoá huấn luyện sắp kết thúc. Thế là ông Hiệu (trưởng ty Công an tỉnh Quảng Bình), ông Đặng Phúc (một người bà con của ông Diệm), ông Phạm Đăng Tải quận trưởng quận Lệ Thuỷ (hiện ở Mỹ) và tôi bị phòng nhì Pháp ập vào nhà riêng từng người bắt giam, và sau đó giải về phòng điều tra của Phòng Nhì Pháp tại Huế. May mắn thay, nhờ có đồng chí kịp thời thông báo, ông Trần Văn Lý vội can thiệp ngay với tướng Lebris, đang vừa là Uỷ Viên cộng hoà vừa là tư lệnh quân đội Pháp ở miền Trung, nên chúng tôi được trả tự do.Cuối tháng 12, Bảo Đại ký thông cáo chung với Cao uỷ Emile Bollaert, chuẩn bị cho Việt nam độc lập trong Liên hiệp Pháp, tôi quyết định chuyển từ đấu tranh bí mật sang đấu tranh công khai. Quyết định này xuất phát từ ba lý do rất rõ ràng: Trước hết, trong khung cảnh đấu tranh chính trị lúc bấy giờ, vấn đề biểu dương lực lượng để xác định sự hiện diện và sự lớn mạnh của tổ chức rất cần thiết; thứ nhì là cần tạo một số cơ sở quần chúng để đưa tổ chức dựa lưng vào nhân dân; và cuối cùng là cá nhân tôi và một số đồng chí đàng nào cũng có hồ sơ và cũng đã bị mật thám Pháp theo dõi.Một cơ quan ngôn luận vừa có chức năng thông tin tuyên truyền, vừa có nhiệm vụ vận động đấu tranh là hình thức thích hợp nhất và có thể trả lời được ba điều kiện trên. Tôi bèn bàn với anh Phan Xứng, người bạn tri kỷ của tôi, quyết định cho ra đời tuần báo Tiếng gọi. Tôi làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, còn anh Xứng làm Tổng thư ký toà soạn với sự hợp tác của cá Giáo hội Thiên chúa giáo và chính quyền Diệm, đặc biệt là với thành phần Cần lao công giáo, càng lúc càng bị tiết lộ ra rõ ràng, ngay cả luật sư Nguyễn Văn Huyền, một nhân sĩ Công giáo miền Nam từng có thái độ bất hợp tác với chế độ Diệm, từng đả kích Cần lao trong một cuộc phỏng vấn của báo chí khi cách mạng 1-11-63 vừa hoàn thành, thế mà rồi bất đắc dĩ cũng phải hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu.Thật ra thì sự phục hồi quyền lực của khối Công giáo đã bắt đầu từ khi xảy ra cái chết của thiếu tá Nhung, viên sĩ quan thân tín của tướng Dương Văn Minh, người đã hạ sát hai ông Diệm - Nhu. Kể từ cái chết đó, khối Công giáo tích cực hoạt động chống đối Phật giáo, chống đối sinh viên và chống đối các đảng phái để tiến lên cho đến khi họ lật được chính quyền dân sự của hai ông Phan Khắc Sửu và Phan Huy Quát, tạo lý do và cơ hội đưa dần Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống như tôi đã trình bày.Về phần Nguyễn Văn Thiệu, tuy đã nắm được chính quyền nhưng tự biết mình vừa không đủ uy tín vừa không có hậu thuẫn, đã thế còn bị Nguyễn Cao Kỳ thù nghịch và chống phá nên phải thoả hiệp và "đầu quân” với khối Công giáo để có hậu thuẫn chính trị hầu đương đầu với các khối đối lập.Sự cấu kết giữa "kẻ cắp" Nguyễn Văn Thiệu và "bà già" Công giáo đã biến chế độ Đệ nhị Cộng hoà thành ra chế độ Diệm không Diệm. Việc ra đời cuốn sách “Làm thế nào để giết một Tổng thống" của Cao Thế Dung vào năm 1970 và việc ra đời cái tổ chức gọi là "Phong trào phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm" của khối Công giáo mà Thiệu đã âm thầm chủ xướng, càng tô đậm thêm cái căn cước thật sự của chế độ Thiệu là một chế độ Diệm không Diệm.Lợi dụng cơ hội "đầu quân” đó của Thiệu và nhìn thấy viễn tượng quyền lực Thiệu sắp nắm được, người Công giáo bèn quên cái tội của Thiệu trong quá khứ vốn là một con chiên ngoan đạo và là một sĩ quan trung thành với ông Diệm nhưng cầm quân tấn công dinh Gia Long để lật đổ ông Diệm. Có quên cái "tội" đó mới thoả hiệp được với nhau trong vấn đề san sẻ quyền lực và tiến hành được ý đồ phục hồi những quyền lợi đã mất. Những người Công giáo tự xưng là trung thành với ông Diệm cũng đã không ngần ngại ngửa tay nhận của Thiệu 500.000 đồng bạc để tổ chức lễ cúng kỵ ông Diệm, lần đầu tiên tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi và còn mời cả vợ Thiệu đến tham dự. Buổi lễ đầu tiên ấy chính do âm mưu sắp đặt của Thiệu như Robrt Shaplen đã nói trong loạt bài The cult of Diem nên Ngô Khắc Tỉnh, Bộ trưởng thông tin của Thiệu tổ chức và chủ toạ, nói lên sự cấu kết giữa chính quyền Thiệu và khối Công giáo chặt chẽ và tương đắc như thế nào. Trung uý Nguyễn Minh Bảo, trong tập Đời một Tổng thống, nhân nói về lễ cúng kỵ ông Diệm tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi đã tỏ lòng biết ơn và tôn vinh chính quyền Thiệu, càng làm nổi bật cái bản chất chế độ Thiệu là một chế độ Diệm nối dài:... Hàng năm, ngày 2 tháng 11 tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi Sài gòn, lễ truy điệu (cố Tổng thống Diệm) được tổ chức trọng thể...Ngay giữa Thủ đô, buổi lễ được tổ chức trang trọng với sự hiện diện của hàng vạn người (LTG: thật ra chỉ vài ngàn người mà hầu hết là người Công giáo) còn nói lên thái dộ sáng suốt, vô tư và đắc nhân tâm của chính quyền vì nó đã gây được niền hân hoan cho một tập thể quần chúng đông đảo có tinh thần quốc gia chân chính...Nguyễn Minh Bảo là một sĩ quan thuộc Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Tổng thống phủ thời Đệ nhất cộng hoà, một cán bộ Cần lao công tín chỉ biết nhất Chúa nhì ông Diệm còn tất cả chỉ là thứ yếu. Rõ ràng trong lúc toàn quân, toàn nước, toàn thế giới ai cũng biết và phỉ nhổ chính quyền Thiệu quân phiệt, tham nhũng, hại nước hại dân thì Bảo lại ca tụng cái chính quyền đó là "sáng suốt, vô tư và đắc nhân tâm...” như Bảo đã từng mù quáng ca tụng "người ta chỉ thấy rằng dưới thời Ngô Đình Diệm, các tôn giáo đã đạt được một thời kỳ hưng thịnh nhất” trong cuốn sách của anh ta. Điều đó chỉ nói lên hai điểm đặc trưng của những thành phần Cần lao công giáo Việt nam: thứ nhất là khối Công giáo sẵn sàng ca tụng và hậu thuẫn cho bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, miễn là có lợi cho nước chúa, dân chúa; và thứ hai, mà đây mới là điểm thê thảm, là những điều họ nghĩ, họ nói và họ làm phản ảnh cái phong cách hành xử của một Giáo hội đang chà đạp cái nội dung tốt đẹp của những lời rao giảng trong Phúc âm.Năm 1966, nền Đệ nhị Cộng hoà ra đời với vấn dề với tấm giấy khai sinh chính trị dề tên "chế độ Nguyễn Văn Thiệu”. Để nhận diện chế độ này ta không thể theo phương pháp thông thường đặt nặng vấn đề cứu xét các chánh sách, thẩm định các cơ cấu chính quyền hay phân tích cái văn kiện căn bản về hành chính và tư pháp, mà trong trường hợp chế độ Thiệu của miền Nam kể từ 1966, ta phải nhìn thành phần nhân sự lãnh đạo ở thượng tầng, và cái thế lực hậu thuẫn chế độ đó ở hạ tầng quần chúng.Thật vậy, kể từ năm 1954, chính trị miền Nam là một loại chính trị mà lực vận động chính là nhân sự. Chánh sách, đường lối, sách lược, phương tiện... đều đã bị Hoa kỳ âm thầm hay công khai nắm lấy để điều động cho nên trong mỗi giai đoạn, với mỗi chế độ đều có một khuôn mặt Việt nam tiêu biểu, đều có một lực lượng Việt nam nổi bật lên, và chỉ cần xét khuôn mặt đó, lực lượng đó là ta có thể thấy được chân tướng chính trị và văn hoá của chế độ này.Đó là quy luật đặc thù của chính trị miền Nam từ sau 1954.Chế độ Thiệu cũng không nằm ngoài quy luật dó, cho nên chỉ cần điểm mặt thành phần lãnh dạo làm việc cho Thiệu và vì Thiệu, chỉ cần lôi ra ánh sáng thế lực hậu thuẫn cho chính quyền quân phiệt đó là ta có thể xác định được chế độ Thiệu có phải là một chế độ “Diệm không Diệm” không?Vậy thì những ai làm việc cho Thiệu?Trong dinh Độc lập có cố vấn an ninh Tình báo kiêm Cố vấn quân sự là Đặng Văn Quang, người con nuôi tinh thần của bà ấm, chị ruột Tổng thống Diệm và là thân mẫu của Giám mục Bùi Văn Lương thời Diệm. Ngoài những chức vụ cht một viên chánh tổng của miền quê Bắc Việt. Chân đi guốc gỗ, mặc áo bà ba lụa trắng, miệng nhai trầu nhóp nhép nhưng nói phô trịnh thượng và lại khinh người. Với ai ông Cẩn cũng gọi là thằng nọ, thằng kia, ngay cả với ông Bảo Đại, ông Cẩn chỉ trích và chê bai tất cả các đảng phái và thường huênh hoang bảo rằng: "Bọn Đại Việt, Việt Quê có đến mời tôi làm lãnh tụ nhưng "bọn đó” chẳng làm được trò trống gì nên từ chối". Ông Cẩn có tiếng nói rõ ràng và cặp mắt rất sắc, đôi lông mày rậm và hơi xếch lên theo cái tướng của những người hiểm ác, dám làm những việc táo bạo. Sáu người con trai của ông Ngô Đình Khả ai cũng học hành thành tài và có sự nghiệp, chỉ riêng ông Cẩn mới học đến lớp ba tiểu học thì vì ham chơi mà đứt ngang việc học hành. Cũng vì thế mà khi lớn lên, ông Cẩn chỉ ở nhà lo việc đồng áng, chăm sóc bà cụ thân sinh và phụ trách các việc quan, hôn, tang, tế, trong dòng họ Ngô Đình.Từ năm 1948, một phần vì tổ chức bị tan rã từ trước và phần khác vì ông Diệm không có mặt thường trực tại Huế nên số cán bộ cũ không còn lại bao nhiêu người, chỉ thưa thớt có các ông Võ Như Nguyện, Trần Văn Hướng, Nguyễn Vinh và tôi, vốn là những đồng chí cũ của ông Diệm từ thời tiền 1945. Dần dần, nhờ nỗ lực phát triển của chúng tôi và nhất là nhờ có một số người ý thức được rằng giải pháp Bảo Đại chưa phải là một giải pháp lâu dài để giải quyết dứt khoát và toàn bộ vấn đề Việt nam nên họ lượng định lại “lá bài" Ngô Đình Diệm, và muốn liên hệ với chúng tôi như một lối thoát chính trị trừ bị, do đó họ cũng thường đến sinh hoạt ủng hộ chúng tôi. Nhóm này có các ông Nguyễn Đôn Duyến, Tôn Thất Trạch, Phạm Văn Nhu, Trương Văn Huế, Phùng Ngọc Trưng, Nguyễn Văn Đông, Bùi Tuân, Huỳnh Hữu Tiến... Linh mục Nguyễn Văn Thinh thuộc dòng Chúa Cứu Thế ở Huế, cũng thường lui tới ngôi nhà Phú Cam để yểm trợ và theo dõi tình hình. Số lượng những người ủng hộ ông Diệm càng ngày càng gia tăng, phần đông là các linh mục và những người theo đạo Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, cho đến ngày ông Diệm về nước (vào năm 1954), số lượng đó chỉ hơn 30 người ở khắp bốn tỉnh miền Trung Trung phần. Ông Trần Điền (sau này là Nghị sĩ Quốc hội thời Đệ nhị cộng hoà) và ông Nguyễn Trân (sau này là Tỉnh trưởng Nha Trang dưới thời ông Diệm) cũng thỉnh thoảng đến nhà của ông Ngô Đình Cẩn, nhưng hai ông này chỉ để gây cảm tình và để nghe ngóng tình hình chứ không phải thực sự ủng hộ ông Diệm. Ông Trần Điền, vì một mặt có bà con với ông Hà Thức Ký (một lãnh tụ Đại Việt ở miền Trung), mặt khác là cộng sự viên thân tín của ông Trần Văn Lý, lại có ý khinh bỉ ông Cẩn nên không thực tâm ủng hộ, còn ông Nguyễn Trân, vì có mặc cảm là một cựu tri phủ tham nhũng của Nam Triều bị hạ hồi dân tịch lại có xu hướng thân Pháp, nên không dám hoạt động cho giải pháp Ngô Đình Diệm.Ông Trần Văn Lý, vốn là một đồng chí kỳ cựu của ông Diệm, trong thời kỳ làm Chủ tịch Hội Đông chấp chánh đã giúp đớ tiền bạc để ông Diệm tiêu dùng và chi phí việc đi lại Hồng Kông gặp gỡ Cựu hoàng Bảo Đại. Nhưng từ khi ông Cẩn thấy tổ chức của anh mình bắt đầu sống lại và càng ngày càng thấy phát triển mạnh thêm thì bắt đầu có thái độ khinh thường ông Lý, cho nên kể từ tháng 3 năm 1948, khi ông Lý mất chức Chủ tịch Hội đồng chấp chánh thì hai gia đình không còn liên hệ gì với nhau nữa. Các ông Diệm, Nhu và giám mục Thục có lẽ vì nghe lời gièm pha và xúi giục của ông Cẩn nên cũng chấm dứt mối tương quan với ông Lý.Thời bấy giờ ở Huế, ông Cẩn công khai bày tỏ sự căm thù đối với dược sĩ Nguyễn Cao Thăng, và gọi là Việt Gian, vô luân, vì ông Thăng là bạn giao tình của Thủ Hiến Phan Văn Giáo, người mà ông Cẩn thù ghét. Ông Nguyễn Cao Thăng còn là tay chân thân tín của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và là đại diện lực lượng thợ thuyền của ông Tâm tại Trung phần. Nhưng lý do chính và sâu kín nhất mà ông Cẩn thù hằn ông Thăng là vì ông này thường công khai mạt sát ông Cẩn là "hạng nhai trầu, dựa tên tuổi cha anh mà làm tàng, hàng chánh tổng mà đòi lên làm lãnh tụ...". Ông Cẩn còn tuyên bố với anh em chúng tôi là hễ có chính quyền trong tay thì người đầu tiên ở Huế ông ta chặt đầu là Nguyễn Cao Thăng. (Cuối năm 1954 khi ông Diệm đã làm thủ tướng, tức là ông Cẩn "đã có chính quyền trong tay", ông bèn ra lệnh cho nhóm Lê Quang Tung, Trần Thái - biệt danh Thái Đen - ném lựu đạn vào nhà riêng của ông Trần Văn Lý và vào nhà thuốc của ông Nguyễn Cao Thăng ở đường Trần Hưng Đạo. Ông Trần Thái hiện sống ở Mỹ).Từ năm 1948, các ông Thục, Diệm, và Nhu thỉnh thoảng về Huế để thăm bà cụ thân sinh. Cứ mỗi lần như vậy, nhất là khi chính ông Diệm về, chúng tôi tổ chức các cuộc gặp gỡ trong vòng đồng chí và thân hữu để thảo luận về tình hình chính trị, tình hình chiến sự và các kế hoạch cần phát động. Và từ đó, chúng tôi siết chặt vòng thân hữu lại bằng cách yêu cầu các thân hữu (chứ không phải chỉ các đồng chí trong tổ chức mà thôi như trước kia) cứ mỗi ba tháng lại đóng góp một số tiền để giúp đỡ ông Diệm, ông Nhu có khả năng tài chánh hoạt động chính trị. Sau này, khi ông Diệm xuất ngoại, số tiền đóng góp của chúng tôi lại tăng thêm và thường xuyên hơn.Ông Thục và ông Nhu cũng to ra cởi mở và vui vẻ hơn ngày xưa, thường thăm hỏi hoàn cảnh gia đình và tâm sự cá nhân riêng của chúng tôi. Vào một buổi chiều tháng 6.1950 ông Nhu đã nhờ ông Võ Như Nguyên và ông Huỳnh Hữu Hiến hướng dẫn đến thăm tôi tại căn nhà nghèo nàn chật hẹp ở cửa Đông Ba. Lúc bấy giờ tôi là một trung uý trong quân đội Việt Binh Đoàn với một người vợ đảm đang nhưng quê mùa và bốn đứa con trai mà đứa đầu mới 10 tuổi. Trong căn phòng khách chật hẹp và nóng nực, và cũng là phòng học và phòng ngủ của các con tôi, ông Nhu tuy mồ hôi nhễ nhại mà cũng vui vẻ dùng chè xanh và cho biết sở dĩ ông đến thăm tôi vì giới thiệu đặc biệt của hai ông Diệm và Cẩn về một cán bộ trung kiên, tâm huyết, can trường và biết sống chết cho lý tưởng. Tôi còn nhớ ông Nhu đã nói thẳng rằng: "Muốn làm cách mạng thì phải có những chiến sĩ như anh, còn hạng khoa bảng chỉ là bọn nhát gan, hay tính toán và chỉ biết tranh giành địa vị để làm giàu".Ông Cẩn tuy thường ngạo mạn và ra oai với mọi người nhưng cũng biết e dè với cụ Trương Văn Huế, một bậc lão thành, với ông Võ Như Nguyện và tôi, hai cán bộ dám chỉ trích và tranh luận tay đôi với ông ta. Vì những sinh hoạt của tôi tại ngôi nhà Phú Cam càng ngày càng ông khai, và vì ông Cẩn ngày càng đả kích Quốc trưởng Bảo Đại nên một hôm, thủ hiến Phan Văn Giáo, với tư cách là cấp chỉ huy của tôi, đã mời tôi đến văn phòng để cảnh cáo dưới hình thức của một buổi nói chuyện thân tình: "Moa biết toa làm việc với moa mà toa vẫn cứ trung thành và hoạt động cho Ngô Đình Diệm. Nhóm Ngô Đình Cẩn làm gì kể cả việc nói xấu Đức Quốc Trưởng và chỉ trích moa, moa biết hết. Nhưng moa tha cho hết vì nhóm đó cũng là những người chống cộng sản, chống Việt minh, huống chi moa biết Diệm quá rõ, Diệm không làm nên trò trống gì đâu, bọn toa có hoạt động cũng vô ích, cũng chẳng đi tới đâu, nên moa chẳng cần bắt bớ. Toa thừa biết chứ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ và Phan Văn Giáo đã có một thời kết nghĩa anh em như "Lestrois Mousquetaies". Diệm lù khù như một nhà tu, lại dang dở chuyện tình duyên nên moa và Đệ gọi y là "Aramus". (Nguyễn Đệ, nguyên Đổng Lý văn phòng của Quốc trưởng Bảo Đại. Trong hồi ký Le Dragon d'annam, Bảo Đại cũng cho biết ông Đệ và ông Diệm là đôi bạn thân, khi ông Diệm từ chức Thượng thư Bộ lại thì ông Đệ cũng từ quan, ông Đệ hiện ở Pháp)."Có lẽ vì Ngô Đình Cẩn tự ái không cho toa biết chứ moa đã giúp đỡ cho mụ Cả Lễ (em gái ông Diệm) nhiều vụ đấu thầu để bà ta có lời lấy tiền giúp cho Diệm và Cẩn hoạt động. Chủ trương của moa là các đảng quốc gia cần phải được chính quyền giúp đỡ vì họ càng hoạt động, càng tổ chức, thì càng làm giảm tiềm lực Cộng sản, hàng ngũ chống Cộng càng tăng thêm. Trước đây Trần Văn Hướng (anh ruột của Trần Văn Dĩnh) làm phó giám đốc Thông tin, in bài báo của đại sứ William Bullit để đả kích Quốc trưởng rải khắp nơi trong ý đồ ủng hộ ông Diệm, moa cũng tha thứ, thì nay moa chỉ gọi toa đến để nói cho toa biết lòng quảng đại, khoan dung của moa không làm tội tình gì toa đâu”. (Những lời lẽ của ông Giáo trên đây tôi nói lại cho ông Cẩn và các bạn bè như ông Duyến, Nguyện, Hướng biết).Sau này, năm 1954, khi ông Diệm mới từ Mỹ về nước cầm quyền thì ông Giáo đang là Thủ hiến Trung Việt (nhiệm kỳ hai). Trong lần ông Diệm trở về Huế để bái yết đức Từ Cung và thăm những Tôn Miếu trong Hoàng thành, ông Giáo đã tổ chức một cuộc đón rước rất trọng thể tại sân bay Phú Bài và ngay tại Cố đô Huế. Nhưng chỉ độ một tháng sau thì ông Diệm cách chức ông Giáo, điều tra tài sản và đe doạ khiến ông Giáo phải trốn đi Pháp.Ngày 7.2.1950, Hoa kỳ và Anh cùng công nhận nước Việt nam độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Bảo Đại. Toà đại sứ Hoa kỳ đầu tiên đặt tại Sài gòn do ông Donald Heath, một nhà ngoại giao kỳ cựu, điều khiển. Trong khi đó thì Mao Trạch Đông, sau khi thống nhất được Trung Hoa lục địa, bắt đầu tiến hành kế hoạch quân viện cho Việt minh dọc theo miền biên giới Việt Hoa.Như vậy, những vận động ầm ĩ từ trước của các trường quốc tế về số phận của nước Việt nam bắt đầu phát động mạnh mẽ bằng những lời biểu dương ngoại giao và quân sự ngay trong lòng đất nước vào mùa xuân năm 1950 mặc những nỗ lực tội nghiệp của đế quốc Pháp đang trên đà suy tàn. Và đến cuối năm, sau khi bị đánh bại nặng nề ở Cao Bằng, ngày 6.12.1950, chính phủ Pháp bổ nhiệm tướng Jean De Lattre de Tassigny làm Tổng tư lệnh quân đội kiêm Cao uỷ Đông Dương để mong cứu vãn tình hình càng lúc càng nguy ngập.Cũng trong mùa xuân năm đó, tôi được thuyên chuyển ra Đồng Hới giữ chức Chỉ huy trưởng lực lượng Việt Binh Đoàn tỉnh Quảng Bình. Trước khi lên đường về nhiệm sở mới, trong văn phòng ông Phan Văn Giáo và có mặt cả ông Nguyễn Ngọc Lễ, ông Giáo cho biết người Pháp đã phản đối kịch liệt quyết định bổ nhiệm tôi vào chức vụ quan trọng này vì họ không tin tưởng vào lập trường chính trị của tôi. Trước khi ra về để lên đường ông mới nói rõ ý định thật của mình: "Moa giải thích với người Pháp về chuyện bổ nhiệm toa giữ chức chỉ huy quân sự rằng toa là người quê Quảng Bình nên hiểu rõ dân tình và địa thế vùng đất chiến lược này. Moa muốn toa hợp tác chặt chẽ với bên dân sự là tỉnh trưởng Nguyễn Văn An ở ngoài đó (Nguyễn Văn An tức Nguyễn Tấn Quê, mưu sĩ xuất sắc nhất của ông Diệm mà tôi đã đề cập trong chương hai, ông đổi tên từ sau khi ở tù Việt minh ra. Từ đây tôi sẽ chỉ gọi tên Nguyễn Văn An để thay thế cho tên Nguyễn Tấn Quê). Hai anh em sẽ bắt tay nhau chặt chẽ để bình định tỉnh Quảng Bình, vì moa đang điều đình với người Pháp để họ giao hoàn toàn quyền cai trị tỉnh này lại cho chính quyền Việt nam. Quảng Bình là nơi đầu sóng ngọn gió đối đầu với Liên Khu Tư của Việt minh, mình phải tỏ ra đủ khả năng đương đầu với Việt minh trên cả hai mặt chính trị và quân sự thì người Pháp mới dần dần trả đất đai quyền hành cho Đức Quốc Trưởng”.Tôi về lại Quảng Bình, quê hương thân thương, và cùng với ông Nguyễn Văn An bắt tay tiến việc xây dựng và phát triển sức mạnh của Việt Binh Đoàn như một sức mạnh vừa công và thủ, vừa có chức năng bảo vệ các cơ sở hành chính và kinh tế, vừa có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị vũ trang của địch.Một hôm, tôi vào văn phòng tỉnh trưởng thì gặp ông Nguyễn Văn An đang đàm luận với một tu sĩ Phật giáo, ông bèn giới thiệu với tôi tu sĩ này. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thượng toạ Thích Trí Quang, vị tu sĩ sau này, năm 1963 đã làm "rung động nước Mỹ” và lãnh đạo lực lượng Phật giáo để cùng với quần chúng cả nước đương đầu với chế độ Ngô Đình Diệm. Thượng toạ Thích Trí Quang lúc bấy giờ còn trẻ, gương mặt xương, hai lưỡng quyền cao và có cặp mắt sáng, tuy nhiên cách nói chuyện của ông rất nhỏ nhẹ mà rõ ràng.Tôi vào một lát thì Thượng toạ Trí Quang ra về, ông An cho tôi biết Thượng toạ trụ trì ở Huế nhưng được ông An đích thân mời ra Đồng Hới trong ý định nhờ Thượng toạ yểm trợ kế hoạch Việt nam hoá tỉnh Quảng Bình mà ông Phan Văn Giáo đã uỷ thác cho chúng tôi. Tỉnh trưởng Nguyễn Văn An kết luận rằng: “Quân sự thì có anh, chính trị thì có tôi, còn thế nhân dân thì phải nhờ đến Thượng toạ”. Hỏi thêm thì ông An cho biết đã quen với Thượng toạ Trí Quang trong thời kỳ hoạt động chung cho Hội Chấn Hưng Phật giáo miền Trung với bác sĩ Lê Đình Thám, một cư sĩ tiếng tăm của Phật giáo.Hai con người đa mưu túc trí đó đều mang chung hoài bão xây dựng một vùng "Ba Thục Việt nam", không Việt minh, không Pháp, để làm căn cứ địa cho một chiến lược lâu dài (chính vì hoài bão lớn lao đó mà Nguyễn Văn An đã không trở lại hợp tác với ông Phan Văn Giáo và Quốc trưởng Bảo Đại để lợi dụng thời cơ tính chuyện lâu dài). An dặn tôi phải giữ bí mật tối đa tung tích và hoạt động của Thượng toạ Trí Quang vì người Pháp vẫn còn nghi ngờ Thượng toạ thân Việt minh chống Pháp.Chương trình xây dựng tỉnh Quảng Bình đang phát triển tốt đẹp thì ông Phan Văn Giáo bị tân Thủ tướng Trần Văn Hữu cắt chức và bổ nhiệm ông Trần Văn Lý thay thế. Ông Lý bèn gửi thư yêu cầu tôi rời Đồng Hới tức tốc trở về Huế giữ chức Tham mưu trưởng Việt Binh đoàn thay thế cho thiếu tá Trần Nguyên An, tay chân thân tín của ông Phan Văn Giáo. đại uý Tôn Thất Xứng (hiện ở Canađa) được cử thay thế tôi.Rời Quảng Bình mà lòng tôi không khỏi bùi ngùi và luyến tiếc. Không những bùi ngùi vì phải từ biệt một đồng chí thân thiết mà còn luyến tiếc vì công tác bình định đang trên đà thắng lợi mà còn vì trong mấy tháng ở đó, với tư cách chỉ huy trưởng quân sự, tôi đã được dịp thăm hết vùng đất quê hương thân yêu của tôi mà thời niên thiếu tôi đã không có cơ hội thực hiện được. Tôi cũng đã đến Diêm Điền, quê hương của Thượng toạ Trí Quang chỉ cách tỉnh lỵ Đồng Hới có ba cây số, cũng như đến làng An Xá và làng Đại Phong, quê hương của các ông Võ Nguyên Giáp và Ngô Đình Diệm. Chính nhờ những dịp gặp gỡ với người trong làng, những dịp tiếp xúc thân tình với các bô lão kỳ cựu trong xóm mà tôi tìm hiểu được một số dữ kiện về xuất xứ, dòng họ của các ông Diệm, ông Giáp và Thượng toạ Trí Quang (những dữ kiện mà những sách báo và tài liệu vì muốn suy tôn và huyền thoại hoá các nhân vật này đã không đề cập). Thật ra, lúc bấy giờ, sự tìm hiểu này để thoả mãn óc tò mò về các nhân vật cùng quê đang có liên hệ đến công việc của mình chứ không phải vì sau này ba người đồng hương kia trở thành ba đối thủ lợi hại mà tên tuổi vang lừng khắp bốn bể năm thâu, mà những quyết định nhiều khi làm đảo điên vận mệnh đất nước.Với nhiệm vụ của một Tham mưu trưởng trực thuộc trung tá Nguyễn Ngọc Lễ trong hệ thống quân giai và thủ hiến Trần Văn Lý trong hệ thống hành chính, tôi được giao hai công tác quan trọng và khẩn cấp: Thứ nhất là cải tổ Việt Binh Đoàn trở thành quân đội chính qui, thống nhất vào quân đội quốc gia, phụ thuộc vào Bộ Tổng tham mưu Trung ương Sài gòn. Bộ Tổng tham mưu Việt nam này được thành lập với tất cả những điều kiện khó khăn của những bước đầu chập chững, những sơ hở và yếu kém của một định chế mới chào đời. (Ông Nguyễn Văn Hinh, nguyên trung tá không quân của quân đội Pháp được đặc cách thăng Thiếu tướng thuyên chuyển qua làm Tổng tham mưu trưởng). Sự thành lập quân đội quốc gia nằm trong chủ trương chung của Quốc trưởng Bảo Đại và tướng De Lattre và phù hợp với điều kiện tiên quyết của Hoa kỳ, chỉ muốn viện trợ quân sự để thành lập một quân đội chính quy cho quốc gia Việt nam (từ ngày 9 tháng 3 năm 1950, ông Acheson đã yêu cầu Tổng thống Truman chuẩn chi 15 triệu Mỹ kim viện trợ cho người Pháp tại Đông Dương và 6 tháng sau "The Voice of America" bắt đầu có phần tin tức Việt ngữ). Việc này là nhờ uy tín của Quốc trưởng Bảo Đại.Công việc khẩn cấp thứ hai của tôi là thành lập một số tiểu đoàn tác chiến chính qui mà quân nhân gồm toàn thanh niên Thiên chúa giáo động viên từ vùng Phát Diệm và các giáo khu miền Bắc để thành lập một sư đoàn trong kế hoạch phản công tiến chiếm tỉnh Thanh Hoá. Những thanh niên này sẽ được bí mật không vận về Huế để được huấn luyện đặc biệt và được tổ chức thành các đơn vị tác chiến tinh nhuệ rồi lại đưa về Phát Diệm để thực hiện kế hoạch tái chiếm Thanh Hoá. Đây là một chiến dịch tối mật do giám mục Lê Hữu Từ và thủ hiến Trần Văn Lý đề nghị và được tướng De Lattre và Thủ tướng Trần Văn Hữu đồng ý thực hiện. Tôi mới thành lập được một tiểu đoàn mang danh số "tiểu đoàn 27" và sắp mãn khoá huấn luyện tại Quảng Trị thì tại Sài gòn, tháng 8 năm 1952, ông Trần Văn Hữu từ chức và ông Nguyễn Văn Tâm được vua Bảo Đại uỷ nhiệm lên thay thế. Vì là một bạn thân của cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu, ông Trần Văn Lý bị giải nhiệm chức Thủ Hiến Trung phần.Ông Nguyễn Văn Tâm là thân phụ của tướng Nguyễn Văn Hinh, có hỗn danh “Cọp Cai Lậy” là một người thân Pháp và nổi tiếng rất chống cộng tại miền Nam. Nội các do ông thành lập trừ ông Võ Hòng Khanh lãnh tụ Việt nam Quốc dân Đảng làm bộ trưởng thanh niên và thể thao, số còn lại gồm toàn những nhân vật không được quần chúng tín nhiệm vì xu hướng thân Tây quá rõ ràng. Vị lãnh sự Mỹ tại Hà nội đã phúc trình cho Washington rằng nội các này sẽ trở thành "một đối tượng tuyên truyền cho Việt minh" và chỉ là sự "trở lại khốn cùng của tiền Mỹ máu Pháp".Cả ông Hinh lẫn trung tá Trần Văn Đôn (lúc bấy giờ là giám đốc An minh quân đội) đều nắm hồ sơ cá nhân của tôi và biết tôi là phần tử chống Pháp và hoạt động cho ông Diệm nên quyết định tê liệt hoá hoạt động của tôi bằng cách thuyên chuyển tôi ra Bắc Việt, trao quyền tham mưu trưởng đệ nhị quân khu tại Huế lại cho thiếu tá Trương Văn Xương, một sĩ quan tay sai của Pháp và là nhân viên thân tín của tướng Hinh. Ngày ra đi, sân bay Phú Bài nắng chói chang, vợ tôi và sáu đứa con nhỏ nhờ người đồng chí của tôi là ông Thái Văn Châu chở lên phi trường để tiễn chồng, tiễn cha đi miền Bắc khói lửa ngút ngàn. Tôi còn nhớ hai câu thơ tả cảnh biệt ly não nuột đó được làm gởi về cho các con tôi một năm sau:Mi con trành lệ cha rơi lệMà lệ khôn cầm cảnh chia tay...