PHẦN 1
Những người cuối cùng thấy họ còn sống

    
àng Holcomb nằm trên những bình nguyên cao trồng lúa mì Tây Kansas, một vùng hẻo lánh mà người Kansas ở nơi khác gọi là “ở ngoài đó.” Cách ranh giới Colorado chừng bảy chục dặm về phía Đông, với bầu trời xanh gắt gay và khí trời trong veo của sa mạc, đồng quê ở đây nom có vẻ Viễn Tây hơn là Trung Tây. Tiếng địa phương khê nặc một giọng mũi người đồng cỏ, một giọng mũi của người chăn gia súc, và đàn ông thì nhiều người mặc quần biên giới chật, đội mũ cao bồi và đi ủng cao góc nhọn mũi. Đất bằng và thẳng tít cánh cò bay trước mắt; ngựa, những bầy gia súc, một cụm trắng những máy chuyển hạt ngũ cốc nổi lên duyên dáng như những ngôi đền Hy Lạp mà lữ khách nhìn thấy mãi từ lâu rồi mới tiến lại được gần.
Cũng có thể nhìn thấy Holcomb từ rất xa như vậy. Chẳng phải có nhiều thứ để mà nhìn - đơn giản là một tập hợp lộn xộn những ngôi nhà bị tuyến chính của đường xe lửa Santa Fe cắt ra ở giữa, một chòm xóm rủi thế nào bị bít lại ở phía Nam bởi dải nước màu nâu của sông Arkansas, ở phía Bắc bởi một xa lộ, đường số 50, còn ở phía Đông và phía Tây thì bởi đồng cỏ cùng đồng lúa mì. Sau cơn mưa hay khi tan băng, những đường phố không tên gọi, không bóng cây, không đá lát liền biến từ lầm bụi nhất sang bùn lầy kinh hoàng nhất. Ở một đầu thị trấn lù lù một tòa nhà trát vữa, cũ kỹ, trần trụi mái đỡ một bảng hiệu bằng điện - KHIÊU VŨ - nhưng khiêu vũ đã ngừng và bảng quảng cáo đã nhiều năm tối om. Gần đó là một tòa nhà khác, với bảng hiệu chẳng ăn nhập, bằng chữ vàng đã bong trên kính cửa sổ bẩn thỉu - NGÂN HÀNG HOLCOMB. Ngân hàng đóng cửa năm 1933, và các quầy thu tiền trả tiền trước đây được chuyển thành các căn hộ. Đó là một trong hai “nhà căn hộ” của thị trấn, cái thứ hai là một tòa nhà xiêu vẹo được gọi là Sở Thầy Cô, vì phần lớn giáo viên của trường học địa phương ngụ tại đó. Nhưng đa số nhà ở Holcomb là nhà doanh nghiệp kiểu một tầng gác với cổng phía trước.
Xuống dưới, gần ga xe lửa, bà chánh bưu điện, một người đàn bà gầy oặt mặc áo da thô và quần vải bò, ủng cao bồi, chủ trì một nhà bưu điện nằm tách biệt ra. Với nước sơn màu acid sulfuric đã bong thóc, bản thân nhà ga cũng tẻ buồn như vậy; ông Xếp, Ông Xếp Chánh, ông El Capitan[1] hằng ngày tới đó, nhưng các chuyện tàu tốc hành được trọng vọng thì chẳng bao giờ dừng lại ở đây. Các tàu khách cũng vậy, chỉ thỉnh thoảng có một chuyến tàu hàng. Lên trên đằng xa lộ, có hai trạm xăng, một kiêm luôn cửa hàng tạp hóa cung cấp vài thứ ít ỏi, còn một thì kèm thêm quán cà phê - Quán cà phê Hartman, ở đó, bà Hartman chủ quán có bán bánh kẹp thịt, cà phê, các thức uống nhẹ và bia 3,2[2]. (Giống như các nơi khác ở Kansas, Holcomb “khem rượu”).
Và thật sự, đó là tất cả. Trừ phi bạn tính cả, như người ta cần phải tính. Trường Holcomb, một cơ sở đẹp đẽ, nó để lộ ra một hoàn cảnh mà bề ngoài của cộng đồng che giấu đi: rằng các ông bố bà mẹ cho con đến ngôi thường “được củng cố” hiện đại và khéo bố trí nhân sự này - các lớp có từ vườn trẻ đến trung học phổ thông, và một hạm đội xe buýt chuyên chở học sinh, thường là vào khoảng ba trăm sáu chục em, ở cách đó chừng mười sáu dặm - nói chung, đều là người giàu có. Là chủ trại chăn nuôi, phần lớn họ là dân thích ở ngoài trời thuộc các gốc rễ rất đa dạng - Đức, Ái Nhĩ Lan, Na Uy, Mexico, Nhật. Họ chăn nuôi gia súc, cừu, trồng lúa mì, kê milo, cỏ cảnh và củ cải đường. Làm nông luôn là một công việc may rủi, nhưng ở mạn Tây Kansas người làm ruộng lại tự coi mình là “đám cờ bạc bẩm sinh” vì họ phải bằng lòng với một lượng mưa cực thấp (mỗi năm bình quân tám centimet) và tưới nước luôn luôn là một việc trần ai khoai củ. Tuy nhiên bảy năm vừa qua là những năm được hưởng lợi nhờ không hạn hán. Các chủ trại chăn nuôi ở hạt Finney, mà Holcomb trực thuộc, đã làm ăn tốt; tiền kiếm ra không chỉ từ làm trang trại mà còn do khai thác các nguồn khí đốt thiên nhiên dồi dào, và thu hoạch của nơi này được phản ánh ở ngôi trường mới, nội thất thoải mái của các nhà ở trong trang trại, các dây chuyền hạt ngũ cốc căng phồng, dựng đứng.
Mãi cho tới một buổi sáng giữa tháng Mười một năm 1959, ít người Mỹ - thật ra ít cả người Kansas - nghe nói đến Holcomb. Như nước sông, như những người lái xe trên xa lộ, và như những đoàn tàu màu vàng di chuyển xuôi đường sắt Santa Fe, thảm kịch, dưới dạng những biến cố khác thường, chưa từng dừng đỗ ở đây bao giờ. Dân làng, đếm đầu được hai trăm bảy chục, mãn nguvện với cái đang diễn ra như thế, khá bằng lòng sống cuộc sống bình thường - làm lụng, săn bắn, xem ti vi, dự liên hoan nhà trường, hát lễ ở nhà thờ, họp Câu lạc bộ 4-H. Vậy mà rồi, vào giờ phút tinh mơ của cái buổi sáng tháng Mười một đó, một buổi sáng Chủ nhật, vài tiếng động khác lạ đã vấy phạm vào những thanh âm đêm thường lệ của Holcomb - vào cơn phát rồ ai oán khóc của những con chó sói đồng cỏ, vào tiếng sột soạt khô cong của cây cỏ lăn vội vã cuốn theo gió, vào tiếng than vãn ầm ầm lao tới rồi lùi xa của còi đầu máy xe lửa. Lúc bấy giờ chẳng một ai say ngủ ở làng Holcomb nghe thấy những tiếng động đó - bốn phát súng nổ, tóm lại đã kết liễu sáu mạng người. Nhưng sau đó dân thị trấn, vốn xưa nay chả mấy khi sợ sệt lẫn nhau đến phải khóa chặt cổng ngõ, nay thời cứ mường tượng lại hoài hoài âm thanh ấy, những phát súng nổ âm thầm vốn đã kích phát ngọn lửa nghi kỵ, ngọn lửa mà trong ánh lấp lóa của nó nhiều bà con chòm xóm lâu đời giờ đây nhìn nhau kỳ quặc, tựa hồ những kẻ xa lạ.
Chủ nhân của Trại Lũng Sông, Herbert William Clutter, đã bốn mươi tám tuổi. Do kết quả khám sức khỏe mới đây để mua bảo hiểm, ông được biết mình thuộc vào loại nhất. Tuy đeo kính không gọng và chỉ cao trung bình, đứng vừa dưới mốt mét bảy lăm, ông Clutter nom vẫn đường đường một đấng trượng phu. Vai rộng, tóc giữ nguyên màu sẫm, khuôn mặt tự tin, quai hàm vuông nở để hiện ra sức trẻ hừng hực, răng trắng bóng và chắc, còn đủ hết, có thể cắn vỡ được quả óc chó. Ông nặng bảy lăm ký hai - đúng cái trọng lượng ngày ông tốt nghiệp ở Đại học Bang Kansas, nơi ông học khoa Nông nghiệp. Ông không giàu bằng người giàu nhất Holcomb - ông Taylor Jones, ông hàng xóm chủ trại chăn nuôi. Nhưng ông lại là công dân được biết đến nhiều nhất của cộng đồng, nổi bật cả ở đây lẫn ở Garden City, thủ phủ gần bên của hạt, tại đó ông đã lãnh đạo ủy ban xây dựng cho Nhà thờ Giám lý Thứ nhất mới được hoàn thành, một công trình trị giá tám trăm nghìn đô la. Ông đang là chủ tịch của Hội nghị về Các Tổ chức Nông trại Kansas, tên tuổi ông được thừa nhận và kính trọng trong giới các nhà nông học miền Trung Tây, cũng như ở một vài cơ quan tại Washington, nơi ông từng là thành viên của Sở Tín dụng Nông trại Liên bang, thời Eisenhower làm tổng thống.
Luôn biết chắc mình muốn cái gì của thế gian, ông Clutter có nhiều cách thức để đạt được cái đó. Trên bàn tay trái, cái bàn tay còn lại một ngón bị một chiếc máy nông trại làm cho sứt sẹo, ông đeo cái lắc bằng vàng ròng, biểu tượng có tuổi đời một phần tư thế kỷ của cuộc hôn nhân của ông với người ông muốn cưới - em gái một bạn học thời cao đẳng, một cô gái nhút nhát, sùng đạo, thanh tú tên gọi Bonnie Fox, trẻ hơn ông ba tuổi. Bà đã cho ông bốn người con - một bộ ba cô con gái rồi một cậu con nai. Cô gái lớn Eveanna, đã có chồng và là mẹ của một nhóc trai mười tháng, sống ở Bắc Illinois nhưng đến thăm Holcomb luôn. Quả thật, bố mẹ cô đang mong chờ cả gia đình nhỏ của cô bởi hai ông bà đã định tổ chức một cuộc đoàn tụ ra trò của cả họ nhà Clutter nhân dịp lễ Tạ ơn (từ nước Đức ra đi, người di dân đầu tiên của họ Clutter - hay Klotter, hồi đó cái tên này viết thế - đã đến đây vào năm 1880); năm chục người họ hàng đã được mời, nhiều người từ những vùng xa như Palatka, Florida. Beverly, đứa con sát kề với Eveanna thì không còn sống ở Trại Lũng Sông nữa; cô đang ở Kansas City, Kansas, học lớp nữ y tá. Beverly đã đính ước với một sinh viên trẻ tuổi khoa Sinh, bố cô rất ưng anh này; thiếp mời dự hôn lễ định vào tuần Nôen đã được in xong xuôi. Người còn lại vẫn sống ở nhà là cậu con trai Kenyon, mới mười lăm tuổi mà đã cao hơn ông Clutter, và cô chị lớn hơn cậu một tuổi - Nancy, cô bé cưng của cả thị trấn.
Về gia đình, ông Clutter chỉ có một lý do quan trọng phải bận tâm - sức khỏe của bà vợ. Bà “thần kinh yếu”, bà “hơi man mát” - những người gần gũi bà dùng những lời che đậy như vậy. Chẳng phải vì “những nỗi khổ của Bonnie tội nghiệp” là điều bí mật gì; ai cũng biết trong nửa chục năm qua bà là một bệnh nhân tâm thần lúc ốm lúc không. Nhưng mới gần đây ánh mặt trời cũng đã lóe lên ngay cả trên miếng đất tăm tối ấy. Thứ Tư vừa rồi, từ Trung tâm Y tế Wesley ở Wichita, nơi ẩn dật quen thuộc, trở về sau hai tuần điều trị, bà Clutter đã mang về những tin tức khó tin để nói với chồng; bà vui mừng báo rằng nguồn gốc nỗi khổ của bà, như ý kiến của y sĩ cuối cùng đã cho hay, nằm ở cột sống của bà chứ không phải trong đầu - nó thuộc về cơ thể, là do một đốt sống bị chệch. Dĩ nhiên, bà sẽ phải qua giải phẫu, nhưng rồi sau đó bà sẽ lại là “cái Tôi xưa” của mình. Các thứ căng thẳng, lánh ẩn, tiếng nức nở câm lặng vùi vào gối sau cánh cửa khóa chặt - tất cả có thể lại vì mỗi cái xương lưng nó mất trật tự thôi à? Nếu thế thật thì khi nói chuyện với khách khứa trong lễ Tạ ơn, ông Clutter có thể đọc nguyên vẹn một bài kinh về lòng biết ơn.
Theo lệ, buổi sáng của ông Clutter bắt đầu từ sáu rưỡi; đánh thức ông dậy thường thường là tiếng lanh canh của các xô sữa, tiếng thì thào chuyện trò của đám trẻ đem sữa đến, hai đứa con trai của một người làm mướn tên là Vic Irsik. Nhưng hôm nay ông còn nằm nấn ná, để cho bọn trẻ nhà Irsik đến rồi đi, vì tối qua, thứ Sáu ngày 13, là một tối mệt tuy cũng có phần vui vẻ. Bonnie đã sống lại “cái Tôi xưa” của bà; tựa như để báo trước cho sự bình thường trở lại, cái sinh lực tràn trề mà chẳng mấy nữa bà sẽ có lại, bà đã bôi son môi, đánh vật với bộ tóc, rồi mặc bộ váy mới đi cùng với ông tới Trường Holcomb, ở đó ông bà đã vỗ tay hoan nghênh buổi diễn vở Tom Sawyer của học trò, trong đó Nancy sắm vai Becky Thatcher. Ông vui thích thấy Bonnie ra trước mọi người, căng thẳng nhưng tươi cười, trò chuyện với thiên hạ và cả hai ông bà đều tự hào về Nancy, cô đã diễn hay thế, nhớ hết không sót câu nào và, như ông đã khen cô ở sau cánh gà, trông “Đẹp thật - đúng là một Nam phương Mỹ nữ, con gái yêu ạ.” Nhân đó, Nancy đã xử sự đúng như ai; khẽ nhún đầu gối trong bộ váy lồng, cô hỏi là cô có thể đi xe vào Garden City được không. Nhà hát Bang đang có một tối đặc biệt, “Đêm diễn ma” thứ Sáu ngày 13, vào hồi mười một rưỡi, bạn bè của cô đều đi cả. Các lần khác ông Clutter đều không đồng ý. Luật của ông là luật, và một khoản trong đó là: Nancy - và cả Kenyon nữa - ngày thường mười rưỡi tối phải có mặt ở nhà, tối thứ Bảy thì mười hai giờ. Nhưng bị lay động vì những sự kiện thiên tài của buổi tối nay, ông đã bằng lòng. Và Nancy mãi hai giờ sáng mới về nhà. Ông nghe thấy cô vào nhà bèn gọi cô, vì tuy không phải là người từng cao giọng bao giờ, ông vẫn có đôi điều thẳng thắn cần nói với cô, những ý kiến liên quan đến cậu thanh niên lái xe chở cô về - Bobby Rupp, một người hùng bóng rổ của nhà trường - nhiều hơn là đến chuyện cô về vào giờ đó.
Ông Clutter thích Bobby và coi cậu, một cậu trai mười bảy tuổi là người lịch sự và đáng dựa vào nhất, thế nhưng trong ba năm được phép “hẹn hò”, cô Nancy ấy, nức tiếng xa gần và xinh đẹp, vẫn chưa đi ra ngoài hẹn hò với một ai khác, và tuy ông Clutter vẫn biết rằng thói quen hiện nay của lứa thiếu niên trong nước là tìm đôi, “hẹn hò lãng mạn” và đeo “nhẫn đính ước”, ông vẫn không tán thành cậu, đặc biệt vì tình cờ không lâu trước đó ông bắt gặp cậu chàng Rupp và con gái ông đang hôn nhau. Lúc đó ông đã gợi ý Nancy đừng nên “gặp Bobby nhiều như thế” nữa, khuyên cô rằng từ từ rút lui bây giờ sẽ ít thương tổn hơn đoạn tuyệt đột ngột sau này - vì, như ông nhắc nhở cô, cuối cùng thế nào cũng xảy ra một cuộc chia tay. Gia đình Rupp theo đạo Cơ đốc La Mã, nhà Clutter lại dòng đạo Giám lý - sự việc này tự nó cũng đủ chấm dứt bất cứ tơ tưởng hão huyền nào về việc cô và cậu chàng kia có thể cưới xin trong tương lai. Nancy biết điều - thế nào cũng không cãi - còn lúc này thì, trước lúc chúc ngủ ngon, ông Clutter đã được cô làm cho yên tâm với lời hứa sẽ bắt đầu gỡ dần ra khỏi Bobby.
Tuy nhiên việc này đã làm chệch đi tệ hại giờ giấc nghỉ ngơi của ông, vốn thường vào mười một giờ. Hậu quả là sáng thứ Bảy, ngày 14 tháng Mười một năm 1959, mãi hơn bảy giờ ông mới dậy. Vợ ông thì luôn là dậy càng muộn càng tốt. Tuy thế ông cũng không lo bà bị đánh thức khi ông cạo râu, tắm vòi hoa sen, mặc vào người chiếc quần kẻ gân nổi, áo da của người chăn bò và đôi ủng mềm có cựa thúc ngựa; ông bà không ngủ chung buồng. Nhiều năm rồi ông ngủ một mình trong phòng ngủ chính dưới tầng trệt ngôi nhà - một tòa nhà hai lầu, mười bốn phòng bằng gỗ và gạch. Tuy bà Clutter cất quần áo của mình trong các buồng xép của căn phòng này, và giữ một ít mỹ phẩm cùng thuốc men linh tinh trong buồng tắm xây gạch men, kính và gạch thường ở kề đó, bà vẫn chiếm phòng ngủ trước kia của Eveanna ở lầu hai, giống như các phòng ngủ của Nancy và Kenyon.
Ngôi nhà - phần lớn do ông Clutter thiết kế, qua đó ông cho thấy mình là một kiến trúc sư hiểu biết và điềm đạm, nếu không phải là nổi tiếng có óc trang trí - được xây năm 1948 với chi phí bốn chục nghìn đô la. (Giá trị bán lại bây giờ là sáu chục nghìn). Nằm ở cuối một đường nhỏ, giống đường cho xe chạy vào nhà, có hàng cây du Tàu phủ bóng, ngôi nhà trắng đẹp tọa lạc trên một bãi thênh thang trồng cỏ Bermuda, đã làm cho Holcomb thích thú; nó là một nơi người ta trỏ cho nhau xem. Về nội thất, có những tấm thảm xốp bông màu gan gà triệt hẳn đi từng khoảnh một cái ánh loa lóa của sàn nhà đánh xi luôn dội tiếng vang; một đi văng kiểu hiện đại ở phòng khách mênh mông, bọc trong lần vải lổn nhổn hột có các sợi kim loại màu bạc dệt lẫn vào; một buồng xây thụt vào làm nơi ăn điểm tâm kê một ghế dài nho nhỏ phủ lớp nhựa màu lơ và trắng. Ông bà Clutter thích những đồ nội thất này, giống như đa phần các quen biết của ông bà, nói chung nhà của họ đều trang bị đồ đạc tương tự thế.
Ngoài một người trông nom quét dọn chỉ đến vào những ngày làm việc, nhà Clutter không thuê người giúp việc nội trợ, cho nên từ ngày bà Clutter ốm và hai cô gái lớn ra đi, ông Clutter cần phải học nấu nướng; hoặc ông hoặc Nancy nhưng chủ yếu là Nancy nấu ăn cho gia đình. Ông Clutter thích làm việc này, và làm rất giỏi - chẳng có bà nào ở Kansas nướng được bánh mì lên men bằng muối ngon hơn ông, và món kẹo dừa được trọng vọng của ông là khoản đầu sổ ở các cuộc bán bánh ngọt từ thiện - nhưng ông không phải là người ăn khỏe, khác với đám bạn bè chủ trại chăn nuôi, ông còn thích các bữa điểm tâm thanh đạm là khác. Sáng ấy, một quả táo và mộc cốc sữa là đủ cho ông; vì không đụng đến cà phê hay trà, ông quen bắt đầu ngày với cái bụng lép kẹp. Sự thật là ông phản đối mọi thứ kích thích, kể cả là nhẹ. Ông không hút thuốc, và dĩ nhiên không uống rượu; thật vậy, ông chưa bao giờ nếm rượu mạnh và có xu hướng tránh người uống rượu - tuy nhiên điều này không làm thu hẹp vòng quan hệ xã hội của ông nhiều như ông tưởng, vì trung tâm của cái vòng quan hệ này gồm những; thành viên của Nhà thờ Giám lý Thứ nhất của Garden City, một hội đoàn tổng cộng một nghìn bảy trăm người, phần lớn cũng kiêng cữ như ông Clutter hằng mong ước. Tuy thận trọng tránh làm điều gì có hại đến quan điểm của mình, chấp nhận cách xử thế không quá khắt khe mỗi khi bước ra khỏi vương quốc của mình đặng tiếp xúc với bên ngoài, song ông lại ép buộc gia đình cùng với người làm thuê ở Trại Lũng Sông phải chấp nhận quan điểm của mình. “Anh có uống rượu không?” là câu đầu tiên ông hỏi người xin việc, và mặc dù gã kia có cho ra một lời đáp phủ định, ông vẫn cứ nhất quyết ký một hợp đồng lao động bao hàm một khoản rằng hợp đồng sẽ lập tức bị hủy bỏ nếu nhân viên nọ bị phát hiện “chứa chấp rượu”. Một người bạn - Lynn Russell, một chủ trại chăn nuôi tiên phong lâu đời - có lần bảo ông: “Ông không nhân từ chút nào cả. Tôi thề là nếu ông bắt được một người làm thuê uống rượu là hắn ta đi tong. Ông sẽ còn chả bận tâm xem gia đình hắn ta có chết đói hay không, Herb à.” Có lẽ đây là lời phê phán duy nhất đối với ông Clutter với tư cách ông chủ. Nếu không người ta đã chỉ biết đến ông như một người luôn khoan hòa điềm đạm, có lòng từ ái, và sự thực ông trả lương thưởng hậu; người làm cho ông - có khi tới mười tám người - ít có lý do gì để phàn nàn.
Sau khi uống cốc sữa và đội chiếc mũ lót lông, ông Clutter mang theo quả táo ra ngoài xem xét buổi sáng. Đây là thời tiết lý tưởng để làm ăn; vòm trời trong trẻo rọi xuống những tia nắng rực trắng nhất, ngọn gió Đông xào xạc thổi mà không dứt đứt đi những chiếc lá cuối cùng của những cây du Tàu. Mùa thu ban thưởng cho miền Tây Kansas bù vào những tội nợ mà các mùa kia áp đặt cho nó: gió Colorado dữ dằn của mùa đông, tuyết sâu đến ngang hông, giết chết cừu; những trận tuyết tan hóa thành vữa bùn và những đợt sương mù bò sát mặt đất kỳ lạ của mùa xuân; rồi mùa hè, khi mà cả quạ cũng phải tìm một mẩu bóng râm cỏn con, thì bạt ngàn những cuống rạ lúa mì màu hung hung đỏ bèn dựng lên chong chỏng và bốc cháy. Cuối cùng, sau tháng Chín, một thời tiết khác đã đến, một mùa hè muộn đôi khi kéo dài mãi tận tới lễ Giáng sinh. Trong khi ông Clutter đang ngắm cái tiêu bản cao cấp của mùa thu này thì con chó lai giống cô-li của Xcốtlen đến bên và cả hai cùng lững thững đến bãi thả gia súc nằm liền với một trong ba kho thóc ở trên khu đồn điền.
Một trong những kho này là một túp lều Quonset đồ sộ; hạt mì kê Westland đầy ứ chờm cả ra ngoài lều, còn một lều khác thì chứa cả núi hạt mì milo hăng nồng coi sầm sẫm đáng vô kể là tiền - một trăm nghìn đô la. Riêng con số này cũng đã tiêu biểu cho gần bốn nghìn phần trăm tăng tiến toàn bộ thu nhập của ông Clutter năm 1934 - năm ông cưới Bonnie Fox rồi cùng bà chuyển từ Rozel, thị trấn quê hương ở Kansas, đến Garden City, nơi ông tìm được chân trợ lý phụ trách nông nghiệp hạt Finney. Việc này, một cách khá điển hình, đã giúp ông được đề bạt chỉ sau bảy tháng; tức là đặt ông vào vị trí người đứng đầu. Những năm ông đương nhiệm - từ 1935 đến 1939 - là những tháng ngày lầm than nhất, thất bát nhất mà vùng đất này từng nếm trải từ thời người da trắng định cư ở đây, và chàng trai Herb Clutter, vốn dĩ đã có một bộ óc ganh đua thành thạo với những giải pháp nông nghiệp mũi nhọn tân tiến nhất, nên khá là đủ tư cách làm người trung gian giữa chính phủ và những chủ chăn nuôi nay đã nản chí; những người này có thể sử dụng tốt tính lạc quan và những chỉ dẫn đầy học thức của một gã trai đáng yêu xem chừng biết công việc của mình. Tuy thế, ông không phải đang làm cái mà ông vốn dĩ muốn làm; là con trai một chủ trại, ngay từ đầu ông đã nhắm đến việc tạo dựng cơ ngơi của chính mình. Bởi vậy, sau bốn năm, ông thôi làm nhân viên phụ trách nông nghiệp của hạt, và, thên mảnh đất thuê bằng tiền vay nợ, tạo nên phôi thai cho Trại Lũng Sông (cái tên này được sự hiện diện của con sông Arkansas uốn khúc biện hộ cho, chứ thật ra chẳng hề có thung lũng nào cả). Đây là một nỗ lực mà nhiều tay bảo thủ ở hạt Finney nhìn ngó với vẻ thú vị kiểu để-rồi-xem - đám dân kỳ cựu này từng mong nhử tay nhân viên nông nghiệp trẻ tuổi của hạt vì các khái niệm ở trình độ đại học của anh chàng: “Việc ấy hay đấy, Herb. Ông luôn biết ở trên đất đai thiên hạ làm cái gì thì tốt hơn cả. Trồng cái này đi. Tôn cao chỗ kia lên. Nhưng nếu chỗ ấy là của ông thì có thể ông sẽ nói khác đi một tí đấy.” Họ lầm; các thử nghiệm khởi đầu đã thành công - một phần vì những năm mở đầu, ông đã làm lụng mười tám giờ một ngày. Đã từng thất bại - hai lần thu hoạch lúa mì hỏng ăn, và một mùa đông ông bị mất mấy trăm đầu cừu trong một cơn bão tuyết; nhưng sau mười năm cơ nghiệp của ông Clutter là hơn tám trăm mẫu Anh thuộc sở hữu toàn bộ của ông và trên ba nghìn mẫu nữa trồng trọt trên cơ sở thuê mượn - và việc này, như các đồng nghiệp của ông thừa nhận, là “một cuộc mở mang rất hay”. Lúa mì, hạt milo, hạt cỏ có bằng chứng nhận - đó là những vụ thu hoạch mà trang trại ông dựa vào để mà thịnh vượng. Súc vật cũng quan trọng - cừu, và đặc biệt là bò. Một đàn vài trăm con bò Hereford mang nhãn Clutter, tuy người ta khó mà ngờ được điều này nếu chỉ nhìn vào chuồng trại có phần vắng vẻ, chủ yếu dành cho những con mới thiến ốm đau, một ít bò sữa, những con mèo của Nancy, và Babe, con ngựa cưng nhất của gia đình - con ngựa già béo tốt không bao giờ phản đối việc thồ trên tấm lưng to rộng của nó những ba bốn đứa trẻ.
Lúc này ông Clutter đang cho Babe ăn lõi quả táo mình ăn, cao giọng chào một người cào rác ở trong bãi thả - Alfred Stoecklein, người làm công duy nhất trú tại nhà ông. Vợ chồng ông Stoecklein và ba đứa con sống trong một căn nhà cách tòa nhà chính không đến trăm mét, trừ họ ra, trong vòng nửa dặm không có một nhà hàng xóm nào. Stoecklein, một người mặt dài, răng dài màu nâu, hỏi, “Ông đã nghĩ ra việc gì đặc biệt để làm hôm nay chưa? Vì nhà tôi có người ốm. Con bé út. Suốt cả đêm tôi với bà xã cứ xoay mòng mòng vì nó. Tôi đang tính đưa nó đi bác sĩ.” Tỏ ra thông cảm, ông Clutter nói đằng nào thì cũng đã hết buổi sáng, nếu như thấy vợ chồng ông có thể đỡ đần được gì thì xin cứ bảo. Rồi ông đi ra đồng về phía Nam, con chó chạy trước, lúc này đồng đang nổi màu da sư tử, vàng lóa lên với những cọng rạ sau vụ gặt.
Con sông nằm ở hướng này; gần bờ sông có một khu rừng nho nhỏ toàn cây ăn quả - đào, lê, anh đào, táo. Theo trí nhớ của người sở tại, cách đây năm chục năm, một người thợ xẻ chỉ cần mười phút là chặt sạch được cây cối vùng Tây Kansas này. Ngay cả bây giờ, cũng chỉ có bạch dương và du Tàu - những cây lưu niên hờ hững với nước giống như xương rồng - là được trồng rộng rãi. Nhưng như ông Clutter thường nhận xét, “mưa thêm chừng hai phân rưỡi nữa thôi là vùng đất này sẽ thành thiên đàng - Vườn Địa đàng.” Sưu tập nho nhỏ các thứ cây ăn quả mọc bên sông này là ý đồ của ông, mưa hay không mưa cũng mặc, cứ xoay lấy một lối đi vào Thiên đàng, cái Vườn Địa đàng xanh thơm mùi táo, ông hình dung như vậy. Một lần vợ ông đã nói: “Ông chồng tôi trông nom các cây ấy còn hơn cả các con,” và ai ở Holcomb thảy đều nhớ hôm một chiếc máy bay nhỏ bị hỏng hóc đâm xuống các cây đào: “Herb đáng bị trói lại! Chứ sao nữa, động cơ chưa kịp tắt, ông ấy đã đâm đơn kiện viên phi công.”
Xuyên qua vườn cây, ông Clutter đi dọc con sông, khúc này nông và rải rác những hòn đảo - những doi cát mềm mịn ở giữa dòng mà vào những Chủ nhật dần qua, những lễ Sabbath nóng nực, khi Bonnie đến, giỏ đồ ăn picnic bày ra, cả buổi chiều cả nhà miên man chờ đầu dây câu khẽ giật. Ông Clutter ít gặp kẻ xâm nhập ở trên vùng đất của ông; cách xa lộ một dặm rưỡi và đến đây chỉ có thể bằng những con đường u tối, đó không phải là một nơi mà người ta tới tình cờ. Nay, thình lình cả một đám họ hiện ra, và con chó Teddy liền lao lên khiêu chiến. Nhưng con Teddy này kỳ cục. Tuy nó là một quân canh tốt, lanh lẹ, luôn sẵn sàng la lối ầm ĩ nhưng lòng dũng cảm của nó có một khiếm khuyết: để nó nhác thấy một khẩu súng, như lúc này - vì những kẻ xâm nhập đều có súng - thì đầu nó liền gục xuống, đuôi quặp lại. Không ai hiểu tại sao, vì không ai biết tiểu sử của nó, ngoài chuyện nó là một con chó lang thang được Kenyon đem về nuôi cách đây mấy năm. Hóa ra các vị khách là năm tay săn trĩ từ bang Oklahoma. Mùa săn trĩ ở Kansas, sự kiện nổi tiếng của tháng Mười một đã dụ dỗ hàng đàn nhà thể thao từ các bang lân cận và trong suốt tuần qua, hàng đoàn người đầu quấn khăn vải Xcốtlen đã diễu qua các khoảng đất trống trải đang độ thu hoạch rồi thì, bằng những loạt đạn ghém, làm rụng và bôi đỏ lòm lòm những đàn chim bát ngát màu đồng điếu béo múp nhờ hạt lúa mì. Theo lệ, nếu không phải khách mời thì những người đi săn phải trả cho chủ đất một khoản phí để được phép theo đuôi con mồi ở trên đất của ông, nhưng khi đám người Oklahoma ngỏ ý thuê lấy quyền săn bắn, ông Clutter bật cười. “Tôi không nghèo như cái mã ngoài của tôi đâu. Cứ bắn đi, lấy được bao nhiêu cứ lấy tất,” ông nói. Rồi chạm tay vào vành mũ, ông quay về nhà với việc làm hôm đó, không biết đó là việc cuối cùng của mình.
Cũng như ông Clutter, người trẻ tuổi đang ăn điểm tâm trong quán cà phê Tiểu Kim hoàn không bao giờ uống cà phê. Hắn thích bia không cồn hơn. Ba viên aspirin, bia không cồn ướp lạnh và một loạt điếu Pall Mall liền tù tì - đó là quan niệm của hắn về một “bữa trôi được” thực thụ. Vừa nhấp bia hút thuốc, hắn vừa nghiên cứu một tấm bản đồ trải trên mặt quầy trước mặt - một tấm bản đồ Phillips 66 của Mexico - nhưng hắn khó lòng tập trung xem vì còn đang chờ một người bạn, và người này đến muộn. Hắn nhìn ra cửa sổ, ra cái phố thị nhỏ bé im lặng, một con phố hắn chưa hề thấy cho tới tối hôm qua. Vẫn chẳng thấy tăm hơi Dick đâu. Nhưng chắc chắn Dick phải thò mặt ra, muốn gì thì mục đích của cuộc gặp này là ý của Dick, “vụ trúng quả” của hắn cơ mà. Và khi đã ngã ngũ - thì là Mexico. Tấm bản đồ chắp vá, bị sờ mó vào nhiều quá đến nỗi hóa ra mềm như một miếng da nai. Quanh cái xó này, trong gian phòng của cái khách sạn hắn đang trọ, có hàng trăm tấm như thế nữa - những tấm bản đồ rách bươm về mỗi bang của Liên bang Mỹ, về mỗi tỉnh ở Canada, về mỗi nước Nam Mỹ - bởi vì người trẻ tuổi này là một kẻ không ngừng ngẫm nghĩ tới các chuyến đi, không ít chuyến trong số đó hắn đã thực sự tiến hành: đến Alaska, đến Hawaii, đến Nhật Bản, đến Hồng Kông. Nay, nhờ một bức thư, lời mời đến với một vụ “trúng quả”, hắn đang ở đây cùng với những vật sở hữu đời thường của hắn: một va li bằng các tông, một cây ghi ta và hai thùng bự đựng sách, bản đồ và bài hát, thơ ca và thư từ cũ, nặng một phần tư tấn (mặt Dick sẽ thế nào khi nhìn thấy những cái thùng này nhỉ! “Lạy Chúa, Perry. Cậu mang cái của đồng nát này theo đi khắp nơi đấy à?” Và Perry nói: “Đồng nát nào? Một trong những quyển sách này làm tớ chi những ba chục đô đấy ạ.”) Đây, hắn đang ở ngay tại thị trấn Olathe tí tẹo bang Kansas này. Ngộ thật, nghĩ mà xem; thử tưởng tượng hắn trở về Kansas khi chỉ mới bốn tháng trước hắn đã thề, trước hết với Tòa án Tạm tha của bang, rồi sau đó với bản thân, rằng hắn sẽ không bao giờ đặt chân lại vào trong ranh giới bang Kansas nữa. À, mà có phải đã lâu la gì đâu.
Chi chít trên bản đồ là những cái tên được khoanh tròn bằng bút mực. COZUMEL, một hòn đảo ngoài bờ biển Yucatán, ở đó, như hắn đọc thấy trên một tờ tạp chí cho đàn ông, bạn có thể “lột hết quần áo ra, phô một nụ cười thoải mái ngoác đến mang tai, sống như một tiểu vương Ấn Độ, và có tất cả những người đàn bà bạn muốn với 50 đô la một tháng!” Cũng từ bài báo đó hắn ghi nhớ những lời tuyên bố hấp dẫn khác: “Cozumel là một dinh lũy chống lại sức ép xã hội, kinh tế và chính trị. Không có viên chức nào cưỡng bách bất cứ ai trên hòn đảo này,” và “Hằng năm, từng đàn vẹt bay từ đất liền ra đây đẻ trứng.” ACAPULO gợi ý về câu cá biển sâu, sòng bạc, đám đàn bà giàu có nhấp nhổm; và SIERRA MADRE nghĩa là vàng, nghĩa là Kho vàng Sierra Madre, một bộ phim hắn xem tám lần. (Đó là phim hay nhất của Humphrey Bogart, nhưng Walter Huston, cái lão đóng người tìm kho vàng, cái lão làm cho Perry nhớ lại bố hắn, thì cũng oách. Đúng, và điều hắn nói với Dick là thật: hắn đã biết rành đầu đuôi xuôi ngược việc săn vàng, ấy là do bố hắn, một người lùng kho vàng chuyên nghiệp, dạy cho hắn. Thế cho nên tại sao hai đứa lại không mua lấy một cặp ngựa thô mà thử vận may ở trong dãy Sierra Madre? Nhưng Dick, thằng cha Dick đầu óc thực tế, đã nói, “Ôi chao, bồ ơi. Tớ thấy cái tuồng đó rồi, cuối cùng thằng nào cũng rồ dại hết. Vì sốt rét, vì vắt đỉa, các điều kiện khốn nạn tứ bề. Rồi khi có được vàng thì - một cơn gió lớn sẽ tới thổi tung hết - còn nhớ không?”) Perry gập tấm bản đồ lại. Hắn trả tiền bia rồi đứng dậy. Khi ngồi, hắn nom có vẻ một người tầm vóc trên trung bình, khỏe mạnh, với đôi vai, đôi tay và thân mình đầy chắc hơi gò vào trong của một lực sĩ cử tạ - mà đúng là hắn mê môn cử tạ thật. Nhưng một vài chỗ trên người hắn lại không cân đối với những chỗ khác. Lồng trong đôi ủng ngắn cổ màu đen có những mắt khóa bằng thép, hai bàn chân nhỏ bé của hắn có thể xoẳn vừa được đôi giày khiêu vũ của các bà các cô; khi đứng lên, hắn không cao hơn đứa nhóc mười hai tuổi, và bất thình lình, nom lệnh khệnh với hai cẳng chân còi xem ra bất xứng đến buồn cười với cái khối to đùng mà chúng đỡ ở trên, hắn trông lại không giống một tay lái xe tải lực lưỡng mà giống một dô kề đua ngựa về hưu đã tàn tạ mà vai u thịt bắp.
Bên ngoài cửa hàng, Perry đứng giữa trời nắng. Đã chín giờ kém mười lăm, Dick muộn nửa giờ rồi; nhưng giá như Dick không nhắc đi nhắc lại cho hắn hiểu tầm quan trọng của từng giây phút một trong hai mươi tư giờ sắp tới thì hắn đã chẳng màng chuyện thời gian của hắn đang trôi. Thời giờ ít có giá trị với hắn vì hắn có nhiều cách để giết thì giờ - trong số đó có cách soi gương. Dick đã có lần nhận xét: “Mỗi bận soi gương cậu cứ như nhập đồng, y như vậy thật. Y như cậu đang nhìn vào một cái đít núng nính đấy. Lạy Chúa, tớ muốn nói là cậu không thấy chán bao giờ à?” Còn lâu; hắn mê mệt bộ mặt của chính hắn. Mỗi góc độ của nó lại đưa ra một ấn tượng khác. Đó là một bộ mặt biến hóa, và những thực nghiệm nhờ gương soi chỉ dẫn đã dạy hắn rung chuông biến hóa, sao cho hắn trông lúc thì đáng gờm, lúc thì tinh quái, lúc thì có hồn; một khẽ nghiêng đầu, một mấp máy môi, thế là tên di gan hư đốn liền trở thành kẻ lãng mạn đáng yêu. Mẹ hắn là người da đỏ Cherokee chính cống; chính từ bà mà hắn thừa hưởng cái màu sắc này - nước da nâu đỏ xỉn, cặp mắt tối, ướt, râu tóc đen mà hắn không ngừng bôi sáp và đủ sum suê để cho hắn có hai hàng râu quai nón và một hàng tóc xòe ngang trán trơn nhờn. Ân huệ của mẹ hắn là rõ rệt; ân huệ của bố hắn, một người Ái Nhĩ Lan mặt tàn hương tóc hoe đó thì không rõ rệt bằng. Tựa như dòng máu da đỏ đã triệt hết mọi dấu vết của tông giống Celtic. Dẫu vậy, đôi môi hồng và cái mũi lõ vẫn còn xác nhận sự có mặt của nó, cũng như một chất hiếu động lưu manh, và óc tự tôn Ái Nhĩ Lan cao cao tại thượng vẫn thường kích hoạt bộ mặt nạ Cherokee lên và hoàn toàn kiểm soát khi hắn hát và chơi ghi ta. Hát, và nghĩ đến chuyện hát trước công chúng, là một cách tự mê hoặc khác nữa để mà tiêu hao thời giờ. Hắn luôn dùng cùng một phông cảnh trong đầu - một hộp đêm ở Las Vegas mà chả hiểu thế nào lại hóa ra là thị trấn quê hương hắn. Đó là một gian phòng sang trọng đầy ắp những nhân vật lẫy lừng háo hức chú tâm vào ngôi sao mới đang ăn khách trình diễn bài hát nổi tiếng “Anh đang nhìn em” có viôlông đệm theo của hắn, và lại còn được đòi nghe thêm bài thơ hắn tự biên tự diễn gần đây nhất nữa:
Cứ tháng Tư từng đàn chim vẹt
Đỏ và xanh bay ở trên đầu
Xanh màu vỏ quýt
Tôi nhìn chúng bay, tôi nghe chúng hát
Đàn vẹt hót mang tới tháng Tư, tháng của mùa xuân…
(Lần đầu tiên nghe bài hát này, Dick đã bình, “Vẹt làm gì hót. Nói thì có thể. Choen choét. Nhưng chắc chắn là không hót, mẹ kiếp.” Dĩ nhiên Dick là gã phàm phu, cực phàm phu ấy - hắn không hiểu âm nhạc, thơ ca gì đâu - nhưng khi cần phải làm tới số thì cái phàm phu, cái lối tiếp cận thực dụng của Dick đối với mọi vấn đề, lại là lý do đầu tiên lôi kéo Perry, vì nó làm cho Dick so với hắn xem chừng cứng rắn hơn, bất khả bại hơn thật, “trượng phu toàn diện”).
Nhưng dù thú vị đến thế nào thì giấc mơ Las Vegas đó cũng bị mờ nhạt đi ở bên một viễn cảnh khác của hắn. Từ thời trẻ con, suốt nửa cuộc đời ba mươi mốt năm, hắn đã học văn chương hàm thụ (“Kho báu trong việc lặn! Tập luyện tại nhà vào thời gian nhàn rỗi. Kiếm tiền vừa nhiều vừa mau lẹ bằng cách lặn trần truồng không bình khí. Sách hướng dẫn không mất tiền…”), trả lời quảng cáo (“Kho vàng đắm! Năm mươi tấm bản đồ gốc! Quà tặng kinh ngạc...”), cái đã nung nấu niềm khao khát thực hiện chuyến mạo hiểm phiêu lưu mà óc tưởng tượng mau mắn của hắn đã cho hắn không ngừng có thể trải qua: giấc mơ ngao du xuống các vùng nước lạ, lặn đến một vùng biển đen xanh thẳm, trườn lướt qua những kẻ bảo vệ có vẩy và con mắt man dại của một boong tàu hiện ra lù lù trước mặt, một con tàu cổ Tây Ban Nha - một tàu chở kim cương và ngọc bị đắm, chất đống những hòm vàng.
Tiếng còi xe. Cuối cùng thì Dick kia rồi.
“Trời đất Kenyon! Bác đang nghe cháu đây.”
Như thường lệ, ma quỷ ở trong Kenyon. Tiếng cậu hét cứ leo tiếp lên cầu thang: “Nancy! Có điện thoại!”
Chân đất, quần áo ngủ, Nancy chạy vụt xuống cầu thang. Trong nhà có hai máy nói - một máy ở gian phòng bố cô dùng làm bàn giấy, một ở bếp. Cô nhấc chiếc máy nói kéo dài vào bếp: “A lô? Ô, dạ, cháu chào bà Katz ạ.”
Và bà Clarence Katz, vợ một ông chủ trại sống ở trên xa lộ, nói: “Bác đã bảo bố cháu đừng đánh thức cháu dậy mà. Bác nói là Nancy chắc phải mệt nhoài sau buổi diễn tuyệt vời của nó tối hôm qua. Cháu đáng yêu lắm, cưng ạ. Mấy ruy băng trắng ở trên đầu cháu kia! Rồi thì cái đoạn cháu ngỡ Tom Sawyer bị chết - cháu chảy nước mắt ra thật đấy. Hay như trên ti vi ấy. Nhưng bố cháu nói đã đến lúc cháu dậy rồi; ừ, sắp chín giờ còn gì. Bây giờ đến cái chuyện bác muốn đây, cưng ơi, con bé nhà bác, con Jolene ấy, nó đang phát cuồng lên muốn làm bánh anh đào, thấy cháu làm bánh anh đào vô địch như thế nào, luôn luôn được giải, bác mới nghĩ hay là sáng nay đem nó tới đằng nhà cháu để cháu bày cho nó được không?”
Bình thường thì Nancy sẽ vui lòng dạy Jolene làm hẳn một bữa ăn tối với món gà tây; cô cảm thấy phận sự mình là sẵn sàng có mặt khi đám con gái trẻ hơn muốn nhờ cô giúp đỡ việc nấu nướng, vá may hay âm nhạc - hoặc hay xảy ra hơn, là cần cô để trút bầu tâm sự. Cô lấy thì giờ ở đâu ra mà vẫn xoay xở để vừa “trông nom ngôi nhà lớn này”, vừa là học sinh hạng A cứng, lại là trưởng lớp, người lãnh đạo trong chương trình 4-H và Liên đoàn Thanh niên Giám lý, một tay ngựa giỏi, một nhạc công xuất sắc (piano, kèn clarinet), người đoạt giải hằng năm ở chợ phiên tỉnh (bánh ngọt, mứt, may thêu, cắm hoa) - một thiếu nữ chưa tới mười bảy làm thế nào gánh vác được một núi việc như thế và lại không có vẻ “ta đây”, mà chỉ thấy ánh rờ rỡ trên mặt, điều này là một bí ẩn mà cộng đồng thắc mắc và giải thích bằng cách nói, “Cô gái này có cá tính. Có được cái đó từ ông già.” Chắc chắn rằng nét mạnh nhất của cô, cái tài vốn đỡ nâng cho các tài khác là đến từ ông bố cô thật: một khiếu tổ chức được trui rèn kỹ. Giờ nào việc ấy, cô biết chính xác lúc nào cô làm cái gì, mất bao lâu. Và đó mới là chỗ lôi thôi cho ngày hôm nay: lịch cô kín đặc rồi. Cô đã nhận giúp con một người hàng xóm khác, Roxie Lee Smith, tập một bài độc tấu kèn trompet mà Roxie dự định chơi ở buổi hòa nhạc của nhà trường; đã hứa chạy cho mẹ mấy việc vặt phức tạp và đã bố trí dự một cuộc họp 4-H với bố ở Garden City. Rồi thì phải nấu bữa trưa, sau bữa trưa, phải xong bộ váy phù dâu cho đám cưới của Beverly mà cô tự tay vẽ kiểu và khâu lấy. Việc đã xếp đặt rồi, chẳng còn chỗ nào cho bài học làm bánh anh đào của Jolene. Trừ phi bỏ đi một việc gì.
“Bác Katz ơi, bác giữ máy một lát được không, phiền bác nhé?”
Cô đi hết chiều dài ngôi nhà tới bàn giấy của bố. Có một lối vào ở bên ngoài dành cho khách bình thường, bàn giấy này được ngăn cách với phòng khách bằng một tấm cửa trượt; tuy ông Clutter thỉnh thoảng có chia sẻ bàn giấy với Gerald Van Vleet, người thanh niên giúp ông quản lý trang trại, căn phòng cơ bản vẫn là nơi ông rút lánh vào - một thánh địa ngăn nắp, lát gỗ hồ đào, có các phong vũ biểu, biểu lượng mưa, một đôi ống nhòm vây quanh, ông ngồi như vị thuyền trưởng trong cabin, một nhà hàng hải lái tàu qua những đoạn đôi khi hiểm nghèo của Trại Lũng Sông suốt các mùa.
“Không phải lo,” ông nói, trả lời cho thắc mắc của Nancy. “Dẹp vụ 4-H đi. Bố sẽ đưa Kenyon đi.”
Vậy là, nhấc máy nói bàn giấy lên, Nancy bảo bà Katz: “Dạ, tốt lắm, bác đưa Jolene đến đây ngay nhé bác.” Nhưng cô nhăn mặt treo máy lên. “Lạ thật,” cô nói, nhìn quanh căn phòng và thấy bố ở trong đó đang giúp Kenyon ghi thêm một cột con số, và ở bàn làm việc cạnh cửa sổ, ông Van Vleet, người có vẻ ngoài suy nghĩ và lôi cuốn trông hay hay khiến cô gọi ông là Heathcliff ở sau lưng. “Nhưng tôi vẫn ngửi thấy khói thuốc lá.”
“Ở hơi thở của ông ư?” Kenyon hỏi.
“Không, của cậu, thế mới hay.” Điều đó làm cậu yên tâm, với Kenyon, vì cậu biết là cô biết cậu đã một lần hút trộm một hơi - nhưng lúc ấy, Nancy cũng thế.
Ông Clutter vỗ tay. “Thế thôi. Đây là văn phòng.”
Bây giờ, ở trên gác, cô thay áo quần, mặc vào một chiếc quần bò Levis đã bạc và chiếc áo ba lỗ màu xanh lá cây, đeo vào cổ tay vật sở hữu có giá trị hàng thứ ba của cô, một chiếc đồng hồ vàng; con mèo bạn thân của cô, Evinrude, được xếp ở trên nó, và trên cả Evinrude là chiếc nhẫn con triện, bằng chứng về tình trạng “hoa đã có chủ”, mà cô đeo (một cách ít-lộ-liễu-nhất) ở ngón cái, vì ngay cả khi dùng băng dính thì vòng nhẫn cỡ đàn ông cũng không làm sao vừa được với ngón nào khác ngoài ngón ấy. Nancy là một cô gái xinh đẹp, thanh mảnh, nhanh nhẹn kiểu một cậu thiếu niên, và những thứ đẹp nhất ở cô là mớ tóc màu hạt dẻ ánh mượt hơi gợn chải sóng (chải một trăm nhát mỗi buổi sáng và cũng ngần ấy nhát buổi tối) và nước da sạch nhẵn vì xà phòng, vẫn còn nhàn nhạt chút tàn nhang và ánh rám hồng của mặt trời mùa hè. Nhưng chính là đôi mắt cô, cách xa nhau, long lanh tối, giống như rượu mạch giơ lên trong ánh sáng, nó làm cô lập tức đáng yêu, nó lập tức cho ta biết là cô tin người, cô có một lòng tốt cũng biết cân nhắc nhưng dễ dàng được khơi gợi lắm.
“Nancy!” Kenyon gọi, “Susan gọi điện đấy.”
Susan Kidwell, bạn tâm sự của cô. Cô lại trả lời trong bếp.
“Nói đi,” Susan nói, bao giờ cũng mở đầu một hiệp trò chuyện ở điện thoại bằng mệnh lệnh này. “Mở đầu, hãy kể tại sao cậu lại tán tỉnh Jerry Roth xem nào.” Giống Bobby, Jerry Roth là một ngôi sao bóng rổ của trường.
“Tối qua ấy hả? Ôi trời, tớ có tán tỉnh đâu. Cậu nói thế vì chúng tớ cầm tay nhau chứ gì? Trong khi đang diễn, cậu ta đi vào hậu trường và tớ thì đang hồi hộp quá. Thế là cậu ta nắm tay tớ. Để cho tớ dũng cảm lên.”
“Ngọt ngào lắm. Rồi sao?”
“Bobby đưa tớ đi xem phim ma. Và bọn tớ nắm tay nhau.”
“Có sợ không? Không phải Bobby. Phim ấy.”
“Bobby không nghĩ thế; tên ấy cười toáng lên thì có. Nhưng cậu biết tớ đấy. Ui! Tớ ngã lăn ra khỏi ghế.”
“Cậu đang ăn gì đấy?”
“Chả gì cả.”
“Tớ biết, cậu đang gặm móng tay,” Susan nói, đoán đúng. Dù cố mãi, Nancy vẫn không bỏ được cái thói quen cắn móng tay, cứ hễ lúng túng là cô lại nhấm cho tới tận phần thịt mềm. “Kể đi. Xảy ra chuyện gì không?”
“Không.”
“Nancy. C’est moi, là tớ đây nhá…” Susan đang học tiếng Pháp.
“Được thôi - là bố ấy mà. Ba tuần qua ông già nổi cơn đáng sợ. Đáng sợ. Ít nhất là quanh quẩn chuyện của tớ. Đêm qua khi tớ về nhà, ông già lại bắt đầu chuyện đó.”
“Chuyện đó” không cần phải luận ra nhiều; đó là một vấn đề hai cô bạn đã thảo luận toàn diện với nhau và tán thành. Tóm tắt vấn đề từ quan điểm của Nancy, Susan đã có lần nói, “Cậu yêu Bobby lúc này, và cậu cần hắn ta. Nhưng trong thâm tâm Bobby cũng biết việc này rồi chẳng có tương lai gì. Sau này, khi chúng mình rời đây đi Manhattan, mọi cái lại sẽ có vẻ như một thế giới mới.” Đại học Bang Kansas nằm ở Manhattan, và hai cô dự định vào học nghệ thuật tại đó, ở chung phòng. “Cậu muốn hay không thì mọi sự cũng đều sẽ thay đổi. Nhưng bây giờ thì cậu không thay đổi được tình hình đâu, nếu cứ sống ở Holcomb này, ngày ngày gặp Bobby, ngồi cùng một lớp - mà chẳng có lý do nào để phải thay đổi. Vì cậu với Bobby là một chuyện rất vui. Và nó sẽ là một cái gì vui vui để mà nghĩ lại - nếu cậu bị bỏ lại một mình. Cậu không làm cho ông già hiểu được cái đó à?” Không, cô không làm được. “Vì,” như cô giải thích với Susan, “cứ lúc nào tớ sắp sửa nói gì thì ông già lại nhìn tớ như kiểu tớ chắc là không yêu ông già. Hoặc như kiểu tớ đã bớt yêu đi. Thế là thình lình lưỡi tớ cứng cả lại; tớ chỉ còn muốn là con gái ông già và làm như ông già mong muốn thôi.” Susan không đối đáp lại được điều này; nó bao gồm những xúc cảm, một mối quan hệ vượt ra ngoài trải nghiệm của cô. Cô sống một mình với bà mẹ dạy nhạc ở Trường Holcomb, và cô không nhớ rõ ông bố lắm vì nhiều năm trước đây, ở quê nhà California, một hôm ông Kidwell đã bỏ nhà đi và không trở lại nữa.
“Mà dầu sao thì mình cũng không chắc là tại mình,” Nancy nói tiếp. “Cái đó đang làm cho ông già thành ra bẳn tính. Một cái gì đó khác cơ - bố đang lo một cái gì đó thật.”
“Mẹ cậu chăng?”
Không người bạn nào khác của Nancy dám cho rằng, mình được phép gợi ý một điều tương tự. Nhưng Susan là người được biệt đãi. Khi cô mới xuất hiện lần đầu tiên ở Holcomb, một đứa bé buồn rầu, có óc tưởng tượng, mảnh dẻ, xanh xao và đa cảm, lúc đó lên tám, kém Nancy một tuổi, nhà Clutter đã nồng nhiệt đón nhận cô đến mức cô bé California không cha mau chóng đi tới chỗ xem mình là một thành viên của gia đình. Trong bảy năm ròng, hai cô bạn không thể rời nhau, không ai thay được cho ai, do chỗ thật hiếm khi tìm được người có những xúc cảm tương tự và đồng điệu như vậy. Nhưng rồi tháng Chín vừa qua, Susan đã được chuyển từ trường địa phương lên một trường rộng hơn và nghe bảo là cao cấp hơn ở Garden City. Đây là thủ tục quen thuộc đối với những học sinh ở Holcomb có ý học tiếp cao đẳng, nhưng ông Clutter, vốn là người ủng hộ cộng đồng đến chết, lại coi việc bỏ đi như vậy là xúc phạm tới tinh thần cộng đồng; Trường Holcomb đủ tốt cho con cái ông và chúng sẽ ở lại đây. Vậy nên hai cô gái không thể lúc nào cũng bên nhau nữa, và Nancy thấu cảm sâu xa sự vắng mặt của cô bạn lúc ban ngày, người bạn mà khi ở cạnh bên, cô không cần phải tỏ ra gan dạ hay giữ kẽ.
“Được. Nhưng cả nhà mình rất mừng về việc mẹ cậu đã nghe thấy những tin tuyệt vời đấy.” Rồi Nancy nói, “Này,” ngập ngừng tựa như lấy tinh thần để đưa ra một nhận xét ghê gớm. “Tại sao mình lại ngửi thấy mùi khói thuốc lá chứ nhỉ? Thật tình là mình nghĩ mình lẩm cẩm mất rồi. Mình lên xe hơi, mình đi vào một gian phòng, thì y như rằng có ai đó vừa mới ở đấy hút thuốc lá. Đó không phải mẹ, không thể là Kenyon. Kenyon không dám đâu...”
Càng không phải ông khách nào đến nhà Clutter, ở đây thẳng thừng không bày gạt tàn thuốc lá. Từ từ, Susan nắm được cái ẩn ý, nhưng nó hơi lố bịch. Bất kể những mối lo riêng tư của ông Clutter là thế nào, cô cũng không thể tin rằng ông đang tìm khuây trong thuốc lá. Cô chưa kịp hỏi liệu có phải đó là điều Nancy muốn nói thật không thì Nancy dập máy. “Xin lỗi Susie, tớ phải đi, bà Katz đang ở đây.”
Dick lái chiếc xe Chevrolet 1949 mui kín màu đen. Khi lên xe, Perry đã soát cái ghế đằng sau để xem cây ghi ta của hắn ở đấy nguyên lành không, đêm qua, sau khi chơi cho một bữa liên hoan của các bạn Dick, hắn đã quên mất cây đàn và để nó lại trong xe. Đó là một chiếc ghi ta Gibson cũ, đánh giấy ráp và quang dầu để cho có màu vàng mật. Một loại công cụ khác nữa nằm bên cạnh nó - một khẩu súng săn hai nòng 12 ly, mới toanh, thép xanh biếc, dọc theo báng súng khắc bằng acid là cảnh một nhà thể thao và một đàn trĩ đang bay. Một cây đèn pin, một con dao câu cá, một đôi găng da, và một chiếc áo vest đi săn nhét đầy vỏ ốc đã góp thêm không khí vào bức tranh tĩnh vật lạ lùng này.
“Cậu mặc nó à?” Perry hỏi, chỉ vào cái áo vest.
Dick cong ngón tay gõ vào kính chắn gió. “Cạch, cạch. Thưa, xin lỗi ngài ạ. Chúng tôi đang đi săn thì bị lạc đường. Chẳng hay chúng tôi có thể dùng điện thoại...”
“Si, señor. Yo comprendo[3]. ”
“Chắc cú luôn,” Dick nói. “Tớ hứa với cậu, bồ à, chúng mình sẽ hất tung tóe tóc lên hết mấy bức tường của chúng nó đấy.”
“Mấy bức tường đó,” Perry nói. Vốn là dân ghiền từ điển, một tay mê những chữ tối nghĩa, hắn đã định nâng cấp ngữ pháp của đứa bạn đồng hành và mở rộng vốn từ của nó ngay từ dạo hai đứa nằm cùng xà lim tại Nhà tù Bang Kansas. Chẳng những không chút ác cảm với các bài học này, đứa học trò, để cho ông thầy vui lòng, cũng đã có lần sáng tác ra một tập thơ, và tuy những câu thơ đó hết sức tục tĩu, song Perry thấy rất buồn cười và vẫn đưa cho một xưởng thủ công trong tù đóng bìa da cho bản thảo tập thơ, còn tên của nó, Những trò đùa bẩn thỉu, thì được mạ vàng.
Dick mặc bộ đồ trẻ con màu lam, dòng chữ máy trên lưng áo quảng cáo cho XƯỞNG SỬA THÂN XE BOB SANDS. Hắn và Perry lái dọc theo tuyến đường chính của Olathe cho tới xưởng Bob Sands, một gara sửa chữa xe hơi, Dick đã làm việc ở đấy từ ngày được ra tù vào hồi giữa tháng Tám. Là thợ cơ khí có năng lực, hắn kiếm được sáu chục đô la một tuần. Hắn không đáng ăn lương cho cái việc hắn định làm sáng nay, nhưng ông Sands, vốn đã để hắn trông coi gara các ngày thứ Bảy, thì không bao giờ ngờ được là ông đã trả lương cho gã thợ này để hắn tháo rời xe ông ra xem xét. Hắn làm việc này, có Perry giúp đỡ. Chúng thay dầu, chỉnh lại khớp côn, nạp lại bình ắc quy, đổi một chút ổ lăn nhả ly hợp và lắp lốp mới vào hai bánh sau - mọi thứ cần thiết, vì trong hôm nay và ngày mai chiếc Chevrolet già nua này đang được trông đợi thực hiện những kỳ công có mùi trừng phạt.
“Vì lão khọm cứ ở bên,” Dick nói, trả lời Perry đang muốn biết tại sao hắn lại đến quán Tiểu Kim hoàn trễ giờ. “Tớ không muốn lão khọm thấy tớ mang khẩu súng ra khỏi nhà. Trời, giá mà lão ta biết tớ đã không nói thật nhỉ.”
“Đã biết mới đúng. Nhưng cậu bảo thế nào? Cuối cùng ấy?”
“Như chúng mình đã nói ấy. Tớ bảo chúng mình đi cả đêm - nói chúng mình đi thăm chị cậu ở Fort Scott. Vì tính đến chuyện chị cậu đang giữ tiền của cậu. Một nghìn rưỡi đô la.” Perry có một người chị, và đã có lúc có hai, nhưng người chị còn sống thì không ở Fort Scott, một thị trấn ở Kansas cách Olathe tám lăm dặm; thực tình hắn cũng chẳng chắc về địa chỉ hiện nay của chị hắn.
“Ông ấy có ức không?”
“Sao lại ức?”
“Vì ông ấy căm tớ,” Perry nói, giọng vừa nhẹ nhàng vừa nghiêm túc - một cái giọng tuy mềm dịu nhưng chế tác chính xác từng từ một, làm nó bật ra như vòng tròn khói từ miệng một vị thầy tu. “Mẹ cậu cũng ghét tớ. Tớ thấy được cái lối các cụ nhìn tớ, không tả được.”
Dick nhún vai. “Chẳng liên can gì tới cậu cả. Vậy thôi. Y như họ không thích tớ gặp bất cứ ai ở các Bức Tường.” Hai lần lấy vợ, hai lần bỏ vợ, bây giờ hai mươi tám và bố của ba đứa con trai, Dick đã được phóng thích theo lời hứa không tái phạm và với điều kiện hắn về ở với bố mẹ; gia đình có một đứa em trai nữa, sống ở một cái trại nhỏ gần Olathe. “Ai cũng mang một cây kim huynh đệ,” hắn nói thêm, tay sờ vào một nốt màu lam xăm ở dưới mắt trái - một huy hiệu, một mật hiệu dễ nhìn thấy nhờ đó một số bạn tù trước đây có thể nhận ra hắn.
“Tớ hiểu,” Perry nói. “Tớ có thiện cảm với cái đó. Các cụ là người tử tế. Thật tình bà cụ là một người dễ mến, mẹ cậu ấy.”
Dick gật đầu; hắn cũng nghĩ vậy.
Buổi trưa, chúng buông đồ nghề, và Dick cho nổ máy, nghe tiếng máy ro ro đều chắc, hắn hài lòng vì đã làm được ra đầu ra đuôi một công việc.
Nancy và cô trò nhỏ, Jolene Katz, cũng hài lòng về công việc sáng hôm đó của mình; thật ra thì cô trò nhỏ, một cô bé mười ba tuổi gầy, tự hào ra mặt. Một hồi lâu, cô nhìn vào người đoạt giải ruy băng lam, vào những quả anh đào trên lò nóng đang lim dim sủi bên dưới lớp cùi bánh khía mắt cáo giòn tan, rồi không nhịn được nữa, cô ôm chầm lấy Nancy hỏi: “Nói thật đấy nhé, em có tự làm được bánh không?” Nancy cười, ôm lại và bảo cho Jolene yên tâm là làm được - với một ít chút đỡ đần.
Jolene đòi nếm ngay bánh - không lẽ để cho nó nguội, thế thì vô lý quá. “Xin mời, hai chị em mình mỗi người một miếng đi nào. Và cả bác nữa nhé,” cô nói với bà Clutter vừa đi vào bếp. Bà Clutter cười - định thế; đầu bà nhức - và nói cảm ơn cháu, nhưng bà chẳng thiết ăn. Còn Nancy thì không có thì giờ; Roxie Lee Smith và bài độc tấu trompet của Roxie Lee Smith đang chờ cô, rồi thì sau đó mấy việc vặt cho mẹ, trong đó có cái liên quan tới buổi liên hoan mừng đám cưới mà vài cô gái ở Garden City tổ chức cho Beverly, và một việc nữa là tới gala lễ Tạ ơn.
“Con đi đi, mẹ sẽ chơi với Jolene cho tới khi mẹ con bé đến đón,” bà Clutter nói, rồi quay sang đứa trẻ với một vẻ nhút nhát không che giấu nổi, bà nói thêm, “Nếu như Jolene thấy ở bên bác không sao cả.” Thời con gái, bà đã được một giải về đọc thơ; hình như đến tuổi trưởng thành tiếng nói của bà rút lại thành ra một cái giọng đơn điệu, cái giọng của vai vế, thân phận, và cả con người bà cũng bị rút lại chỉ còn là một loạt những cử chỉ bị che mờ do nỗi sợ xúc phạm người khác, làm cho người khác phật lòng. “Bác mong cháu hiểu,” bà nói tiếp sau khi con gái đã đi. “Bác mong cháu đừng nghĩ là Nancy khô khan với cháu.”
“Ồ bác ơi, không đâu. Chính cháu đang yêu chị ấy muốn chết lên đây mà. Vâng, ai cũng yêu chị ấy. Chẳng có ai như chị Nancy đây. Bác có biết bà Stringer nói sao không bác?” Jolene nói, viện tên cô giáo dạy gia chánh của mình ra. Có lần cô bảo với cả lớp, ‘Nancy lúc nào cũng bận nhưng lúc nào cũng tìm ra được thì giờ. Một bậc phu nhân là thế nào thì định nghĩa là ở Nancy đấy các em’.”
“Ờ,” bà Clutter đáp. “Tất cả các con bác đều được việc cả. Tụi nó không cần đến bác.”
Trước đây Jolene chưa từng ở một mình với bà mẹ “là lạ” của Nancy bao giờ, nhưng bất chấp những lời bàn tán nghe được, cô vẫn thấy rất dễ chịu, vì tuy bà Clutter không thoải mái với chính mình, bà lại có một ưu điểm là làm cho người khác thoải mái, những người hiền lành yếu đuối, không bao giờ đe dọa ai vẫn thường như vậy; khuôn mặt trái xoan của bà, khuôn mặt người truyền giáo, cái vẻ siêu thoát mộc mạc không thể tự vệ của bà cũng đã khơi dậy một tình thương mến muốn chở che ở ngay chính Jolene, một đứa trẻ còn rất con nít. Nhưng nghĩ rằng bà là mẹ của Nancy thì thật là khó! Một bà cô thì có vẻ còn được; một bà cô không chồng đến thăm viếng, hơi kỳ kỳ nhưng tốt.
“Không, tụi nó không cần bác,” bà nhắc lại, tự rót cho mình một tách cà phê. Tuy mọi người trong nhà đều tuân lời chồng bà tẩy chay món đồ uống này, bà vẫn mỗi sáng uống hai tách và có khá nhiều ngày bà không ăn gì, chỉ uống cà phê trừ bữa. Bà nặng bốn mươi chín cân; những cái nhẫn, một lắc cưới và một chiếc có mặt xoàn khiêm nhường đến mức nom xoàng xĩnh - khẽ rung rung trên một bàn tay xương xẩu của bà.
Jolene cắt một miếng bánh. “Úi!” cô nói rồi nuốt ngay. “Sắp sửa cả tuần bảy ngày ngày nào cháu cũng làm bánh mất thôi.”
“Đúng, cháu có một lô em trai, mà bọn con trai thì ăn được nhiều bánh này lắm đấy. Bác trai và Kenyon chẳng bao giờ chán, bác biết mà. Nhưng nhà bếp - Nancy ấy, chính nó làm ra rồi lại ngoảnh mặt chả thèm. Cái ấy cũng giống như cháu. Không - không kìa, tại sao bác lại nói cái này nhỉ?” Đeo cặp kính không gọng, bà Clutter tháo nó ra, lấy tay day mắt. “Cháu yêu, thứ lỗi cho bác. Bác chắc cháu chẳng bao giờ biết thế nào là mệt đâu. Bác chắc là cháu sẽ luôn luôn được hạnh phúc...”
Jolene im lặng. Âm sắc hoảng loạn trong giọng bà Clutter làm cô thay đổi cảm xúc; Jolene bối rối, mong mẹ đến ngay bây giờ, mặc dù bà đã hứa ghé đón cô về lúc mười một giờ.
Lúc này, đã bình tĩnh lại, bà Clutter hỏi, “Cháu có thích những thứ nhỏ xiu xíu không? Những thứ bé tẹo ấy?” rồi mời Jolene vào trong phòng ăn để xem xét những cái ngăn giá đựng các thứ kỷ niệm tí hon nhăng nhít - kéo, đê, lẵng hoa pha lê, tượng, dao, nĩa. “Bác có vài thứ này từ ngày còn Bố và mẹ - cả nhà bác - sống ở California gần hết năm. Bên đại dương. Và có một cửa hàng bán các thứ nho nhỏ quý giá như thế này. Những cái tách này.” Một bộ tách uống trà của nhà búp bê, cột chặt vào cái khay khẽ run rẩy trong lòng bàn tay bà. “Bố bác cho bác đấy; bác có một tuổi thơ đẹp.”
Là con gái duy nhất của một người trồng lúa mì giàu có tên là Fox, cô em yêu dấu của ba người anh trai, không phải được chiều quá thành hư mà là chuyện gì cũng được xí xóa cho qua, bà đã đi tới chỗ cho rằng đời là một chuỗi những sự kiện vui vầy - mùa thu ở Kansas, mùa hè ở California, một bộ tách xíu xiu quà tặng. Khi bà mười tám, bốc lên vì tiểu sử của Florence Nightingale, bà ghi tên học nữ y tá ở Bệnh viện Thánh Hoa Hồng tại Vòng Quẹo Lớn, Kansas. Bà không có ý làm nữ y tá, sau hai năm bà đã thổ lộ ra: những thực trạng của một bệnh viện - quang cảnh, những cái mùi - làm cho bà phát ốm. Nhưng đến nay bà lại tiếc đã không học hết khóa để nhận bằng tốt nghiệp - “chỉ để chứng minh,” như bà nói với người bạn, “rằng đã có một lần tôi thành công một việc gì.” Thay vì thế, bà đã gặp và lấy Herb, bạn học cùng lớp với người anh của bà, Glenn; thật ra, do hai gia đình sống cách nhau hai chục dặm, bà đã biết mặt ông từ lâu nhưng nhà Clutter, dân làm trại chay, không đủ vai vế đặng mà tới lui thăm viếng nhà Fox sung túc và có học. Nhưng Herb đẹp, sùng đạo, có ý chí mạnh, ông muốn bà - và bà phải lòng ông.
“Bác trai đi nhiều lắm,” bà nói với Jolene. “Ôi, bác ấy luôn đi đến đâu đó. Washington rồi Chicago rồi Oklahoma rồi Kansas City - đôi lúc cứ như không bao giờ bác ấy ở nhà. Nhưng bất cứ đến đâu, bác trai cũng nhớ là bác chuộng những thứ be bé này.” Bà xòe ra một chiếc quạt giấy nhỏ xíu. “Bác trai đem từ San Francisco về cho bác đấy. Giá chỉ có một xu. Nhưng có đẹp không cháu?”
Sau đám cưới một năm, Eveanna ra đời, rồi ba năm sau, Beverly; sau mỗi lần ở cữ người mẹ trẻ lại trải qua một phen chán nản không thể giải thích - những cơn sầu khổ đưa bà đi vất vưởng từ phòng này sang phòng kia trong trạng thái mê mụ khiến ai nhìn cũng phải đau lòng. Giữa hai lần Beverly và Nancy ra đời, hơn ba năm trôi qua, đó là những năm đi picnic Chủ nhật và du lịch mùa hè tới Colorado, những năm bà thật sự cai quản ngôi nhà của mình và là trung tâm hạnh phúc của nó. Nhưng tới Nancy rồi Kenyon, kiểu suy nhược sau khi đẻ tự nó đã tái phát, và tiếp theo lần đẻ cậu con trai thì tâm trạng khốn đốn buông trùm xuống bà và hoàn toàn không bao giờ nhấc lên nữa; nó vương vất như một dải mây có thể tuôn mưa mà cũng có thể không. Bà đã biết đến “những ngày tốt lành” và đôi khi chúng tích lại thành tuần thành tháng, nhưng ngay cả vào lúc khá nhất của những ngày tốt lành, những ngày bà là “cái Tôi xưa” của bà, cô gái Bonnie trìu mến đáng yêu được bè bạn cưng chiều, bà cũng không sao khơi ra được cái tài quảng giao xã hội mà các hoạt động cứ chất lên chót vót của chồng bà đòi hỏi. Ông là một “người nhập cuộc,” một “thủ lĩnh bẩm sinh.” Bà thì không, và đã thôi không cố trở thành người như thế nữa. Và thế là, dọc con đường được viền bằng lòng tương kính như tân, bằng sự tin cậy tuyệt đối, họ bắt đầu đi những lối nẻo chia ly nửa vời của họ - ông một ngả công cộng, một cuộc tiến quân của những chiếm lĩnh mãn nguyện, và ngả của bà, một ngả riêng tư rốt cuộc cũng vòng vèo qua các hành lang bệnh viện. Nhưng bà không phải không có hy vọng. Lòng tin ở Chúa nâng đỡ bà, và thỉnh thoảng những cội nguồn cổ xưa sâu thẳm đã phụ bổ thêm cho bà lòng tin vào Chúa luôn sẵn sàng thương xót; bà đọc một phương thuốc nhiệm màu, bà nghe một cách điều trị mới, hoặc như gần đây nhất, bà đã dứt khoát tin rằng để cho “thần kinh bị giày vò” là chuyện đáng phải trách cứ.
“Những thứ nho nhỏ này thật sự là của cháu,” bà nói, gập chiếc quạt lại. “Không cần để lại đâu. Cháu có thể mang chúng đi trong một cái hộp đựng giày.”
“Mang đến đâu ạ?”
“Còn đâu nữa, đến chỗ nào cháu đến ấy. Đáng lẽ cháu đã đi lâu rồi mới phải.”
Trước đây mấy năm, bà Clutter có du lịch đến Wichita để điều trị hai tuần và rồi lưu lại hai tháng ở đó. Theo lời khuyên của bác sĩ, vốn đã nghĩ rằng thí nghiệm này sẽ giúp bà phục hồi một “cảm nhận mình phù hợp và hữu ích với mọi người,” bà lấy một căn hộ và tìm việc làm - thư ký văn thư ở Y.W.C.A. Chồng bà hoàn toàn tán thưởng, khuyến khích cuộc phiêu lưu, nhưng bà lại thích nó, thích quá đến mức bà thấy hình như nó trái với lẽ Cơ đốc và hậu quả là mặc cảm phạm tội lớn dần, cuối cùng nó đè bẹp mất giá trị liệu pháp của cuộc thí nghiệm.
“Hoặc có thể cháu chẳng bao giờ về nhà. Vậy thì có một cái gì luôn ở bên người cháu là điều quan trọng đấy. Những thứ này thật sự là của cháu.”
Chuông cửa réo. Đó là mẹ Jolene.
Bà Clutter nói, “Chào cháu yêu,” rồi ấn vào tay Jolene chiếc quạt giấy. “Thứ này chỉ đáng có một xu thôi. Nhưng mà đẹp.”
Sau đó còn lại mỗi một mình bà Clutter ở nhà. Kenyon và ông Clutter lên Garden City; Gerald Van Vleet nghỉ ngày hôm nay; còn người dọn dẹp nhà cửa, bà Helm tốt bụng mà bà có thể tâm sự mọi điều, thì không đến những ngày thứ Bảy. Bà có thể trở về với cái giường của bà, chẳng sao cả - ít khi bà rời nó, đến nỗi bà Helm tội nghiệp phải quần thảo mới có cơ lấy được vải giường ra thay hai lần một tuần.
Có bốn phòng ngủ ở tầng ba, và phòng ngủ của bà là phòng cuối ở đầu cùng của gian đại sảnh trần trụi, gian này chỉ đặt một chiếc giường cũi trẻ con dùng vào dịp các cháu ngoại bà tới thăm. Bà Clutter nghĩ, nếu đưa các cỗ giường nhỏ vào và gian đại sảnh được dùng làm phòng ngủ chung thì nhà bà có thể đủ chỗ cho hai chục người trong dịp lễ Tạ ơn; những người khác sẽ ở khách sạn mini hay nhà hàng xóm. Trong họ hàng nhà Clutter, họp mặt dịp lễ Tạ ơn là luân phiên hằng năm, năm nay đến lượt Herb nên sẽ phải làm, nhưng lại trùng với việc chuẩn bị cho đám cưới Beverly như lúc này, bà Clutter không hy vọng sống sót qua cả hai vụ ấy. Cả hai đòi bà cần phải quyết định - một việc bà luôn không thích, và đã học được để mà biết sợ, vì mỗi khi chồng bà có công chuyện phải đi xa - bà vẫn không ngừng chờ dịp ông vắng nhà - là bà lại phải đưa ra những phán xét trời ơi đất hỡi liên quan đến công việc trang trại, mà cái đó thì không sao kham nổi, một kiểu hành hạ. Nhỡ bà quyết sai thì sao? Nhỡ Herb không thích thì sao? Tốt hơn là khóa cửa phòng ngủ lại, bảo là không nghe thấy, hay nói như bà đôi khi vẫn nói, “Tôi không thể, tôi không biết. Cho xin đi.”
Gian phòng mà bà chẳng mấy khi rời thì nghiêm lạnh; mặc dù giường đệm xếp dọn ngăn nắp, một người khách vẫn có thể nghĩ nó thường xuyên để không. Một chiếc giường gỗ sồi, một bàn giấy hồ đào, một bàn ngủ - không khác ngoài những ngọn đèn, cửa sổ mắc rèm và một bức tranh Giê-su đi trên mặt nước. Tựa hồ giữ cho gian phòng này không có bóng dáng người, bằng cách không đem mỗi đồ dùng riêng tư của bà vào đó mà để chúng trà trộn với các thứ của chồng, bà sẽ làm nhẹ đi được sự xúc phạm là không chung phòng với ông. Chiếc ngăn kéo duy nhất được sử dụng của bàn giấy đựng một bình xịt nước hoa hiệu Vick, giấy vệ sinh Kleenex, một đệm sưởi điện, một số váy ngủ trắng và bít tất sợi bông trắng. Bà luôn luôn đi tất loại này để ngủ vì bà luôn luôn bị lạnh. Và cũng vì lý do đó mà bà quen đóng kín cửa sổ. Mùa hè năm ngoái, vào một Chủ nhật tháng Tám, khi bà cấm cung ở đây, một sự cố đã xảy ra. Hôm đó có liên hoan, bạn bè được mời tới trại để hái dâu tằm, trong số đó có Wilma Kidwell, mẹ của Susan. Giống như phần lớn những người thường được đãi đằng vui vẻ ở nhà Clutter, bà Kidwell chấp nhận mà không bình luận gì về sự vắng mặt của bà chủ, bà cho rằng như lệ thường là bà chủ “mệt” hay “đi Wichita”. Chả hiểu sao, đến lúc vào vườn quả thì bà Kidwell thoái thác; là dân thành phố, dễ mệt, bà muốn được ở lại trong nhà. Sau đó trong khi chờ đám hái dâu tằm trở về, bà nghe thấy tiếng khóc đau đớn, làm tan nát cả lòng. “Bonnie?” bà gọi và chạy lên gác, chạy hết gian đại sảnh tới phòng Bonnie. Khi bà mở cửa, hơi nóng tụ lại ở trong gian phòng như một bàn tay đáng sợ bất chợt bịt lấy miệng bà; bà vội mở cửa sổ. “Đừng,” Bonnie kêu. “Tôi không nóng. Tôi lạnh. Tôi đang chết cóng đây. Lạy Chúa! Lạy Chúa! Lạy Chúa!” Bà huơ tay. “Xin Chúa đừng để cho người nào nhìn thấy con trong cảnh này.” Bà Kidwell ngồi xuống giường; bà muốn ôm lấy Bonnie, và cuối cùng Bonnie để cho bà ôm. “Wilma,” bà nói. “Tôi vẫn đang nghe bà đấy chứ, Wilma. Nghe tất cả mọi người. Cười. Vui vẻ. Tôi thì đang mất đi tất cả. Những năm đẹp nhất, con cái - tất cả. Ít lâu nữa, ngay Kenyon cũng trưởng thành - một người đàn ông. Nó sẽ nhớ đến tôi như thế nào chứ? Như là một con ma thôi, Wilma ơi.”
Lúc này, vào cái ngày cuối cùng này của đời bà, bà Clutter đem treo trong tủ tường bộ váy mặc ở nhà bằng vải trúc bâu bà đang mặc, rồi mặc vào một chiếc váy ngủ dài lượt thượt và một đôi bít tất sợi bông trắng sạch sẽ. Rồi trước khi lui về phòng, bà thay đôi kính thường, lấy đôi kính lão đọc sách. Tuy bà đặt mua nhiều tạp chí định kỳ (Ladies Home Journal, McCall’s Readers Digest và Together: Midmonth Magazine for Methodist Families), nhưng không có tờ nào trên bàn cạnh đầu giường - trừ một quyển Kinh Thánh. Một bìa đánh dấu trang nằm giữa sách, một miếng lụa cứng có vân sóng trên đó thêu lời răn bảo: “Con hãy cẩn thận, canh thức và cầu nguyện: bởi vì con không biết lúc nào thời vận đến đâu.”
Hai gã trẻ tuổi ấy ít có chỗ giống nhau nhưng họ không nhận thấy vì cùng có chung một số nét bên ngoài. Chẳng hạn, cả hai đều vẻ khó chiều, rất chú ý đến vệ sinh và tình hình móng tay mình. Sau một buổi sáng làm thợ máy ô tô lấm lem, họ bỏ gần hết một giờ chải chuốt đỏm dáng trong buồng vệ sinh của ga ra. Dick lột trần chỉ còn quần sịp thì không hoàn toàn giống như Dick nguyên vẹn áo quần. Mặc quần áo, hắn nom có vẻ một thanh niên mảnh dẻ, tóc vàng bẩn, tầm vóc trung bình, không có thịt và có lẽ ngực lép; tụt quần ra thì hắn lại không hề như vậy, mà đúng hơn là một lực sĩ được ép cân thành hạng bán trung. Hình xăm bộ mặt một con mèo màu lam nhoẻn miệng cười che hết bàn tay phải hắn; trên một bên vai, một bông hồng màu lam nở xòe. Nhiều dấu nữa, tự thiết kế và tự tạo, trang điểm cho hai cánh tay và thân người hắn: đầu một con rồng với một sọ người ở giữa hai hàm răng há to; đàn bà khỏa thân mông to đùng; một con quỷ với một cây đinh ba; chữ HÒA BÌNH kèm theo một chữ thập tóe ra những tia, những tia sáng thiêng liêng dưới dạng những đường thô lậu; và hai món xi rô tình cảm - một là bó hoa tặng BỐ-MẸ, một là quả tim ca ngợi thiên truyện tình của DICK và CAROL, cô gái hắn lấy năm hắn mười chín tuổi và sáu năm sau thì hắn bỏ để “làm điều phải” nhờ một phụ nữ trẻ tuổi khác, mẹ đứa con út của hắn. (“Tôi có ba đứa con mà tôi kiên quyết sẽ chăm sóc,” hắn viết như vậy khi hắn xin tha với lời hứa không tái phạm. “Vợ tôi đã đi lấy chồng. Tôi đã hai lần lấy vợ, có điều là tôi không muốn dính dáng gì với người vợ thứ hai của tôi.”).
Nhưng cả hình thù của Dick lẫn bộ sưu tập tranh xăm bằng mực trang điểm cho nó đều không gây được ấn tượng đáng kể bằng bộ mặt hắn, nó hình như được chắp lại bằng những bộ phận không cân xứng. Đầu hắn tựa hồ đã bị chẻ đôi ra như quả táo rồi chắp lại nhưng hơi chệch nhau. Một cái gì đại loại thế đã xảy ra; những đường nét chuệch choạc không hoàn chỉnh là kết quả vụ đâm xe năm 1950 - tai nạn đã làm cho bộ mặt hẹp có hàm dài ngoẵng của hắn bị nghiêng đi, phía bên trái hơi thấp xuống hơn bên phải, dẫn tới môi hơi lệch, mũi vẹo, và hai con mắt không những không ở trên cùng một đường thẳng mà còn so le về kích chước, mắt trái thật sự là mắt rắn với một cái liếc đảo màu lam ghê rợn, độc địa, cái này tuy không phải hắn cố ý làm ra nhưng hình như cảnh báo cho thấy lớp trầm tích chua cay ở đáy sâu bản chất hắn. Nhưng Perry đã bảo hắn, “Cái mắt chẳng hề sao cả. Vì cậu có một nụ cười tuyệt. Nụ cười thật sự ăn tiền đấy.” Đứng là tác động co rút của nụ cười đã dồn đẩy khuôn mặt hắn vào tỷ lệ đúng đắn của nó, để người ta có thể nhìn ra một nhân cách bớt gây căng thẳng hơn - một “đứa trẻ nhà lành” kiểu Mỹ với bộ tóc húi đầu đinh chóng dài, đủ trí khôn nhưng không quá xuất sắc. (Thật ra, hắn rất thông minh. Kết quả kiểm tra IQ của hắn ở trong tù là 130; mức của người trung bình, dù trong tù hay ở ngoài, là trong khoảng từ 90 đến 110).
Perry cũng bị tàn tật, các vết thương của hắn do một vụ đâm xe máy, còn nặng hơn của Dick; hắn nằm mất nửa năm trong một bệnh viện của bang Washington và sáu tháng nữa chống nạng, và tuy tai nạn xảy ra vào năm 1952 nhưng đôi chân ngắn ngủn, chắc mập của hắn bị gãy năm chỗ, sứt sẹo lằng nhằng tội nghiệp vẫn còn làm cho hắn đau dữ đến nỗi hắn trở thành một tay ghiền aspirin. Tuy hắn xăm mình ít hơn bạn đồng hành nhưng các hình xăm lại cầu kỳ hơn - không phải công trình tự biên của một tay nghiệp dư mà là những thiên sử thi nghệ thuật do các bậc thầy ở Honolulu và Yokohama thực hiện. COOKIE, tên cô y tá từng thân mật với hắn khi hắn nằm viện, được xăm trên bắp tay phải. Bờm lam, mắt vàng da cam, nanh đỏ, một con cọp gầm gừ ở trên bắp tay trái; một con rắn phun phè phè, quấn khúc quanh một lưỡi dao găm, bò trườn xuống cánh tay hắn; và khắp nơi khác là những đầu lâu lập lòe, một mộ chí đứng lù lù, một bông cúc nở rộ.
“O.K., người đẹp. Cất cái lược đi,” Dick nói, lúc này hắn đã mặc quần áo và sửa soạn đi. Cởi bỏ bộ đồ lao động ra, hắn mặc vào bộ kaki xám, áo sơ mi hợp màu và giống như Perry, đi đôi ủng cao đến mắt cá chân. Không thể tìm ra cái quần nào hợp với cái thân người nửa dưới bị thu ngắn đi của hắn bao giờ, Perry mặc quần jeans lam xắn gấu và áo chống gió bằng da nịt thắt ngang lưng. Tắm rửa kỳ cọ, chải chuốt bảnh chọe tinh tươm như hai gã công tử bột lên đường đến một cuộc hẹn cặp đôi, chúng đi ra xe.
Khoảng cách giữa Olathe, một vùng ngoại ô của Kansas City, và Holcomb, nơi có thể gọi là một ngoại ô của Garden City, xấp xỉ bốn trăm dặm.
Là một thị trấn mười một nghìn dân, Garden City bắt đầu tập hợp được những người sáng lập ra nó ngay sau Nội chiến không lâu. Một người săn trâu lưu động, ông C. J (Buffalo) Jones, có liên quan nhiều đến sự bành trướng tiếp theo của nó từ một quần thể túp lều và trạm xe ngựa thành ra một trung tâm chăn nuôi trù phú với các quán rượu nhậu nhẹt vui chơi huyên náo, một nhà hát, và khách sạn sang trọng nhất ở bất cứ chỗ nào giữa Kansas City và Denver - tóm lại, một tiêu bản về sự tân kỳ của vùng biên giới, có thể so đọ được với một nơi định cư nổi tiếng hơn nữa ở cách đó năm chục dặm về phía Đông, Dodge City. Cùng với Buffalo Jones, người rồi cuối cùng mất hết cả tiền lẫn trí não (những năm chót đời ông dành hết vào việc diễn thuyết trước đám đông đường phố kêu gọi chống tiêu diệt bừa bãi những con thú mà chính ông từng tàn sát lấy lời), những ánh huy hoàng ngày xưa đã chui vào trong mộ. Một vài kỷ niệm còn tồn tại: một dãy nhà buôn màu sắc ôn hòa được người ta gọi là khối Buffalo Block, và khách sạn Windsor rực rỡ một thời với quán rượu trần cao vút hiện vẫn còn rực rỡ, với bầu không khí những ống nhổ và những cây cọ trồng chậu, vẫn bền bỉ đứng giữa các cửa hàng và siêu thị mọi kiểu mọi vẻ, nó như là một mốc địa giới của Phố Chính - một khách sạn tương đối không được bảo trợ, vì các gian phòng đồ sộ, tối tăm kiểu Windsor và các hành lang dội tiếng của nó dù gợi cảm đến mấy đi nữa thì cũng không thể cạnh tranh nổi với sự dễ chịu nhờ điều hòa nhiệt độ ở khách sạn Warren xinh xinh ngăn nắp, hay với các cỗ máy ti vi cá nhân và “Bể bơi nước nóng” của khách sạn mini Wheat Lands.
Ai đi từ bờ biển bên này sang bờ biển bên kia xuyên nước Mỹ, bằng xe lửa hay xe hơi, chắc chắn đều đã qua Garden City, nhưng nếu cho rằng chẳng có mấy người qua đường nhớ được chuyện này thì cũng chẳng sai gì lắm. Nó chỉ có vẻ như một thị trấn kích thước trung bình khác nằm ở giữa - gần như chính giữa - nước Mỹ lục địa. Không phải người dân ở đây sẽ dung thứ cho một ý kiến như thế - dù có thể là đúng. Tuy họ có thể ngoa ngoắt (“Nhìn khắp thế giới mà xem, anh sẽ không tìm ra nổi ở đâu có người dân thân mật bằng, có không khí trong lành bằng, có nước uống ngon ngọt bằng ở đây đâu nhé,” và “Đến Denver tôi có thể được lương nhiều gấp ba, nhưng tôi đã có năm đứa nhỏ, và tôi tính chẳng đâu nuôi dạy trẻ tốt được hơn ở đây đâu mà. Các trường mở rộng có đủ mọi môn thể thao. Còn có cả trường đại học nữa,” rồi “Hồi xưa tôi đến đây là để thực tập luật. Chỉ nhất thời thôi, tôi chưa bao giờ có ý ở lại. Nhưng khi có dịp để đi thì tôi lại nghĩ, sao phải đi? Để làm cái quỷ gì? Có thể đây không là New York nhưng ai cần New York chứ? Hàng xóm láng giềng tử tế, những con người quan tâm ưu ái với nhau, cái đó mới quan trọng. Còn những thứ mà một người đứng đắn cần đến thì đây chúng tôi có đủ. Nhà thờ đẹp đẽ này. Sân gôn này”), nhưng người mới tới Garden City, một khi đã hòa nhập vào bầu im lặng ban đêm sau tám giờ của Phố Chính thì sẽ phát hiện ra nhiều điều để mà ủng hộ cho những lời huênh hoang khoác lác có tính tự vệ của tinh thần công dân: một thư viện làm ăn giỏi, một tờ nhật báo có uy tín, đây đó những quảng trường trồng cỏ xanh râm mát, những con phố im lìm dành cho nhà - mà trẻ con và thú vật tha hồ chạy rông an toàn, một công viên lớn nhiều ngóc ngách được bổ sung một bầy thú xiếc (“Hãy xem Gấu Bắc Cực!” “Hãy coi Chú voi Penny!”), và một bể bơi chiếm nhiều mẫu đất (“Bể bơi KHÔNG MẤT TIỀN lớn nhất thế giới!”) Những phụ khoản như thế, rồi bụi rồi gió, rồi tiếng còi xe lửa không ngừng rúc gọi, tất cả đã thêm thắt hương vị cho một “thị trấn quê hương” mà chắc hẳn những người rời nó ra đi ắt sẽ phải nhớ mong bồi hồi, còn với những ai ở lại thì chúng đem tới một ý thức về cội nguồn gốc rễ và sự mãn nguyện.
Không ngoại lệ, người thành phố Garden phủ nhận cái chuyện có thể đem dân thị trấn ra phân cấp về mặt xã hội (“Không ạ, thưa ngài. Ở đây không có gì giống như thế cả đâu. Tất cả bình đẳng, bất kể giàu nghèo, màu da, tín ngưỡng. Mọi cái đều đúng với cung cách phải thế của một nền dân chủ; chúng tôi là vậy đó”), nhưng, dĩ nhiên, người ta thấy rõ sự phân biệt giai cấp, và cũng dễ dàng thấy rõ như - bất cứ bầy người nào khác. Ra khỏi phía Tây trăm dặm, người ta sẽ ở ngoài “Vành đai Kinh Thánh” - cái dải lãnh thổ Mỹ bị sách Phúc âm ám kia - ở đó một người, nếu chỉ vì lý do làm ăn, sẽ có thể nói về tôn giáo của mình bằng bộ mặt trơ lì, nhưng ở hạt Finney người ta vẫn ở trong ranh giới của “Vành đai Kinh Thánh,” do đó quan hệ với nhà thờ của một người là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến địa vị giai cấp của người đó. Khoảng tám chục phần trăm tín đồ của hạt này là hỗn hợp của những người theo dòng Baptist, Giám lý, Cơ đốc Rôma, song ở tầng lớp ưu tú - doanh nhân, chủ ngân hàng, luật sư, bác sĩ và chủ trại chăn nuôi trội hơn chiếm lấy ngăn trên - thì dòng Trưởng lão và dòng Tân giáo là nổi nhất. Một tín đồ Giám lý thảng hoặc cũng có được hoan nghênh, và có lần một đảng viên Dân chủ đã lọt vào một thời gian, nhưng về tổng thể thì Bộ máy bao gồm những đảng viên Cộng hòa cánh hữu thuộc dòng Trưởng lão và Tân giáo.
Là người có học, thành đạt trong nghề nghiệp, là một đảng viên Cộng hòa lỗi lạc và người đứng đầu nhà thờ - dù là nhà thờ Giám lý - ông Clutter có đủ tư cách để đứng vào hàng ngũ những thân hào nhân sĩ địa phương, nhưng chính bởi ông không bao giờ gia nhập Câu lạc bộ Garden City Country cho nên ông không bao giờ tìm cách liên hiệp với nhóm cầm quyền. Trái hẳn lại, vì những thú vui của họ không phải là thú vui của ông; ông không được gì trong trò chơi cờ bạc, đánh gôn, tiệc cốc tai hay những bữa nguội buffet khách tự phục vụ lúc mười giờ tối - hay, đúng vậy, trong những thứ giải trí mà ông cảm thấy “không làm nên một cái gì.” Thế cho nên, thay vì có chân trong trận đánh gôn bốn người vào ngày thứ Bảy rực nắng này, ông Clutter lại ngồi ghế chủ tọa cuộc họp của Câu lạc bộ 4-H Hạt Finney (4-H là bốn thứ: Head “trí”, Heart “tâm”, Hands “đôi tay” và Health “sức khỏe”, và tôn chỉ của Câu lạc bộ tuyên bố “Chúng ta học làm bằng cách làm”. Đây là một tổ chức quốc gia có chi nhánh ở nước ngoài, mục đích giúp những người sống ở nông thôn - đặc biệt là trẻ con - phát triển các năng lực thực tiễn và tính cách tinh thần. Nancy và Kenyon là thành viên tự nguyện từ năm lên sáu). Đến cuối cuộc mít tinh, ông Clutter nói, “Bây giờ tôi có một điều cần nói liên quan đến một trong các thành viên của chúng ta.” Mắt ông hướng vào một người đàn bà Nhật mũm mĩm có bốn đứa bé Nhật mũm mĩm vây quanh. “Các bạn đều biết Hideo Ashida. Biết gia đình nhà Ashida từ Colorado chuyển về đây như thế nào - họ bắt đâu làm trại ở Holcomb hai năm trước. Một gia đình tốt đẹp, kiểu người mà Holcomb may mắn có được. Bất cứ ai cũng sẽ nói với bạn như thế. Ai bị ốm là được bà Ashida đi bộ đến thăm và chẳng thể tính ra được bà đã đi bao nhiêu dặm đường để mang đến cho họ món xúp tuyệt vời bà nấu. Hoặc những bông hoa bà trồng ở nơi mà bạn không trông chờ nó có thể mọc lên. Và năm ngoái ở chợ phiên hạt bạn sẽ nhớ lại bà đã đóng góp bao nhiêu vào thành công của các triển lãm 4-H. Vậy nên tôi đề nghị chúng ta tôn vinh bà Ashida bằng một phần thưởng ở bữa tiệc mừng thành tích của chúng ta vào thứ Ba tới.”
Các con bà dúi, đẩy bà; thằng con lớn nhất kêu to lên. “Hầy, mẹ ơi, họ nói mẹ đấy!” Nhưng bà Ashida lại ngượng; bà đưa hai bàn tay bụ bẫm như đứa trẻ lên dụi mắt rồi cười. Bà là vợ một người chủ trại thuê đất; một cái trại đặc biệt lộng gió và lẻ loi, ở vào quãng giữa Garden City và Holcomb. Sau các cuộc họp 4-H, ông Clutter thường lái xe đưa mẹ con bà Ashida về nhà, hôm nay cũng vậy.
“Trời, tôi đã bị choáng,” bà Ashida nói khi chiếc xe tải nhỏ của ông Clutter chở họ lăn bánh trên đường số 50. “Có vẻ như lúc nào tôi cũng phải cảm ơn ông, Herb ạ. Nhưng xin cảm ơn ông.” Bà đã gặp ông vào ngày thứ hai bà tới hạt Finney, trước lễ Halloween đúng một ngày, và ông cùng Kenyon đã đến thăm mang cho một đống bí với bí ngô. Trong suốt năm đầu tiên gay go đó, quà cáp cứ đến, những thứ mà Ashida chưa trồng được - từng rổ măng tây, rau diếp. Và Nancy thường đem con Babe đến cho bọn trẻ con cưỡi. “Ông biết đấy, đây là nơi tốt nhất chúng tôi từng được sống, ở hầu hết mọi mặt. Hideo cũng nói vậy mà. Chắc chắn chúng tôi khó mà nghĩ tới việc bỏ đây đi. Lại bắt đầu cả từ con số không.”
“Bỏ đi ư?” ông Clutter phản đối và cho xe chạy chậm lại.
“Vâng, Herb ạ. Bỏ cái trại và những người chúng tôi đang làm lụng cho - Hideo nghĩ chúng tôi có thể làm được tốt hơn nữa. Có thể là ở Nebraska. Nhưng chưa ngã ngũ gì đâu. Mới là nói chuyện dông dài.” Giọng nồng ấm của bà lúc nào cũng như sắp cười, làm cho cái tin buồn thế nào đó mà lại nghe như hớn hở, nhưng thấy ông Clutter buồn, bà lại quay sang chuyện khác. “Herb, hãy cho tôi ý kiến của một người đàn ông nào,” bà nói. “Tôi và lũ trẻ dành dụm được chút ít, chúng tôi muốn tặng Hideo một cái gì lớn nhân dịp lễ Giáng sinh. Cái ông ấy cần là răng. Bây giờ ví như vợ ông cho ông ba cái răng vàng, liệu đó có phải là một tặng vật vô lối khiến ông khó chịu không? Tôi muốn nói là bắt một người qua lễ Giáng sinh ở trên ghế của ông nha sĩ thì nghe có được không?”
“Ông bà làm chúng tôi bối rối đấy. Đừng có thử mà đi khỏi đây. Chúng tôi sẽ trói gô bốn chân tay ông bà lại đấy,” ông Clutter nói. “Vâng, vâng, tất nhiên là răng vàng rồi. Nếu là tôi thì tôi thích đấy.”
Phản ứng của ông làm bà Ashida thích thú, vì bà biết ông sẽ không tán thành dự định của bà trừ phi ông muốn thế; ông là người trang nhã lịch sự. Bà biết ông không bao giờ chơi “lên mặt quan cách” hay tranh thủ kiếm lời hay thất hứa. Bà đánh bạo giật lấy một lời hứa lúc này. “Xem này Herb, ở bữa tiệc - không có diễn văn, hả? Không phải cho tôi. Ông ấy, ông là khác người lắm. Đấy, cái lối ông đứng lên nói với cả trăm con người. Nghìn ấy chứ. Mà cứ tự nhiên thế - thuyết phục mọi người bất cứ việc gì. Chả có cái gì làm ông sợ,” bà nói, luận về một đức tính ai cũng biết của ông Clutter: lòng tự tin không biết sợ, nó khiến ông tách biệt với người đời, và tuy tạo ra lòng kính trọng song nó cũng hạn chế chút nào đấy tình cảm của người khác đối với ông. “Tôi không thể tưởng tượng nổi ông sợ đâu đấy nhá. Dù có gì xảy ra, ông cũng chỉ cần nói thôi là thoát được ngay.”
Đến giữa chiều, chiếc xe Chevrolet đen đã tới Emporia, Kansas, thị trấn lớn, gần như một thành phố, và một nơi an toàn, cho nên những người trên xe quyết định dừng lại mua sắm chút ít. Họ đỗ xe bên đường rồi đi quanh quẩn cho tới khi một cửa hàng tạp hóa đông vừa phải hiện ra.
Đầu tiên mua một đôi găng cao su cho Perry; không giống Dick, hắn đã quên không đem theo đôi cũ của hắn.
Họ đi đến một quầy có hàng dệt kim cho phụ nữ. Sau mấy câu nước đôi lưỡng lự, Perry nói, “Tớ chấm cái này.”
Dick lại không. “Mắt tớ làm sao ấy? Màu quá sáng không che được cái đó đâu.”
“Cô ơi,” Perry đánh động một cô bán hàng. “Cô có bít tất dài đen không?” Khi cô gái nói không, hắn đề nghị đi xem cửa hàng khác. “Đen thì dùng vào việc gì cũng được.”
Nhưng Dick lại nghĩ khác: bít tất màu gì thì cũng không cần, vướng víu, mua uổng tiền mà thôi (“Tớ đã đầu tư khá tiền vào vụ này đấy”), và dẫu sao, bất cứ ai mà chúng gặp thì cũng chẳng sống để làm chứng được đâu. “Không nhân chứng,” hắn nhắc nhở Perry thế hình như là một triệu lần rồi. Cái cách Dick phun ra ba chữ kia, nó day dứt trong hắn, tựa như chúng giải quyết được mọi vấn đề; không thừa nhận rằng có thể chúng đã bỏ qua một nhân chứng nào đó thì thật ngu. “Cái điều khó nói mà xảy ra thì sự tình sẽ phải có một bước ngoặt,” hắn nói. Nhưng, mỉm cười một cách hợm hĩnh với vẻ con nít, Dick lại không tán thành: “Lấy hết bọt bong bóng trong máu cậu đi, đừng cẩn thận quá. Chẳng cái gì trục trặc hết.” Không. Vì kế hoạch này là của Dick, và một khi hắn đã thiết kế từ đầu đến cuối thì không thể sơ suất được.
Rồi chúng chú ý đến dây thừng. Perry nghiên cứu đống dây, thử từng sợi. Từng phục vụ một dạo trong ngành tàu buôn, hắn hiểu rõ dây thừng và thạo các kiểu nút. Hắn chọn một sợi ni lông trắng, chắc như dây thép nhưng không dày hơn nhiều lắm. Chúng hỏi nhau cần bao nhiêu mét dây. Câu hỏi làm Dick cáu, bởi nó là một phần của một chuyện còn khó tính khó xử hơn và mặc dù kế hoạch hắn thảo ra coi như đã hoàn hảo, hắn vẫn không thể trả lời chắc chắn được. Cuối cùng, hắn nói, “Lạy Chúa, tớ biết thế chó nào được?”
“Cậu phải cao thủ hơn chứ.”
Dick thử. “Có tay chồng này. Mụ vợ. Thằng con trai nhỏ và đứa con gái. Và có thể hai đứa con nữa. Nhưng là thứ Bảy. Họ có thể có khách. Ta cứ tính cho là tám đi, thậm chí mười hai đi. Điều chắc chắn duy nhất là dù có mấy thì mấy cũng đều phải đi tong.”
“Chúng nó có vẻ đông. Phải biết thật chắc cái đó.”
“Tớ có hứa với cậu chỗ đó đâu, bồ ơi - nhiều tóc ở trên đầu chúng nó lắm - những bức tường kia ấy hử?”
Perry nhún vai. “Thế thì tốt hơn là ta cứ mua cả cuộn.” Nó dài gần trăm mét - khá đủ cho mười hai người.
Kenyon đã tự làm lấy cái hòm: cái hòm đựng quần áo cô dâu bằng gỗ dái ngựa, gờ bằng gỗ tuyết tùng mà cậu định cho Beverly làm quà cưới. Bây giờ, cậu đang làm trong cái gọi là sào huyệt ở dưới tầng hầm. Cậu bôi cho nó lớp quang dầu cuối cùng. Đồ đạc trong sào huyệt, một buồng nền xi măng chạy hết chiều dài ngôi nhà, gồm gần như là toàn những vật mẫu nghề mộc của cậu (giá, bàn, ghế đẩu, một bàn đánh bóng bàn) và đồ thêu thùa may vá của Nancy (những tấm vải sặc sỡ như làm cho cỗ đi văng ọp ẹp trẻ trung ra, rèm cửa, gối có chữ: HẠNH PHÚC? VÀ BẠN CHẢ CẦN PHẢI ĐIÊN MỚI SỐNG Ở ĐÂY NHƯNG ĐIỀU ẤY GIÚP BẠN ĐẤY). Kenyon và Nancy cùng có toan tính vẩy sơn vào gian phòng này cho nó mất đi cái vẻ khắc khổ không xóa bỏ được, cả hai đều không nhận ra chỗ thất bại. Kỳ thực cả hai lại nghĩ sào huyệt của chúng là một chiến thắng và hạnh phúc - Nancy nghĩ thế là vì đấy là chỗ cô có thể tiếp đãi “băng đảng” mà không quấy rầy mẹ cô, còn Kenyon thì vì cậu có thể ở đây một mình, tha hồ gõ nện, cưa và mày mò các “sáng kiến” của mình, cái mới nhất là chiếc chảo điện sâu đáy. Kế bên sào huyệt là một phòng để lò sưởi, chứa một cái bàn la liệt công cụ chất đống, trong đó có một số công trình làm dở dang của cậu - một bộ khuếch âm, một máy Victrola lên dây cót cũ rích mà cậu đang sửa cho chạy lại.
Về hình thức, Kenyon không giống cả bố lẫn mẹ; bộ tóc cắt kiểu đầu đinh của cậu màu gai và cậu cao trên mét tám, gầy nhẳng, tuy vẫn đủ khỏe để có lần cứu được một cặp cừu lớn đẫy bằng cách mang chúng đi hai dặm trong bão tuyết - mạnh mẽ, kiên cường, nhưng khổ não vì thiếu sự phối hợp của cơ bắp, giống như ở một cậu thiếu niên dài đuỗn. Nhược điểm này càng nặng thêm do chỗ cậu không thể làm gì mà không có kính, khiến cậu không thể chơi ở những vị trí quan trọng trong các môn thể thao có kíp có đội (bóng rổ, bóng chày) vốn là mối bận bịu chính của phần lớn những cậu trai có thể là bạn bè của cậu. Cậu chỉ có một người bạn thân - Bob Jones, con ông Taylor Jones, trang trại ông này ở cách nhà Clutter một dặm về phía Tây. Ở vùng nông thôn Kansas, con trai bắt đầu lái xe từ rất trẻ; mười một tuổi Kenyon đã được bố cho phép, với tiền cậu kiếm được bằng cách nuôi cừu, mua một chiếc xe tải cũ một động cơ kiểu A - xe hàng Coyote, cậu và Bob gọi nó như vậy. Cách Trại Lũng Sông không xa có một dải đồng đất bí ẩn tên gọi Đồi Cát; nó như một bãi biển mà không có biển, đêm đêm những con sói đồng cỏ lủi giữa các cồn cát, tụ tập thành bầy mà hú khóc. Những tối có trăng hai cậu tụt xuống tới gần chúng, xua chúng chạy và cố đua vượt chúng bằng chiếc xe hàng; họ ít khi vượt nổi, vì con sói loài này lẻo khoẻo nhất cũng chạy tới năm chục dặm một giờ, trong khi tốc độ cao nhất của chiếc xe hàng là ba mươi lăm, nhưng đó là một thứ vui chơi vừa man dại vừa đẹp, cỗ xe hàng trượt trên cát và bầy sói chạy tán loạn in hằn trên nền trăng - như Bob nói, chắc chắn cảnh đó làm tim bạn rộn ràng.
Cũng say sưa như thế, nhưng thu lợi hơn, là những trận vây bắt thỏ: Kenyon là một tay súng tốt nhưng bạn cậu còn giỏi hơn, và đôi khi hai cậu giao nộp đến năm chục con thỏ cho “xưởng thỏ” - một nhà máy chế biến ở Garden City trả mười xu một đầu thỏ, những con thỏ này sẽ được mau chóng làm đông lạnh và đưa xuống tàu chở tới cho những người nuôi chồn lấy lông. Nhưng cái có ý nghĩa nhất với Kenyon - và với cả Bob - là những ngày cuối tuần, đi săn ròng rã suốt đêm dọc bờ sông: lang thang xuôi ngược, quấn mình trong chăn, mặt trời vừa ló là liền lắng nghe tiếng cánh chim, rón rén trên đầu ngón chân tiến lại phía tiếng động, thế rồi, khoái hơn tất cả là vênh váo về nhà với một tá vịt treo lủng lẳng quanh thắt lưng để làm bữa tối. Nhưng về sau sự tình giữa hai cậu đã thay đổi. Họ không cãi nhau, không có bất hòa lộ liễu, chẳng xảy ra chuyện gì trừ chuyện Bob, bấy giờ mười sáu tuổi, bắt đầu “đi với gái”, thế là Kenyon, vốn trẻ hơn một tuổi và hãy còn rất thiếu niên đơn chiếc, không còn trông chờ vào tình bạn đồng hành của Bob được nữa. Bob bảo cậu, “Khi cậu bằng tuổi tớ, cậu sẽ thấy khác. Tớ cũng đã quen nghĩ như cậu rồi đấy chứ: đàn bà - thì đã sao? Nhưng rồi cậu trò chuyện với một người đàn bà nào đó thì sẽ thấy, rất hay đấy cậu ạ. Cậu sẽ hiểu.” Kenyon nghi ngờ điều đó; cậu không thể hình dung nổi mình lại muốn đem phí phạm dù chỉ một giờ với một cô gái nào, cái giờ ấy có thể dùng cho súng, ngựa, đồ nghề, máy móc, thậm chí cho một quyển sách. Nếu không có Bob thì thà một mình, bởi về tính tình cậu chẳng giống bố tí nào mà gần với mẹ hơn, một cậu trai đa cảm rụt rè. Đám cùng lứa nghĩ cậu là “kẻ thui thủi” nhưng họ bỏ qua cho cậu, nói, “À, Kenyon. Chỉ là cậu ta sống trong thế giới của riêng cậu ta ấy mà.”
Để cho lớp véc ni khô, cậu đi làm một việc vặt khác cần phải làm ở ngoài nhà. Cậu muốn sửa sang lại vườn hoa của mẹ, một mảnh đất bà rất mực yêu quý, cành lá mọc lòa xòa ở ngay dưới cửa sổ phòng ngủ của bà. Khi tới đó, cậu thấy một người làm thuê đang xới tơi đất bằng thuổng - Paul Helm, chồng của bà quét dọn nhà cửa.
“Thấy cái xe kia không?” ông Helm hỏi.
“Có,” Kenyon nhìn thấy một chiếc xe ở trên đường rẽ vào nhà - một chiếc Buick màu xám, đậu ở bên ngoài lối vào bàn giấy của bố cậu.
“Tôi nghĩ có thể cậu biết là xe ai.”
“Không, trừ phi là của ông Johnson. Bố nói là đang mong ông ấy.”
Ông Helm (ông Helm quá cố; ông chết vì nhồi máu cơ tim tháng Ba sau đó) là một người âm thầm, vào trạc cuối ngũ tuần, cái dáng co ro của ông lại để lộ ra một bản tính rất tò mò và soi mói; ông thích biết cái gì đang diễn ra. “Johnson nào?”
“Cái ông ở sở bảo hiểm ấy.”
Ông Helm lầm bầm, “Bố cậu chắc phải để dành được một đống của. Cái xe này ở đây có khi phải ba tiếng rồi.”
Làn hơi ớn lạnh buổi chiều xuống run rẩy trong không gian, và tuy vòm trời còn xanh thăm thẳm, bóng tối dài dần lan ra từ những thân cúc cao trong vườn; con mèo của Nancy len lỏi giữa đám cúc, vướng chân vào những sợi dây mà Kenyon và ông già đang dùng để buộc cây. Chợt, Nancy chạy thong thả qua cánh đồng trên lưng con Babe béo tròn - Babe vừa đi tắm sông về, tắm sông là chế độ đài thọ ngày thứ Bảy dành cho nó. Con chó Teddy đi cùng, cả ba đều ướt đầm và lóng lánh.
“Khéo bị cảm đấy,” ông Helm nói.
Nancy cười to; cô không bao giờ ốm - chưa lần nào. Trượt khỏi lưng Babe, cô nhoài xuống bãi cỏ rìa vườn tóm lấy con mèo, nâng nó lên trên đầu, rồi hôn vào mũi và ria mép nó.
Kenyon thấy ghê. “Hôn vào mồm giống vật.”
“Em vẫn hôn Skeeter đấy thôi,” Nancy nhắc em.
“Skeeter là một con ngựa.” Một con ngựa đẹp, một con ngựa nòi xích thố cậu nuôi từ bé. Skeeter băng qua được cả một hàng rào! “Con ép con ngựa làm quá sức đấy,” bố cậu có lần đe cậu. “Có ngày con sẽ cưỡi Skeeter đến toi mạng nó mất thôi.” Và Skeeter toi mạng thật; trong khi đang chạy xuống một con đường với cậu chủ trên lưng, tim Skeeter đã vỡ, nó khuỵu xuống. Bây giờ, một năm sau khi Skeeter chết, Kenyon vẫn thương tiếc nó, mặc dù bố cậu thấy thương hại đã hứa cho cậu chọn một con khác vào lứa ngựa mùa xuân tới.
“Kenyon này,” Nancy nói, “Liệu vào dịp lễ Tạ ơn Tracy đã nói được chưa?” Tracy chưa đầy tuổi tôi, là cháu gọi. Nancy bằng cô, con trai của Eveanna, người chị mà cô cảm thấy đặc biệt thân thiết. (Beverly là người chị thân nhất của Kenyon). “Khi nghe nó nói ‘Dì Nancy’ chắc chị sẽ sướng rợn cả người đây. Hay ‘Cậu Kenyon.’ Em có thích nghe nó gọi như vậy không? Chị muốn nói là em có mê đóng vai người cậu không? Kenyon? Quỷ sứ, sao em chẳng bao giờ trả lời chị thế hả?”
“Vì chị rồ,” Kenyon nói, ném cho chị một bông hoa, một bông thược dược trắng, Nancy liền cài lên tóc.
Ông Helm nhặt thuổng lên. Quạ kêu, mặt trời sắp lặn, mà nhà ông thì xa; lái đi có rặng du Tàu đã biến thành một đường hầm màu xanh thẫm, và ông thì ở đầu cùng đằng kia, cách nửa dặm. “Chào,” ông nói và bắt đầu lên đường về nhà. Nhưng có một lúc ông quay lại. “Và đó là lần cuối cùng tôi thấy hai cháu,” ông nói để làm chứng ngày hôm sau. “Nancy dắt con Babe già về nhà kho. Như tôi nói đấy, chẳng có gì khác thường cả.”
Chiếc Chevrolet đen lại đỗ, lần này trước bệnh viện Cơ đốc ở ngoại vi Emporia. Sau những câu kháy liên tục (“Tại mày chứ tại ai. Mày cứ nghĩ chỉ có một đường duy nhất đúng - đường của Dick”), Dick đã đầu hàng. Trong khi Perry ngồi chờ trong xe, hắn vào bệnh viện thử mua một đôi bít tất dài màu đen của một cô tu sĩ. Phương pháp dùng bít tất khá phi chính thống này là cơn hứng của Perry; hắn lập luận, nữ tu thì chắc chắn có cái đó. Điều này đã cho thay một bất lợi: các cô tu sĩ và dĩ nhiên bất cứ cái gì liên quan đến các cô đều là đen đủi, mà Perry thì lại trọng nhất mê tín dị đoan. (Một vài thứ khác là con số 15, tóc đỏ, hoa trắng, thầy tu qua đường, mơ thấy rắn.) Song hắn vẫn không dừng được. Cái con người mê tín như bị bắt buộc cũng rất thường khi là một tay tin vào số mệnh tợn; đó là trường hợp Perry. Hắn đang ở đây, dấn chân vào cuộc lênh phênh hiện giờ không phải vì hắn mong như thế mà là vì số mệnh đã an bài; hắn có thể chứng minh điều đó - tuy hắn không có - làm thế, ít nhất là trong tầm tai của Dick, vì bằng chứng sẽ dính dấp đến chuyện hắn thổ lộ động cơ đích thực và thầm kín đằng sau việc hắn trở lại Kansas, một sự vi phạm lời hứa không tái phạm mà hắn đã quyết định cứ làm, vì một lý do không liên quan gì tới chuyện “trúng quả” của Dick hay thư Dick gọi hắn. Lý do là nhiều tuần trước hắn biết được rằng vào ngày thứ Năm, 12 tháng Mười một, một bạn tù khác chung xà lim với hắn trước kia đã được phóng thích khỏi Nhà tù Bang Kansas ở Lansing, và “hơn bất cứ thư gì trên đời này,” hắn mong gặp con người này, “người bạn chính cống và duy nhất” của hắn, gã Willie-Jay “cao thủ”.
Trong năm đầu của ba năm tù, Perry đã quan sát Willie-Jay từ xa, thích thú nhưng e dè; nếu ta mong được coi là tay cứng rắn dữ dằn thì sự thân mật với Willie-Jay có vẻ như không khôn ngoan. Hắn là người giúp việc của cha xứ, một người Ái Nhĩ Lan thanh mảnh với mái tóc sớm bạc và hai con mắt xám buồn. Giọng nam cao của hắn là niềm vinh dự của dàn đồng ca tù. Ngay cả Perry, tuy ác cảm với bất cứ biểu hiện sùng đạo nào, cũng cảm thấy “nao nao” khi nghe Willie-Jay hát Kinh Nguyện Cha; lời nhạc trầm vang của bài ca dâng Chúa được hát lên với một tinh thần tin yêu đến như thế đã làm hắn xúc động mà tự hỏi một chút liệu sự khinh khi của mình có chính đáng không. Cuối cùng, bị khích động bởi một lòng tò mò tôn giáo hơi được khêu gợi, hắn đã đến gần Willie-Jay, và người giúp việc cha xứ lập tức đáp ứng, hắn nghĩ rằng mình đã linh cảm thấy ở trong con người lực sĩ nhưng chân tàn tật, với cái nhìn mờ tối, giọng nói thoảng nhẹ và nghiêm túc này có “một nhà thơ, một cái gì hiếm hoi và có thể cứu vớt được”. Tham vọng “đưa chàng thanh niên này đến với Chúa” tràn ngập trong hắn. Hy vọng thành công của hắn tăng nhanh khi một hôm nọ Perry vẽ một bức tranh bằng phấn màu - bức chân dung Giê-su lớn, không chút nào ngô nghê về thủ pháp. Cha xứ Tân giáo Lansing, Đức Cha James Post, đánh giá bức tranh cao đến mức treo nó trong phòng làm việc của mình, và nay vẫn còn treo: một Đấng Cứu thế trơn tru xinh đẹp với đôi môi mọng và con mắt đau đáu của Willie-Jay. Bức tranh là đỉnh cao của cuộc kiếm tìm tâm linh chưa bao giờ gắt gao đến thế ở Perry, nhưng, nực cười thay, đó cũng lại là sự chấm dứt; hắn đã gán cho Giê-su của hắn “một xíu đạo đức giả”, một mưu toan “lừa phỉnh và bội phản” Willie-Jay, vì hắn vẫn cứ không tin Chúa cũng như xưa nay chẳng hề tin Chúa. Nhưng hắn có nên chấp nhận điều đó và chấp nhận nguy cơ bỏ mất một người bạn “đã thật sự hiểu hắn” không? (Hod, Joe, Jesse, những kẻ lữ hành thất tán trong một thế giới mà ở đó những cái tên cuối ít được trao đổi với nhau, họ đã là “cánh hẩu” của hắn - thì chưa từng có ai giống như Willie-Jay, đứa mà theo ý kiến của Perry “về tri thức vượt hẳn mức trung bình, có óc cảm nhận như một nhà tâm lý học được rèn luyện tốt”. Sao một người được nhiều thiên bẩm đến thế lại chui rúc tới Lansing nhỉ? Điều đó làm Perry ngạc nhiên. Câu trả lời, hắn biết nhưng bác bỏ vì coi nó như là “nhằm trốn tránh câu hỏi sâu hơn, câu hỏi về con người,” thì rõ như ban ngày với cả những đầu óc đơn giản hơn: người giúp việc của cha xứ, lúc đó ba tám tuổi, là một thằng ăn cắp, một tên trấn lột cỡ nhỏ trong vòng hai chục năm từng nằm tù ở năm bang.) Perry quyết định nói ra: hắn tiếc thì tiếc, nhưng mấy cái kia - thiên đường, địa ngục, thánh thần, lòng thương yêu Chúa - không phải để cho hắn, và nếu như tình cảm của Willie-Jay được xây dựng trên cái viễn cảnh là ngày nào đó Perry sẽ đến gặp hắn dưới chân thánh giá thì hắn đã bị lừa, tình bạn của hai đứa là giả, một trò nhái, như bức chân dung kia mà thôi. Willie-Jay hiểu ngay, như thường lệ; nản lòng nhưng không vỡ mộng, hắn kiên trì tán tỉnh nhằm bắt lấy linh hồn Perry cho đến hôm Perry được tha vì đã hứa không tái phạm rồi rời nhà tù, đêm trước đó hắn viết cho Perry một bức thư vĩnh biệt, đoạn kết như sau: “Cậu là một người cực kỳ đam mê, một người đói khát không biết mình đói khát cái gì, một người thất vọng sâu sắc đang vật lộn để phóng chiếu cá nhân mình lên cái nền sự rập khuôn cứng nhắc. Cậu tồn tại trong một nửa-thế-giới lơ lửng giữa hai thượng tầng kiến trúc, một là tự thể hiện và một là tự hủy hoại. Cậu mạnh, nhưng có một chỗ yếu trong cái mạnh của cậu, và trừ phi cậu biết cách khống chế nó, bằng không thì cái yếu đó sẽ tỏ ra mạnh hơn cái mạnh của cậu và đánh bại cậu. Chỗ yếu nào ư? Phản ứng cảm tính bùng nổ vượt ra khỏi mọi tỷ lệ hễ khi nào có dịp. Tại sao? Tại sao lại giận dữ vô lý khi thấy kẻ khác hạnh phúc hay hài lòng, lại càng ngày càng ác cảm đối với người khác và ham muốn xúc phạm họ? Đúng, cậu nghĩ họ là điên rồ cả, cậu khinh họ vì tinh thần của họ, hạnh phúc của họ là nguồn gốc nỗi thất vọng và phẫn uất của cậu. Nhưng đó là những kẻ thù đáng sợ cậu mang ngay ở trong cậu - đến lúc chúng sẽ phá toang như những viên đạn. May sao, viên đạn giết chết nạn nhân của nó. Cái vi khuẩn khác này, được phép sống bền lâu, lại không giết người mà để lại đằng sau nó cái đống thù lù của một kiếp sống rách tơi vẹo vọ; vẫn còn ngọn lửa trong hắn nhưng ngọn lửa đó được nuôi giữ bằng cách chất vào những nòm củi của miệt thị và căm thù. Hắn có thể tích lũy thành công tiền tài, nhưng không tích lũy được thành đạt, vì hắn là kẻ thù của chính hắn và hắn bị kìm giữ nên không thể thực sự được hưởng thụ thành tựu của mình.”
Phởn chí vì được là đối tượng của lời giáo huấn này, Perry đưa nó cho Dick đọc, kẻ vẫn thường nhìn Willie-Jay bằng cái nhìn chê bai dè bỉu. Dick gọi bức thư đó “không gì khác hơn là nhảm nhí,” rồi nói thêm, “Những nòm củi của miệt thị! Chính hắn mới là thứ củi nòm.” Dĩ nhiên Perry đã chờ đợi phản ứng này, và trong thâm tâm hắn hoan nghênh phản ứng đó, bởi vì tình bạn với Dick, người mà hắn chỉ biết sơ sơ cho tới mấy tháng cuối cùng ít ỏi ở Lansing, là một sản phẩm tự nhiên và là đối trọng cho việc hắn ngưỡng mộ mãnh liệt gã giúp việc cha xứ. Có thể Dick đúng là “nông cạn” hay thậm chí, như Willie-Jay nói, “một kẻ huênh hoang xấu xa”. Song dẫu gì thì Dick cũng hết sức ngộ nghĩnh, và sắc bén, một tay thực tế, Dick luôn “sấn thẳng vào mọi thứ”, đầu óc Dick không mập mờ hoặc vướng víu một cái gì. Hơn thế, không giống Willie-Jay, hắn không phê phán những khát vọng quái lạ của Perry; Dick sẵn sàng nghe, bắt lửa, chia sẻ với Perry các viễn cảnh về “kho vàng có bảo đảm” ẩn náu dưới đáy biển Mexico, trong các dải rừng già Brazil.
Sau khi Perry được tha theo lời hứa không tái phạm, bốn tháng đã trôi qua, bốn tháng long lên xồng xộc trên chiếc xe Ford năm đời chủ giá trăm đô la, đi từ Reno tới Las Vegas, từ Bellingham, Washington tới Buhl, Idaho, và chính ở Buhl, nơi hắn đang tạm thời làm tài xế xe tải thì thư của Dick tới: “Bạn P., Đã ra hồi tháng Tám, sau khi cậu đi, gặp một người, cậu không biết hắn đâu, nhưng hắn đã cho tớ Một Cái mà cánh ta có thể lấy ra được cái sự Đẹp. Một cái chắc nịch, trúng quả Hoàn Hảo nhá...” Cho tới lúc đó Perry vẫn không hề nghĩ sẽ gặp lại Dick. Hoặc Willie-Jay. Nhưng cả hai đều luôn luôn ở trong tâm trí hắn, đặc biệt là Willie-Jay, kẻ mà trong ký ức đã cao vọt thành những ba mét, một kẻ khôn ngoan đầu bạc ám ảnh các hành lang tâm trí hắn. “Cậu theo đuổi cái phủ định,” Willie-Jay trong một phen dạy dỗ đã bảo hắn như vậy. “Cậu không muốn coi ai ra cái chó gì, cậu muốn tồn tại vô trách nhiệm, không có lòng tin hoặc bạn bè hoặc sự đầm ấm.”
Trong các cuộc đi lang thang mới đây của hắn, đơn độc, thiếu thốn tiện nghi, Perry đã không ngừng suy đi xét lại lời buộc tội này và hắn quả quyết rằng nó không đúng. Hắn thì chẳng coi ai ra cái chó gì - nhưng đã có ai coi hắn ra cái chó gì chưa? Bố hắn? Có, đến lúc nào đấy. Một hay hai cô gái - nhưng đó là “chuyện dài dài”. Không có ai khác ngoài chính Willie-Jay. Và chỉ có Willie-Jay mới nhận chân được giá trị của hắn, tiềm năng của hắn, mới thừa nhận hắn không chỉ là kẻ nhiều cơ bắp, thiếu não và thiếu cỡ, và dẫu cho bao nhiêu lên lớp bảo ban, vẫn đã nhìn hắn như nhìn bản thân mình - là “lệ ngoại”, “hiếm thấy”, “nghệ sĩ”. Tính phù phiếm của hắn tìm thấy sự nâng đỡ ở Willie-Jay, tính đa cảm của hắn thì tìm thấy nơi ẩn náu, và chuyến lưu đày bốn tháng phải rời xa sự đánh giá cao tột này khiến nó lại càng hấp dẫn hơn bất cứ giấc mơ nào về kho vàng bị chôn vùi. Cho nên khi hắn nhận được lời mời của Dick, và nhận thấy ngày giờ Dick đề nghị hắn đến Kansas ít nhiều trùng với ngày giờ Willie-Jay ra tù, hắn biết hắn phải làm gì. Hắn tới Las Vegas, bán cái xe đồng nát, gói ghém bộ sưu tập những bản đồ, thư từ cũ, bản thảo và sách rồi mua một vé đi xe buýt của Công ty Greyhound. Kết quả chuyến đi là mặc cho số phận; nếu sự thể “không thành với Willie-Jay” thì hắn có thể “xét tới đề nghị của Dick”. Cuối cùng, hóa ra là chọn giữa Dick và chẳng gì hết, vì khi xe buýt của Perry tới Kansas City, tối ngày 12 tháng Mười một, thì Willie-Jay, do không biết hắn đang tới, đã rời thị trấn rồi - thực ra là trước đó năm giờ đồng hồ, tại chính cái trạm cuối mà tuyến xe Perry đến. Hắn biết được vậy là nhờ gọi dây nói cho Cha Post, Cha đã làm hắn nản vì từ chối cho hắn biết nơi Willie-Jay đến. Cha chỉ nói: “Anh ấy đi về miền Đông. Đến với những cơ hội tốt đẹp. Một việc làm tử tế, một căn nhà với vài người tốt bụng sẵn sàng giúp đỡ anh ấy.” Móc lại ống nghe, Perry cảm thấy “choáng váng vì giận và thất vọng”.
Nhưng thật ra hắn mong đợi cái gì ở việc gặp lại Willie-Jay kia chứ? Hắn nghĩ khi cơn giận đã tiêu tan. Tự do đã chia cách họ; là những người tự do, họ chẳng có gì chung, là đối lập, chẳng bao giờ có thể thành “đội” được - và chắc chắn không phải là cái đội có thể dấn vào những cuộc mạo hiểm nhào sâu xuống tít tận biên giới phía Nam mà hắn và Dick đang mưu làm. Dù vậy, giá hắn không lỡ mất Willie-Jay, giá hai người có thể ở với nhau dù chỉ một giờ thì Perry hoàn toàn tin - đúng ra là “biết” - rằng bây giờ hắn đã không phải đang lờn vờn ở bên ngoài một bệnh viện chờ Dick thò ra với đôi bít tất dài đen.
Dick trở ra tay không. “Không ăn thua,” hắn báo tin, với một vẻ lờ phờ thoáng qua, khiến Perry nghi ngờ.
“Cậu có chắc không? Chắc là cậu đã hỏi chứ?”
“Chắc.”
“Tớ không tin cậu. Tớ nghĩ cậu vào đó, loanh quanh vài phút rồi ra.”
“O.K., được, bồ ơi, muốn nói gì cũng được mà,” Dick mở máy xe. Sau một lát đi trong im lặng. Dick đập vào đầu gối Perry, “Ê, này,” hắn nói. “Cái ý ấy thối lắm. Họ sẽ nghĩ cái chó gì kia chứ? Tớ mà lại cho chân vào đó cứ như đấy là cửa hàng tạp hóa vậy...”
Perry nói, “Có thể đúng. Bọn nữ tu sĩ là một lũ xúi quẩy.”
Người đại diện của sở Bảo hiểm Nhân thọ New York tại Garden City mỉm cười khi nhìn ông Clutter mở nắp cây bút Parker và giở tập ngân phiếu. Ông nhớ tới một câu đùa ở địa phương này: “Biết họ nói gì về ông không, Herb? Họ nói ‘Vì giá cắt tóc tăng lên một đô rưỡi, Herb bèn viết séc cho ông thợ cắt tóc’.”
“Đúng thế đấy,” ông Clutter đáp. Về các khoản thù lao, ông nổi tiếng là người không bao giờ trả tiền mặt. “Đó là cách tôi làm ăn. Khi các vị sở Thuế đến mà hạch hỏi thì những tấm séc đã trả là người bạn tốt nhất của ông đấy.”
Cầm những tấm séc đã viết nhưng chưa ký, ông ngả người vào ghế bàn giấy và hình như suy nghĩ. Nhân viên bảo hiểm, một người ngũ đoản, có phần nào hói, tác phong khá thoải mái, tên gọi là Bob Johnson, hy vọng người khách của mình không phải đang phân vân nghi ngờ vào phút chót. Herb ương bướng, một người chậm chạp trong việc đưa ra quyết định; Johnson đã cày cục hơn một năm để cố giải quyết cho xong vụ mua bán này. Nhưng không, thân chủ của ông đang trải qua cái mà ông gọi là Thời điểm Trọng thể - một hiện tượng quen thuộc với dân đại lý bảo hiểm. Tâm lý người đang cho bảo hiểm tính mạng mình không giống với tâm lý người đang ký chúc thư; chắc hẳn là họ phải nảy ra ý nghĩ về cái chết.
“Vâng, vâng,” ông Clutter nói, tựa như nói với chính mình. “Tôi chịu ơn nhiều cái lắm, những điều tuyệt đẹp trong đời tôi.” Các tài liệu đóng khung đánh dấu những mốc quan trọng trong sự nghiệp của ông loang loáng trên nền các bức tường bằng gỗ hồ đào trong phòng làm việc: một bằng tốt nghiệp cao đẳng, một bản đồ Trại Lũng Sông, những phần thưởng nông nghiệp, một bằng chứng nhận có trang hoàng mang chữ ký của Dwight D. Eisenhower và John Foster Dulles[4] tuyên dương những đóng góp của ông cho Sở Tín dụng Nông trại Liên bang. “Rồi lũ trẻ con. Chúng tôi được may mắn ở đây. Tuy chẳng nên nói ra nhưng phải nói là tôi thật sự tự hào về chúng. Như Kenyon chẳng hạn. Ngay từ bây giờ nó đã thiên về làm kỹ sư hay nhà khoa học, nhưng mà ông ơi, ông không thể bảo tôi rằng con tôi không phải là một chủ trại bẩm sinh đâu nhé. Chúa muốn là một ngày nào đó nó sẽ cai quản chỗ này. Ông chưa gặp chồng Eveanna bao giờ nhỉ? Don Jarchow ấy? Bác sĩ thú y. Tôi không thể cho ông biết tôi nghĩ tới cái cậu này nhiều như thế nào. Vere cũng thế. Vere English - cái cậu mà Beverly, con gái tôi đã khôn ngoan chọn dựa vào ấy. Nếu có gì xảy ra với tôi, tôi tin chắc là chúng sẽ gánh vác được trách nhiệm; một mình Bonnie - Bonnie không có khả năng làm công việc như thế này…”
Là một tay lỗi đời, Johnson biết đã đến lúc phải xen vào. “Sao cơ chứ, Herb,” ông nói. “Ông còn trẻ. Bốn mươi tám mà. Xem thần sắc diện mạo ông, coi kết quả kiểm tra sức khỏe thì có vẻ ông còn khoảng hai tuần gì đó nữa cơ mà.”
Ông Clutter ngồi thẳng dậy, với lấy cây bút: “Thật thà mà nói, tôi cảm thấy rất khỏe. Và rất lạc quan. Tôi nghĩ là một người trong vòng vài năm tới có thể làm ra tiền thật sự ở đây.” Trong khi phác ra những dự định cho việc cải thiện tài chính mai đây, ông ký vào tấm séc rồi đẩy nó sang bên kia bàn.
Lúc đó sáu giờ mười, viên đại lý bảo hiểm bồn chồn muốn đi; có thể là vợ ông đang chờ ông về ăn tối. “Rất vui được gặp ông, Herb.”
“Tôi cũng vậy, ông bạn.”
Họ bắt tay nhau. Rồi với một cảm giác chiến thắng xứng đáng, Johnson nhặt tấm ngân phiếu của ông Clutter lên cất vào trong ví. Đó là khoản nộp đầu tiên cho một món bảo hiểm bốn chục nghìn đô la mà trong trường hợp tử vong bởi tai nạn, sự cố, thân chủ sẽ được bồi thường gấp đôi.
“Và chàng bước bên tôi, chàng nói chuyện với tôi,
Chàng bảo tôi là của chàng,
Và niềm vui mà chúng tôi chia sẻ với nhau trong khi lần lữa ở đây,
Chẳng một ai khác từng được hưởng...”
Với cây ghi ta, Perry hát đưa mình vào tâm trạng vui hơn. Hắn thuộc lời khoảng hai trăm bài tụng ca và ballad - các bài từ “Cây Thánh giá xù xì” đến Cole Porter - và ngoài ghi ta hắn còn chơi được harmonica, phong cầm, đàn banjo và kèn xylophone. Trong một tiết mục sân khẩu quái dị ưa chuộng của hắn, hắn lấy tên diễn xuất là Perry O’Parsons, một ngôi sao tự phong là “Dàn Giao hưởng Một Người.”
Dick nói: “Một chầu cốc tai có sao không?”
Riêng hắn, Perry không quan tâm tới chuyện hắn uống gì, vì hắn không phải là dân sành nhậu lắm. Dick trái lại rất kén chọn, trong các quán bar hắn thường chọn Mùa Cam Rộ - Orange Blossom. Perry lấy ở trong túi cửa xe ra một chai nửa lít đựng một thứ pha sẵn rượu vodka và rượu mùi vị cam. Họ uống bằng cách chuyền tay chai rượu. Tuy hoàng hôn đã xuống, nhưng Dick vẫn phóng tới sáu chục dặm một giờ mà không bật đèn. Được cái lúc này đường thẳng và đồng quê thì phẳng như mặt hồ, các xe khác hiếm hoi mới trông thấy. Đây là chốn “đồng không mông quạnh” hay cũng gần như vậy.
“Lạy Chúa!” Perry nói, ngắm nhìn phong cảnh phẳng lì và vô tận dưới màu xanh lạnh rơi rớt của vòm trời - trống không và cô quạnh trừ những ánh sáng nhấp nháy của các trại rải rác phía xa xa. Hắn ghét cảnh này, như hắn ghét những đồng bằng bang Texas, sa mạc Nevada; những khoảng không nằm ngang và dân cư thưa thớt luôn luôn gây ra cho hắn một cơn suy sụp thần kinh kèm theo cảm giác sợ đám đông. Cảng biển là niềm vui tưng bừng của hắn - những thành phố sực mùi cống rãnh, san sát tàu bè, rộn rã lanh lảnh, đông nghịt, như Yokohama, nơi hắn đã qua một mùa hè khi hắn là tên lính bét của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. “Lạy Chúa! Thế mà chúng lại bảo tôi không được bén mảng đến Kansas đấy! Không bao giờ đặt lại bàn chân xinh đẹp của tôi đến đây nữa. Cứ như chúng đang cấm cửa không cho tôi vào thiên đường ấy. Thì hãy cứ nhìn xem đi. Đúng là bữa tiệc mắt.”
Dick đưa cho hắn chai rượu còn có một nửa. “Để dành chỗ này đấy,” Dick nói, “Chúng ta có thể cần đến.”
“Nhớ không, Dick? Về việc lấy một con tàu ấy? Tớ đang nghĩ. Ta có thể mua ở Mexico. Một cái rẻ nhưng cứng cáp. Và ta có thể đi tới Nhật Bản. Dong thẳng tuốt qua Thái Bình Dương. Việc ấy đã có người làm - hàng nghìn người làm rồi. Tớ không trêu chọc cậu đâu, Dick - cậu nên đi Nhật. Tuyệt vời, con người đáng yêu, cung cách điệu bộ cứ như hoa. Thật sự ý tứ. Rồi thì đàn bà. Cậu chưa bao giờ gặp được một người đàn bà thật sự...”
“Có, gặp rồi,” Dick nói, hắn đã tuyên bố vẫn còn mê người vợ đầu tiên tóc vàng mật ong tuy ả đã lấy chồng khác.
“Những nhà tắm nữa chứ. Một chỗ tên là Biển Mơ. Cậu nằm thẳng cẳng ra, và một cô gái đẹp, cái kiểu đẹp đánh-gục-liền ấy, sẽ đến kỳ cọ cho cậu từ đầu đến ngón chân.”
“Cậu đã kể rồi,” giọng Dick cộc lốc.
“Thì sao? Tớ không được nói lại cho tớ nghe hay sao?”
“Để sau. Ta nói chuyện đó sau. Chó thật, anh bạn, đầu tớ đang bề bộn trăm thứ đầy.”
Dick mở máy thu thanh; Perry tắt nó đi. Không màng tới việc Dick cự nự, hắn gảy cây ghi ta:
“Anh đến khu vườn một mình, trong khi sương còn trên những bông hồng,
Và tiếng nói anh nghe, rơi vào tai anh,
Là Con của Thượng đế vén mở ra cho...”
Ở đầu chân trời, một vầng trăng đầy đặn đang thành hình.
Thứ Hai tiếp theo, trong lúc đưa ra bằng chứng trước khi qua một cuộc kiểm tra phát hiện nói dối, cậu Bobby Rupp trẻ tuổi tả lại lần cuối cùng đến thăm nhà Clutter: “Đang giữa tuần trăng tròn, tôi nghĩ, nếu như Nancy muốn, chúng tôi có thể lái xe đi chơi - ra hồ McKinney. Hoặc đi xem xi nê ở Garden City. Nhưng khi tôi gọi Nancy - chắc vào khoảng bảy giờ mười - thì Nancy nói phải hỏi bố đã. Rồi cô ấy quay lại cho biết bố không bằng lòng - vì đêm trước chúng tôi đi chơi quá khuya. Nhưng cô ấy bảo tôi sao lại không vào mà xem ti vi. Tôi đã xem ti vi ở nhà Clutter một hồi lâu. Các ông thấy đó, Nancy là cô gái duy nhất tôi từng hẹn hò. Tôi quen biết cô ấy cả đời rồi; chúng tôi đi học cùng nhau từ lớp Một. Theo như tôi nhớ thì Nancy xinh đẹp và được nhiều người yêu mến - một nhân vật, ngay cả khi còn rất bé. Ý tôi muốn nói là chính Nancy làm cho mọi người đều cảm thấy tốt đẹp khi nghĩ về chính bản thân mình. Lần đầu tiên tôi hẹn Nancy đi chơi là khi chúng tôi học lớp Tám. Phần đông đám con trai ở lớp tôi đều muốn đưa Nancy đi dự buổi khiêu vũ nhân lễ tốt nghiệp lớp Tám, và tôi ngạc nhiên - tôi hết sức tự hào - khi Nancy nói là sẽ đi với tôi. Cả hai chúng tôi hồi đó mười hai tuổi. Bố tôi cho mượn xe và tôi lái xe đưa Nancy đi khiêu vũ. Càng gặp tôi càng mến Nancy; mến cả gia đình nữa - không có gia đình nào khác giống gia đình ấy đâu, quanh đây không, mà mọi gia đình tôi biết cũng không. Ông Clutter có thể nghiêm khắc về một số việc - tôn giáo chẳng hạn - nhưng ông ấy không bao giờ cố ý làm cho người khác cảm thấy mình sai còn ông ấy đúng.
Chúng tôi sống cách nhà Clutter ba dặm về phía Tây. Tôi đã quen đi bộ tới lui đó, nhưng hè nào tôi cũng làm việc nên năm ngoái đã dành được đủ tiền mua chiếc xe riêng, một chiếc Ford đời 1955. Cho nên tôi lái xe tới đó, sau bảy giờ một chút. Tôi không thấy ai trên đường hoặc trên lối đi nhỏ dẫn vào nhà, ở bên ngoài cũng không. Chỉ gặp con Teddy già nua thôi. Nó sủa tôi. Tầng dưới có ánh đèn - cả ở phòng khách và phòng làm việc của ông Clutter nữa. Tầng ba tối om, tôi nghĩ chắc bà Clutter đã ngủ - nếu như bà có nhà. Các ông không bao giờ biết được bà ấy có nhà hay không, mà tôi cũng không bao giờ hỏi. Nhưng tôi nhận ra mình đoán đúng, bởi vì lúc chiều tối Kenyon muốn tập kèn, cậu ấy chơi kèn baritone trong ban nhạc ở trường, nhưng Nancy bảo cậu ấy đừng tập vì e sẽ làm bà Clutter thức giấc. Dẫu sao, khi tôi đến nhà ấy đã ăn tối xong. Nancy đã dọn bàn, để bát đĩa vào máy rửa, còn ba người - hai người con và ông Clutter - thì ở trong phòng khách. Thế là chúng tôi ngồi với nhau như mọi tối khác - Nancy và tôi trên đi văng, ông Clutter trên chỗ của ông, chiếc xích đu có đệm. Ông không xem ti vi nhiều lắm - ông đang đọc sách Chàng hướng đạo sinh, một quyển sách của Kenyon. Có lúc ông vào bếp rồi ra với hai quả táo; ông cho tôi một quả nhưng tôi không muốn ăn nên ông lại ăn cả hai. Răng ông ấy rất trắng; ông ấy bảo vì ăn táo. Nancy mang bít tất ngắn với giày mềm đi trong nhà, mặc quần jeans màu lam, áo thì chắc là một chiếc áo ba lỗ màu xanh lá cây; cô ấy đeo chiếc đồng hồ vàng và cái lắc tôi tặng dạo tháng Giêng vừa rồi nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ mười sáu của cô ấy - trên lắc một mặt có tên cô ấy, còn mặt kia là tên tôi - cô ấy đeo một chiếc nhẫn, một chiếc nhẫn bạc be bé mua dạo hè năm ngoái, khi cô ấy đi Colorado với nhà Kidwell. Đó không phải là cái nhẫn của tôi - mà là nhẫn của chúng tôi. Hai tuần trước Nancy giận tôi, cô ấy bảo là sẽ tháo cái nhẫn ra ít lâu. Khi bạn gái của mình làm thế thì có nghĩa là mình đang bị thử thách. Tôi muốn nói, chúng tôi đúng là đang có xích mích - đôi nào cũng từng thế cả. Chuyện là tôi đến ăn cưới ở nhà một người bạn và uống bia, một chai bia, và Nancy nghe được. Một cậu hớt lẻo nào đó đã bảo Nancy rằng tôi say rượu. Thế là cô ấy lạnh như tiền ngay, không chào hỏi suốt cả tuần lễ. Nhưng sau đó chúng tôi lại vui vẻ với nhau như cũ, và tôi tin rằng Nancy sắp sửa lại đeo chiếc nhẫn của chúng tôi.
O.K. Chương trình đầu tiên gọi là ‘Con người và Thử thách’. Kênh 11. Về một số người ở Bắc Cực. Rồi chúng tôi xem một phim Viễn Tây, và sau đó một phim về gián điệp - Năm ngón. Mike Hammer lúc chín rưỡi. Rồi đến tin tức. Nhưng Kenyon chẳng thiết cái gì, chủ yếu vì chúng tôi không để cậu ấy chọn chương trình. Cậu ấy chê tất còn Nancy thì cứ bảo cậu ấy im đi. Họ hay quạc nhau nhưng họ thật sự thân nhau, thân hơn phần lớn anh chị em người ta. Tôi nghĩ là vì có phần nào họ bị đơn độc cùng nhau, bà Clutter ở xa còn ông Clutter thì đi Washington hay một nơi nào đó. Tôi biết Nancy đặc biệt rất yêu cậu em trai nhưng tôi nghĩ ngay cả cô ấy hay bất kỳ ai cũng không hiểu rõ cậu ấy. Cậu ấy hình như lơ tơ mơ ở đâu ấy. Ông không bao giờ biết cậu ấy đang nghĩ gì, thậm chí không bao giờ biết liệu cậu ấy có đang nhìn ông không - do là cậu ấy hơi có tí gàn gàn. Một vài người nói cậu ấy là thiên tài, và có lẽ đúng thế thật. Chắc chắn là cậu ấy đọc nhiều. Nhưng như tôi nói, cậu ấy không yên vị, cậu ấy không thích xem ti vi, mà muốn tập kèn, và khi Nancy không cho tập thì tôi nhớ ông Clutter bảo cậu ấy sao không xuống tầng hầm, phòng giải trí, ở đấy chẳng còn ai nghe thấy cậu ấy được. Nhưng cậu ấy cũng không thích xuống.
Điện thoại réo một lần. Hay hai nhỉ? Quỷ thật, tôi không nhớ được. Trừ cái lần nó réo và ông Clutter trả lời trong phòng làm việc. Cửa mở - cái cửa lùa ở giữa phòng khách và phòng làm việc - và nghe ông ấy nói ‘Van’, thế là tôi biết ông ấy đang nói với người thư ký, ông Van Vleet, tôi nghe ông ấy nói bị nhức đầu nhưng nay đã khá hơn rồi. Rồi bảo sẽ gặp ông Van Vleet vào thứ Hai. Khi ông Clutter trở lại - vâng, thì vừa lúc hết Mike Hammer. Năm phút tin tức. Rồi dự báo thời tiết. Tin dự báo thời tiết bắt đầu là ông Clutter lúc nào cũng hồ hởi hẳn lên. Đó là tất cả những gì ông ấy thật sự chờ. Giống như cái duy nhất tôi thích là thể thao - món đến tiếp theo sau. Hết thể thao thì đã mười giờ rưỡi, tôi đứng dậy. Nancy tiễn tôi ra ngoài. Chúng tôi nói chuyện một lúc rồi hẹn gặp nhau đi xem xi nê tối Chủ nhật - một bộ phim tất cả đám con gái đều đang ngóng chờ, Vải bò màu lam. Rồi Nancy chạy về nhà, còn tôi lái xe đi. Trời sáng như ban ngày - trăng vằng vặc - rét và có gió, nhiều lá bạch dương bay tứ tung. Nhưng đó là tất cả những gì tôi đã thấy. Chỉ bây giờ khi nghĩ lại, tôi mới đoán chắc là có ai đã nấp ở đó. Có thể là ở bên dưới, giữa đám cây cối. Một ai đó chỉ chờ tôi rời đi.”
Hai người đỗ lại ăn tối ở một khách sạn tại Vòng Quẹo Lớn. Còn xoẳn năm chục đô la cuối cùng, Perry bằng lòng với bia và bánh kẹp thịt, nhưng Dick bảo không, chúng cần một “trận nhồi” đẫy bụng và thây kệ giá cả, hắn chi. Họ gọi hai miếng bít tết cỡ vừa, tái, khoai tây nướng, thịt rán kiểu Pháp, hành rán, ngô đậu, hai đĩa mì macaroni và cháo ngô, xa lát trộn dầu dấm Thousand Island, bánh quế, bánh táo và kem ly rồi cà phê. Để kết thúc bữa ăn, họ vào một hiệu thuốc chọn mấy điếu xì gà; cũng tại đó, họ mua hai cuộn băng dính dày cộp.
Khi chiếc Chevrolet đen trở lại xa lộ và lao gấp qua một vùng đồng quê lên cao dần đến nơi khí hậu lạnh hơn, khô nẻ hơn của bình nguyên lúa mì, Perry nhắm mắt chập chờn trôi vào giấc nửa thức nửa ngủ, mụ mị vì quá no nê, hắn bừng tỉnh khi nghe thấy tiếng bản tin mười một giờ. Hắn hạ kính cửa xe xuống, giằm mặt vào trong luồng khí lạnh ngắt. Dick bảo hắn là chúng đang ở hạt Finney. “Ta đã đi quá ranh giới hạt mười dặm rồi,” hắn nói. Xe phóng rất nhanh. Những bảng hiệu, thông điệp của chúng sáng lên trong ánh đèn xe, lóa rực, bay vút qua: “Hãy xem Gấu Bắc Cực”, “Xe hơi Burris”, “Bể bơi KHÔNG MẤT TIỀN lớn nhất thế giới”, “Khách sạn mini Wheat Lands” và cuối cùng, một lát trước khi bắt đầu có đèn đường phố, “Kìa, vị khách lạ! Hoan nghênh đến Garden City. Một nơi hữu hảo!”
Họ đi vòng rìa phía Bắc thị trấn. Không ai ở bên ngoài vào cái giờ gần nửa đêm này, và chẳng đâu mở cửa trừ một chuỗi trạm xăng sáng trưng kỳ lạ. Dick quẹo vào một trạm ở Hurd’s Phillips 66. Một thanh niên hiện ra hỏi, “Đổ đầy?” Dick gật đầu, còn Perry ra khỏi xe, vào trong trạm, vào phòng vệ sinh đàn ông khóa trái cửa lại. Chân hắn đau như thường vẫn thế; đau tưởng chừng tai nạn cũ chỉ vừa mới xảy ra trước đó năm phút. Hắn lắc ba viên aspirin ra khỏi một cái lọ, nhai thong thả (vì hắn ưa vị thuốc) rồi uống nước ở vòi bồn rửa tay. Hắn ngồi xuống bệ xí, duỗi hai chân ra, xoa bóp, nắn hai cái đầu gối gần như không thể co lại đươc Dick đã nói chúng gần đến nơi rồi - “hơn bảy dặm nữa thôi.” Hắn kéo khóa mở túi chiếc áo gió lôi ra một túi giấy; trong đó có đôi găng cao su vừa mua. Chúng được phủ cồn dán, dính và mỏng, khi hắn xỏ tay vào thì một cái bị rách - không rách nguy hiểm, chỉ là một vết bung ở giữa các ngón, nhưng với hắn, xem chừng đó lại là một điềm gở.
Núm cửa xoay, kêu lạch cạch, Dick nói, “Có muốn kẹo không? Có cái máy bán kẹo ngoài kia đấy.”
“Không.”
“Cậu OK chứ?”
“Tốt.”
“Đừng có ở suốt đêm đấy.”
Dick bỏ đồng tiền vào một cái máy bán hàng, kéo cần gạt và nhặt lên một gói kẹo dẻo tròn như hạt đậu; vừa nhằn kẹo vừa nhẩn nha trở lại xe, đứng uể oải nhìn người thanh niên trạm xăng có lau cho tấm kính chắn gió sạch hết bụi bặm Kansas và xác những con côn trùng bị đập nát. Người thanh niên tên là James Spor, cảm thấy không thoải mái. Hai con mắt, vẻ mặt sưng sỉa của Dick cùng việc Perry nán lại trong phòng vệ sinh lâu một cách khác thường làm cho anh không yên. (Hôm sau anh bảo ông chủ, “Đêm qua ở đây ta có mấy tay khách dữ dằn,” nhưng lúc ấy, mà cả mãi về sau, anh không nghĩ đến chuyện gắn nó với tấn thảm kịch ở Holcomb).
Dick nói, “Quanh đây tà tà nhỉ.”
“Chắc rồi,” James Spor nói. “Ông là người duy nhất dừng lại ở đây hai tiếng vừa qua. Ông đâu đến?”
“Kansas City.”
“Săn ở đây à?”
“Ghé qua thôi. Trên đường đi Arizona. Chúng tôi có việc chờ ở đó. Công việc xây dựng. Có biết từ đây tới Tucumcari, New Mexico bao xa không?”
“Không thể nói là tôi biết. Ba đô sáu xu.” Anh nhận tiền của Dick, trả lại tiền lẻ và nói, “Ông thứ lỗi cho tôi chứ? Tôi đang dở việc. Lắp cái giảm xóc lên xe tải.”
Dick chờ, ăn vài cái kẹo dẻo hạt đậu, sốt ruột rồ máy, bấm còi. Có thể hắn đã đánh giá sai tính cách Perry chăng? Cái thằng Perry, trong cả lũ, đang lên một cơn “sôi máu” thình lình chăng? Một năm trước, khi gặp nhau lần đầu tiên, hắn đã nghĩ Perry là “một tên tử tế” - nếu không có lúc hơi “phét lác về mình”, “đa sầu đa cảm” và “quá ư mơ mộng”. Hắn mến nhưng không coi Perry là một cái gì đáng vun đắp đặc biệt, cho đến hôm Perry tả lại một vụ giết người, kể lại đơn giản rằng “chẳng vì cái khỉ gì” mà hắn đã giết một người da màu như thế nào ở Las Vegas - đánh cho đến chết bằng một cái xích xe đạp. Câu chuyện nâng cái nhìn của hắn về Perry Bé Bỏng lên; hắn bắt đầu nhìn thấy nhiều cái hơn ở Perry, và, giống như Willie-Jay, tuy vì những lý do khác nhau, dần dần hắn quả quyết rằng Perry có những phẩm chất khác thường và đắt giá. Nhiều kẻ sát nhân, hoặc những kẻ khoe từng giết người hoặc có ý muốn giết người đã đi vào Lansing; nhưng Dick bắt đầu đinh ninh rằng Perry chính là của hiếm kia, “một tên sát nhân thiên bẩm” - tuyệt đối lành mạnh, nhưng vô ý thức, có khả năng làm nên những án mạng lì lợm nhất, không chút ghê tay, có hoặc không có động cơ gì hết. Lý thuyết của Dick là một năng khiếu như thế có thể được khai thác có lợi, dưới sự xét duyệt của hắn. Đi tới kết luận này, hắn đã giở trò tán Perry, phỉnh hắn - chẳng hạn nói rằng mình tin tất cả mấy cái chuyện kho tàng chôn giấu, chia sẻ khát vọng sục tìm bờ biển và niềm thích thú cảng biển, những cái chẳng hề hấp dẫn Dick, Dick mong muốn “một cuộc sống chỉn chu có công ăn việc làm, một ngôi nhà, một con ngựa để cưỡi, một chiếc xe hơi mới và “nhiều nhiều bồ nhí tóc vàng”. Nhưng quan trọng là Perry không nghi ngờ điều đó - không nghi ngờ cho đến khi sau này, với năng khiếu của mình, Perry đã giúp tham vọng của Dick thành sự thật. Nhưng có lẽ chính Dick đã tính sai, đã bị lừa; nếu thế - nếu rốt cuộc Perry chỉ là “một tên du côn tầm thường” - thì “cuộc kết bè” sẽ chấm dứt, những tháng bày mưu tính kế coi như mất toi, chẳng còn gì để làm ngoài việc quay gót chuồn. Cái đó chắc không xảy ra; Dick quay lại trạm xăng.
Cửa nhà vệ sinh đàn ông vẫn cài chặt. Hắn đập mạnh: “Nhân danh Chúa, Perry ơi!”
“Một phút nữa.”
“Sao vậy? Cậu ốm à?”
Perry bám lấy gờ chậu rửa kéo mình đứng lên. Chân hắn run rẩy; chỗ đầu gối đau làm hắn toát cả mồ hôi. Hắn lau mặt bằng giấy vệ sinh. Hắn mở chốt cửa rồi nói, “O.K. Nào, đi!”
Phòng ngủ của Nancy là phòng bé nhất, có sắc thái nhất trong nhà - có dáng vẻ con gái, nhẹ bay như váy ngắn vũ nữ ba lê. Tường, trần và mọi thứ khác, trừ một bàn giấy và một bàn viết, đều màu hồng, lam hoặc trắng. Cái giường trắng và hồng, xếp những gối lam, bị một con gấu bông lớn màu hồng và trắng chế ngự - một giải thưởng mà Bobby giật được ở chợ phiên hạt trong trò chơi bắn súng. Một bảng tin bằng gỗ bần, sơn hồng, treo trên một bàn phấn viền trắng; những bông hoa dành dành khô, thứ sót lại của vài nhành hoa gài trên ngực áo, được buộc vào đó, rồi thì những thiệp cũ, mẩu báo cắt, các ảnh chụp thằng cháu bé và Susan Kidwell, Bobby Rupp, Bobby chụp khi đang làm hàng chục hành động - vung gậy bóng chày, rê bóng rổ, lái máy kéo, lội sông, mặc quần tắm ở đầu hồ McKinney (ra xa hết mức cậu ta dám, vì cậu ta không biết bơi). Có cả ảnh cô và Bobby chụp chung. Trong đó, cô thích nhất bức chụp hai người ngồi trong ánh sáng loang lổ bóng lá cây giữa những thứ còn lại của bữa picnic và nhìn nhau với cái vẻ như đùa cợt đầy thú vị, tuy không cười. Các ảnh khác chụp những con ngựa con mèo nay đã chết nhưng không bị lãng quên - như “Boobs tội nghiệp”, chết mới đây và một cách bí ẩn nhất (cô ngờ là bị đánh bả), để ngập bàn làm việc của cô.
Nancy bao giờ cũng là người cuối cùng trong nhà đi nghỉ; như cô đã có lần nói với người bạn và là cô giáo dạy nữ công, bà Polly Stringer, những giờ nửa đêm là “thì giờ dành cho một mình em và vô dụng”. Lúc đó cô mới đi cho hết cái lệ bộ giữ gìn sắc đẹp, nghi thức tẩy da, thoa kem, vào tối thứ Bảy thì còn thêm cả gội đầu, Đêm nay, sấy khô và chải mượt tóc, buộc tóc vào một băng vải ga mỏng xong, cô lấy ra quần áo cô định mặc đi nhà thờ sáng hôm sau: tất ni lông, giày đen, một chiếc váy bằng vải nhung đỏ - cái váy cô thích nhất vì chính cô may lấy. Đó là cái váy cô mặc lúc đem chôn.
Trước khi đọc kinh, cô luôn ghi vào nhật ký ít việc xảy ra (“Mùa hè đây rồi. Mãi mãi, tôi hy vọng. Susan đến và chúng tôi cưỡi con Babe xuống sông. Susan thổi sáo, Đom đóm”) và một sự bộc phát hãn hữu (“Tôi yêu anh ấy, yêu”). Đó là một quyển nhật ký ghi suốt năm năm trời; trong bốn năm của cuộc đời nó không ngày nào cô quên ghi, tuy mức huy hoàng của vài sự kiện (đám cưới Eveanna, ngày sinh đứa cháu trai) và nỗi sầu muộn của những sự kiện khác (“Cuộc cãi cọ đầu tiên THẬT SỰ của cô với Bobby”- một trang đúng là hoen ố nước mắt) đã khiến cô chiếm đoạt mất chỗ vốn dành cho tương lai. Một loại màu mực khác chỉ rõ mỗi năm: 1956 màu lục còn 1957 là một dải băng đỏ, năm sau được thay bằng màu oải hương nhạt, còn giờ, 1959, cô đã quyết định cho nó màu lam trang trọng. Nhưng giống như trong mọi dịp biểu thị, cô vẫn tiếp tục vụng về nắn nót chữ viết, cho nó ngả sang phải hoặc sang trái, cho nó tròn hay nhọn, lòng thòng dính nhau hay có râu móc - tựa như cô đang nói: “Đây là Nancy ư? Hay cái này? Hay cái kia? Cái nào là tôi?” (Một lần bà Riggs, cô giáo tiếng Anh trả lại bài văn của cô với một lời bình bằng chữ tháu: “Tốt. Nhưng tại sao lại viết thành ba kiểu chữ thế này?” Nancy đã trả lời: “Vì em chưa đủ trưởng thành để thành người có kiểu chữ viết riêng.) Tuy nhiên, trong mấy tháng gần đây cô tiến bộ lên dần, cô đã viết những dòng sau đây với nét chữ bắt đầu cho thấy đang dần có sự chững chạc trưởng thành, “Jolene K. đến và tôi đã bảo em làm bánh anh đào như thế nào. Tập nhạc với Roxie. Bobby ở đây và chúng tôi xem ti vi. Về lúc mười một giờ.”
“Đây rồi, đây rồi, phải là nó đây rồi, nhà trường này, gara xe hơi này, bây giờ thì rẽ xuống phía Nam nào.” Với Perry thì tựa như Dick đang lẩm nhẩm những câu thần chú líu ríu. Chúng rời xa lộ, phóng nhanh qua Holcomb vắng ngắt, băng qua đường xe lửa Santa Fe. “Ngân hàng, chắc phải là ngân hàng, bây giờ ta rẽ về phía Tây - thấy mấy cái cây không? Đây, chắc là đây.” Đèn pha xe mở lối giữa những cây du Tàu ở hai bên; những đùm lá ké bị gió thổi rụng hấp tấp lăn ngang qua. Dick tắt đèn xe, đi chậm lại, và dừng cho tới khi mắt hắn đã quen với bóng đêm có trăng chiếu sáng. Lúc này, chiếc xe đang bò lên phía trước.
Holcomb ở cách mười hai dặm về phía Đông của ranh giới múi giờ miền núi, một hoàn cảnh gây ra đôi điều khó chịu rầy rà bởi như thế có nghĩa là vào bảy giờ buổi sáng, còn mùa đông thì vào tám giờ hay muộn hơn, trời vẫn còn tối và sao, nếu có, vẫn còn đang lấp lánh - như chúng đang lấp lánh lúc này khi hai đứa con trai nhà Vic Irsik đến làm tạp dịch sáng Chủ nhật. Nhưng chín giờ, lúc hai đứa đã làm xong việc - khi đang làm chúng không nhận thấy có gì khác thường - thì mặt trời mọc, đem lại một ngày khác nữa của mùa săn trĩ đang kỳ hoàn hảo.
Khi hai đứa rời đò mà chạy trên con đường vào nhà, chúng vẫy một chiếc xe hơi đang đi tới, và một cô gái vẫy trả lại. Cô là bạn học cùng lớp của Nancy Clutter, tên cũng là Nancy - Nancy Ewalt. Cô là con một của người lái chiếc xe, ông Clarence Ewalt, một chủ trại tuổi trung tuần trồng củ cải đường. Ông Ewalt, bản thân không phải là người mộ đạo, vợ ông cũng vậy, nhưng mỗi Chủ nhật ông lại thả con gái xuống Trại Lũng Sông để cô đi cùng với nhà Clutter đến lễ ở nhà thờ Giám lý tại Garden City. Cách thu xếp này tránh cho ông phải “làm hai chuyến đi về thị trấn”. Ông có thói quen chờ cho tới khi con gái đã được nhận vào nhà an toàn. Là cô gái sành ăn mặc với dáng vẻ của ngôi sao màn bạc, một vẻ mặt như người đeo kính cận, nghiêm trang, và kiểu đi lê rón rén ngón chân, Nancy băng qua bãi cỏ và bấm chuông cửa trước. Ngôi nhà có bốn cửa vào, thấy gọi mãi không ai thưa, cô đi sang cửa cạnh đó - cửa vào phòng làm việc của ông Clutter. Ở đây cửa hé mở một phần; cô mở rộng thêm một ít - đủ để biết chắc là phòng làm việc chỉ đầy bóng tối và bóng tối - nhưng cô nghĩ nhà Clutter sẽ không thích lối “nhào thẳng vào” của mình. Cô đập, bấm chuông rồi cuối cùng thì đi vòng ra đằng sau nhà. Gara ở đây, cô để ý thấy cả hai chiếc xe đều ở trong: hai chiếc Chevrolet kiểu du lịch. Điều đó có nghĩa là họ phải ở nhà. Tuy vậy, sau khi bấm chuông cánh cửa thứ ba, cửa dẫn vào “phòng dụng cụ”, và cửa thứ tư, cửa nhà bếp mà vẫn không ăn thua, cô liền quay lại với bố. Bố cô nói, “Có lẽ còn ngủ cả.”
“Nhưng không thể thế được. Bố có hình dung được là bác Clutter mà bỏ lễ nhà thờ không? Chỉ cốt để ngủ thôi ư?”
“Thế thì đi. Chúng ta sẽ xuống Sở Thầy Cô. Susan chắc phải biết có chuyện gì.”
Sở Thầy Cô, đối diện với ngôi trường hiện đại, là một tòa nhà quá thời, buồn tẻ đến nhói lòng. Hai chục phòng có lẻ của nó được ngăn ra thành những căn hộ chiếu cố dành cho các giáo viên không tìm ra được hay không được cấp chỗ ở khác. Nhưng Susan Kidwell và bà mẹ đã xoay xở để biến xấu thành đẹp, tạo nên được một không khí đàng hoàng trong căn hộ của mình - ba buồng nơi tầng trệt. Không thể ngờ được gian phòng khách bé như vậy lại chứa được - ngoài những thứ để ngồi - một đàn organ, một piano, cả một vườn những chậu nở đầy hoa, và thường còn có một con chó con lao vọt ra cùng một con mèo to lơ mơ ngủ. Vào buổi sáng Chủ nhật, Susan đứng ở cửa sổ gian phòng này nhìn xuống đường phố. Cô là một thiếu nữ cao, lờ lững, với khuôn mặt trái xoan xanh xao và đôi mắt đẹp màu xám pha lam nhạt; hai bàn tay cô khác người - ngón dài, mềm mại, sang quý một cách bồn chồn. Cô đã ăn mặc để đi lễ nhà thờ, và lúc này đang chờ chiếc Chevrolet của nhà Clutter, vì cô cũng thế, luôn luôn đi lễ với sự trông nom của nhà Clutter. Thế nhưng chỉ có bố con nhà Ewalts đến kể cho nghe câu chuyện kỳ quặc họ vừa gặp.
Nhưng Susan không thể giải thích, cả mẹ cô cũng thế, bà nói, “Nếu có thay đổi gì, tôi tin chắc là đằng ấy sẽ gọi điện. Susan, sao con không gọi lại đi? Họ có thể đang ngủ - mẹ cho là như vậy.”
“Vậy nên tôi gọi,” Susan nói, trong lời khai vào một ngày sau này. “Tôi gọi đến nhà và để cho chuông réo - ít ra là tôi đã có cảm tưởng chuông réo - ô, có đến một phút hay hơn. Không ai trả lời, cho nên ông Ewalt gợi ý là chúng tôi đi đến nhà ấy thử ‘đánh thức họ dậy xem’. Nhưng khi tôi tới đó tôi lại không muốn gọi. Vào trong nhà. Tôi sờ sợ, không hiểu tại sao, vì chuyện sợ kiểu này không xảy ra với tôi bao giờ cả - vâng, một cái gì như sợ nhưng chưa từng xảy ra. Nhưng mặt trời rực rỡ lắm, mọi vật nom đều tươi sáng và yên tĩnh. Thế rồi tôi nhìn thấy hai chiếc xe ở đó, cả chiếc xe hàng Coyote cũ kỹ của Kenyon. Ông Ewalt mặc quần áo lao động; ủng ông có bùn; ông cảm thấy mình ăn mặc không nghiêm chỉnh để đi gọi nhà Clutter. Nhất là vì ông chưa từng. Chưa từng vào nhà, ý tôi nói như thế. Cuối cùng, Nancy nói sẽ cùng tôi vào. Chúng tôi đi vòng ra cửa bếp, và dĩ nhiên là nó không khóa; người duy nhất quanh đây khóa cửa là bà Helm, gia đình đây thì không. Chúng tôi vào và tôi thấy ngay là nhà Clutter không ăn điểm tâm; không có đĩa, chẳng có gì trên lò. Rồi tôi để ý thấy một cái lạ: ví tiền của Nancy. Nó nằm trên sàn nhà, mở thế này. Chúng tôi đi ngang qua phòng ăn và dừng lại ở chân cầu thang. Buồng của Nancy ở ngay trên đầu. Tôi gọi tên Nancy và bắt đầu lên gác, Nancy Ewalt theo sau. Tiếng chân chúng tôi làm tôi sợ hơn bất cứ thứ gì, chúng quá to mà mọi cái khác thì lại đều quá im lặng. Cửa buồng Nancy mở. Rèm cửa không kéo, buồng đầy ánh nắng. Tôi không nhớ mình đã hét lên. Nancy Ewalt nói là tôi hét - hét, hét mãi hét mãi. Tôi chỉ nhớ con gấu bông Teddy của Nancy cứ trừng trừng nhìn tôi. Và Nancy. Và chạy...”
Trong lúc đó, ông Ewalt quyết định có lẽ không nên để hai cô con gái vào trong nhà một mình. Ông đang ra khỏi xe tìm hai cô thì nghe thấy tiếng hét, nhưng ông chưa kịp tới ngôi nhà, hai cô đã chạy đến với ông. Con gái ông kêu to lên, “Nancy chết rồi!” và nhào vào tay ông. “Bố ơi, thật mà! Nancy chết rồi!”
Susan quay sang Nancy Ewalt. “Không, không chết. Đừng nói thế. Đừng nói liều. Chỉ chảy máu cam thôi. Bạn ấy luôn bị chảy máu cam, chảy ghê lắm, và chỉ thế thôi.”
“Có nhiều máu quá. Có máu ở trên tường. Cậu chưa nhìn thấy hết đâu.”
“Tôi không hiểu đầu đuôi ra sao,” ông Ewalt sau đó làm chứng. “Tôi đã nghĩ có lẽ cô bé bị thương. Tôi thấy hình như việc phải làm trước tiên là gọi xe cứu thương. Cô Kidwell - là Susan ấy - bảo tôi là có một cái điện thoại ở trong bếp. Tôi tìm nó, đúng ở chỗ cô ấy nói. Nhưng ống nói đã tuột khỏi máy và khi tôi nhặt nó lên thì tôi thấy dây điện bị cắt mất rồi.”
Larry Hendricks, thầy giáo dạy tiếng Anh, hai mươi bảy tuổi, sống ở tầng thượng của Sở Thầy Cô. Ông muốn viết, nhưng căn hộ của ông không phải là sào huyệt lý tưởng cho một người muốn thành tác giả. Nó nhỏ hơn căn hộ nhà Kidwell, và, hơn thế, ông chia sẻ nó với một người vợ, ba đứa con cùng một cái ti vi hoạt động thường trực ngày đêm. (“Đó là cách duy nhất để giữ cho bọn trẻ yên.”) Tuy chưa được in, Hendricks trẻ tuổi, một cựu thủy thủ dáng đàn ông quê Oklahoma hút tẩu để ria và có một lọn tóc đen bất trị, ít nhất nom cũng có vẻ văn vẻ - trên thực tế, trông rất giống những bức ảnh thời trẻ của nhà văn ông ngưỡng mộ nhất, Ernest Hemingway. Để phụ thêm vào đồng lương thầy giáo, ông lái xe buýt của nhà trường.
“Đôi khi tôi chạy xe tới sáu chục dặm một ngày,” ông nói với một chỗ quen biết. “Thành ra chẳng còn được mấy thì giờ để viết. Trừ Chủ nhật. Hôm ấy, hôm Chủ nhật đó, 15 tháng Mười một, tôi ngồi ở trên này, trong căn hộ, lục xem giấy tờ. Phần lớn ý tưởng cho các truyện tôi viết là tôi lấy ra ở báo - ông biết không? Đúng. Ti vi đang mở và đám trẻ nhộn nhịp, nhưng ngay cả như thế nữa tôi vẫn nghe được những tiếng nói. Ở bên dưới. Dưới nhà bà Kidwell. Nhưng tôi không nghĩ rằng nó lại dính dáng đến tôi, vì tôi mới về đây - tôi chỉ vừa đến Holcomb lúc khai trường. Nhưng khi Shirley vợ tôi - đang phơi quần áo bên ngoài - chạy bổ vào nói, ‘Cưng ơi, tốt hơn là anh xuống nhà đi. Họ đang lên cơn kích động la hét kia kìa.’ Hai cô gái, chà, họ kích động thật. Susan không bao giờ thôi hét. Sẽ không bao giờ, lại còn hỏi tôi à. Và bà Kidwell tội nghiệp. Sức khỏe bà ấy không tốt, bà ấy vốn dĩ thần kinh dễ căng thẳng mà. Bà ấy cứ nói đi nói lại - nhưng mãi sau tôi mới hiểu bà ấy muốn nói gì - bà cứ nói đi nói lại, ‘Ôi, Bonnie, Bonnie, xảy ra chuyện gì thế? Bà vui như thế, bà bảo tôi là khỏi hết rồi, bà nói bà chẳng còn ốm lại bao giờ nữa!’ Nói như thế đấy. Ngay ông Ewalt cũng đâm kinh hoảng chưa từng thấy ở một người như ông ấy. Ông gọi điện tới văn phòng cảnh sát trưởng - cảnh sát trưởng của Garden City - bảo với họ rằng ‘có một trục trặc rất ư cơ bản ở nhà Clutter đằng kia’. Cảnh sát trưởng hứa đến tức thì, và ông Ewalt bảo tốt, ông ấy sẽ gặp cảnh sát trưởng trên xa lộ. Shirley xuống nhà ngồi với các bà các cô, cố làm cho họ bình tĩnh lại - làm như ai cũng có thể làm được vậy. Và tôi đi với ông Ewalt - đi xe với ông ấy ra xa lộ chờ cảnh sát trưởng Robinson. Trên đường đi, ông ấy kể cho tôi nghe việc đã xảy ra. Khi kể tới chỗ dây điện bị cắt, tôi liền nghĩ ngay, à à, và quyết định là tốt nhất phải giữ cho con mắt mở to. Ghi nhớ mọi chi tiết. Phòng trường hợp tôi được gọi ra làm chứng ở tòa.
Ông cảnh sát trưởng đến; lúc đó chín giờ ba mươi lăm - tôi xem đồng hồ mà. Ông Ewalt vẫy ông ấy đi theo xe chúng tôi, và chúng tôi lái ra đến nhà Clutter. Trước đấy tôi chưa đến đó bao giờ, chỉ nhìn từ xa. Dĩ nhiên tôi quen gia đình họ. Kenyon học ở lớp tiếng Anh năm thứ hai của tôi và tôi đã đạo diễn cho Nancy diễn trong vở Tom Sawyer. Nhưng đó là những đứa trẻ ngoại lệ, khiêm tốn, ông không thể biết là chúng con nhà giàu và sống ở trong một ngôi nhà lớn như vậy đâu - cây cối, bãi cỏ, mọi thứ đều được trông nom, chăm sóc là thế. Sau khi chúng tôi tới đó và ông cảnh sát trưởng đã nghe chuyện ông Ewalt kể, ông liền gọi bộ đàm cho văn phòng bảo đưa thêm lực lượng tăng cường cùng một xe cứu thương đến. Nói ‘Có một tai họa nào đó.’ Rồi chúng tôi vào nhà, cả ba chúng tôi. Qua nhà bếp thấy một cái ví nữ nằm trên sàn, và điện thoại ở chỗ dây bị cắt Ông cảnh sát trưởng đeo súng lục ở hông, và khi chúng tôi bắt đầu lên gác, đi đến phòng Nancy, tôi để ý thấy ông đặt tay vào khẩu súng, sẵn sàng rút ra.
Đúng, hết sức tồi tệ. Cô gái tuyệt vời đó - nhưng ông sẽ chẳng bao giờ còn biết cô ấy thế nào đâu. Cô ấy bị bắn vào sau đầu bằng súng có lẽ chỉ cách có năm phân. Cô ấy nằm nghiêng, quay mặt vào tường và tường vấy máu. Chăn được kéo lên ngang vai cô ấy. Cảnh sát trưởng Robinson kéo nó xuống và chúng tôi thấy cô ấy mặc áo choàng tắm, bộ pijama, bít tất và dép lê - giống như là, bất kể chuyện kia xảy ra lúc nào, cô ấy hãy còn chưa lên giường. Tay cô ấy bị trói quặt sau lưng, cô chân cũng bị cột lại với nhau bằng loại dây thường thấy ở các cửa chớp kéo lên xuống ấy. Ông cảnh sát trưởng nói, ‘Đây là Nancy Clutter?’ - ông chưa bao giờ thấy cô ấy. Và tôi nói, ‘Vâng, vâng, là Nancy đấy.’
Chúng tôi lui vào trong gian sảnh, nhìn quanh. Tất cả các cửa khác đều đóng. Chúng tôi mở một cửa, thì ra đó là phòng tắm. Chỗ này có một cái gì là lạ. Tôi cho là vì chiếc ghế dựa - một loại ghế phòng ăn, nom như bị lạc chỗ trong phòng tắm. Mở cửa tiếp, chúng tôi đều nghĩ chắc là buồng của Kenyon. Một lô đồ đạc con trai vứt rải rác xung quanh. Và tôi nhận ra đôi kính của Kenyon - nhìn thấy nó trên giá sách cạnh giường. Nhưng giường trống không, tuy nom vẻ đã có người ngủ ở đó rồi. Thế là chúng tôi đi ra tận đầu gian sảnh, cái cửa cuối cùng, và tại đó chúng tôi thấy bà Clutter. Bà bị trói. Nhưng khác là tay lại ở đằng trước, thành ra nom bà như đang cầu nguyện, và bà đang cầm trong một bàn tay, đang nắm, một chiếc khăn tay. Hay miếng giấy vệ sinh? Sợi thừng ở cổ tay bà chạy xuống cổ chân, cổ chân cũng bị trói vào nhau, rồi chạy tiếp đến gầm giường và buộc vào cái ván kê chân - một ngón làm có nghệ thuật, rất rắc rối. Cứ nghĩ xem phải mất bao lâu để làm như thế! Mà bà thì nằm đấy, khiếp không còn hồn vía. Đúng, bà có đeo vài đồ kim hoàn, hai chiếc nhẫn - cái này là một lý do khiến tại sao tôi lại không tính ăn trộm là một động cơ - và một váy dài, một váy ngủ màu trắng cùng bít tất trắng. Miệng bà ấy bị dán băng dính nhưng bà ấy bị súng dí sát vào bên đầu mà bắn, và phát súng - cái va đập - đã làm cho miếng băng dính bong ra. Mắt bà ấy mở. Mở to. Tựa như bà ấy vẫn nhìn vào tên giết người. Vì bà chắc là phải nhìn nó làm chuyện kia - nhắm bắn. Chẳng ai nói gì. Chúng tôi đều bàng hoàng. Tôi nhớ ông cảnh sát trưởng cứ nhìn quanh để xem có thể tìm ra được cái vỏ đạn không. Nhưng kẻ làm cái việc này lạnh lùng và thạo như thế thì chắc chắn không để lại dấu tích gì.
Dĩ nhiên, chúng tôi thầm hỏi ông Clutter đâu? Và Kenyon? Cảnh sát trưởng nói, ‘Chúng ta thử xuống dưới nhà xem.’ Chỗ đầu tiên chúng tôi thử tìm là phòng ngủ - chính là phòng ông Clutter vẫn ngủ. Ga trải giường bị giật tanh bành, phía chân giường có một cái túi con với một mớ danh thiếp lộn xộn thòi ra ngoài, giống như có ai đã lục lọi để tìm một cái gì đặc biệt - một cái thư, một văn tự nợ, ai biết chứ? Trong ví không có tiền không có nghĩa là vốn dĩ không có tiền hay tiền đã bị lấy. Đây là túi của ông Clutter, mà ông ấy thì không bao giờ mang tiền mặt. Ngay tôi đây mới về Holcomb có hai tháng cũng còn biết chuyện ấy nữa là. Tôi còn biết là cả ông Clutter lẫn Kenyon đều chẳng thấy cái quỷ gì nếu không đeo kính. Mà kính của ông ấy lại ở trên bàn giấy. Cho nên tôi nghĩ, dù nó ở đâu thì cũng không phải tự nó muốn đến đó. Chúng tôi nhìn khắp, trật tự đâu vẫn vào đấy như thường - không dấu vết vật lộn, không bừa bộn. Trừ văn phòng, điện thoại bị đặt ra ngoài đế và dây bị cắt như trong bếp. Cảnh sát trưởng Robinson tìm ra mấy khẩu súng trong tủ tường, ngửi xem có phải vừa mới bắn không. Ông ta bảo là không, và - tôi chưa thấy ai bối rối hơn ông ta lúc đó - rồi ông ta nói, ‘Herb có thể ở chỗ quỷ nào chứ nhỉ?’ Vừa lúc đó nghe có tiếng chân. Từ dưới tầng hầm đi lên. ‘Ai đó?’ ông cảnh sát trưởng nói, có vẻ như sẵn sàng bắn. Một người nói, ‘Tôi đây, Wendle.’ Té ra là Wendle Meier, phó cảnh sát trưởng. Vẻ như ông đến mà không thấy chúng tôi nên xuống xem xét ở dưới tầng hầm. Cảnh sát trưởng bảo ông - và giọng thấy xót xa: ‘Wendle - tôi chả hiểu thế nào cả. Có hai cái xác ở trên kia.’ ‘Được,’ ông Wendle nói, ‘Một cái nữa dưới kia.’ Thế là chúng tôi theo ông ấy xuống tầng hầm. Hoặc phòng giải trí, tôi đoán là nó được gọi như thế. Không tối - có những cửa sổ để ánh sáng tha hồ lọt vào. Kenyon ở đầu đằng kia, nằm trên đi văng. Cậu bị bịt miệng bằng băng dính, bị trói tay trói chân, như bà mẹ - cũng cái quy trình tinh vi đó, dây đi từ tay xuống chân, cuối cùng buộc vào một chỗ kê tay của cái đi văng. Chả hiểu sao cậu ấy ám ảnh tôi nhất, Kenyon ấy. Tôi không nghĩ ấy là bởi cậu là người dễ nhận ra nhất, người giống bản thân mình nhất mặc dù cậu bị bắn thẳng vào mặt, kê sát đầu bắn. Cậu mặc áo dệt kim và quần jean màu lam, chân trần - tựa như mặc vội, vớ được cái gì xỏ cái ấy. Đầu kê trên hai cái gối, làm như chúng đệm vào cho dễ bắn hơn.
Rồi cảnh sát trưởng nói, ‘Chỗ kia đi đâu?’ Ý nói đến một cửa nữa của tầng hầm. Ông dẫn đường, nhưng bên trong tối quá không nhìn thấy cả bàn tay mình cho đến khi ông Ewalt tìm ra chỗ bấm đèn. Đây là gian lò sưởi, rất ấm. Quanh vùng, người ta đặt một lò chạy bằng ga và bơm ga từ dưới đất lên. Không mất bao tiền nên vì thế nhà nào cũng cực ấm. Tôi nhìn vào ông Clutter, và không tài nào dám nhìn lại. Tôi biết là bắn gần sát sạt thì không làm cho máu chảy nhiều. Và tôi không lầm. Ông đã bị bắn y như Kenyon - khẩu súng chĩa thẳng vào mặt. Nhưng chắc trước khi bị bắn ông đã chết. Hay, nói thế nào cũng là đang chết. Vì cổ họng ông đã bị cắt. Ông mặc bộ pijama kẻ sọc - độc có thế. Miệng ông bị dán băng dính; băng dính quấn vòng quanh hết đầu ông. Hai cổ chân ông bị trói lại với nhau, nhưng hai tay thì không - hay đúng hơn, ông đã xoay xở được, có trời biết làm sao, có thể trong cơn thịnh nộ hay đau đớn, ông đã rứt đứt thừng trói tay ông. Ông nằm sõng soài ở trước lò sưởi. Trên một cái thùng các tông to vẻ như được cố ý đặt ở đấy. Một cái thùng nệm. Cảnh sát trưởng nói, ‘Xem kìa, Wendle.’ Cái mà ông trỏ vào là một vết chân máu. Trên cái thùng nệm. Một nửa vết chân đằng gót với những vòng tròn - hai lỗ hổng ở giữa như hai con mắt. Rồi một người trong chúng tôi - ông Ewalt? Tôi không nhớ - chỉ vào một cái khác. Một thứ tôi không thể đưa ra khỏi tâm trí tôi được. Ở trên đầu có một đường ống dẫn ga và cột vào đó, lủng lẳng ở đó, là một sợi thừng - loại thừng tên giết người đã dùng. Rõ ràng là có một lúc ông Clutter đã bị trói ở đây, tay bị treo lên rồi lại cắt xuống. Nhưng tại sao? Để tra tấn ông? Tôi không nghĩ chúng ta sẽ có lúc nào biết được. Biết ai làm, hay tại sao, hay điều gì đã xảy ra ở nhà này cái đêm hôm ấy.
Một lúc sau ngôi nhà bắt đầu đầy người. Xe cứu thương tới, rồi người điều tra án mạng và cha Giám lý, một nhiếp ảnh viên của cảnh sát, lính cảnh vệ của bang, người ở đài phát thanh và báo chí. Ôi, rất đông. Họ phần lớn bị gọi đi trong khi đang lễ ở nhà thờ, ứng xử tuồng như vẫn đang ở đấy. Rất im lặng. Thầm thì. Tựa như không ai tin được chuyện này. Một cảnh vệ của bang hỏi tôi có công việc gì ở đây không, nếu không thì tốt hơn là tôi đi đi. Bên ngoài, trên thảm cỏ, tôi thấy ông phó cảnh sát trưởng đang nói chuyện với một người đàn ông - Alfred Stoecklein, người làm mướn. Hình như ông này ở cách nhà Clutter không tới trăm mét, không có gì ngăn giữa ông ta với những người của gia đình Clutter, trừ một nhà kho. Nhưng ông ta đang nói đến chỗ ông ta không nghe thấy một tiếng động nào, ông ta nói, ‘Cho tới năm phút vừa rồi, khi một đứa con tôi chạy vào bảo là ông cảnh sát trưởng đang ở đây tôi mới biết có chuyện, trước thì chả biết tí gì. Bà ấy và tôi đêm qua đên hai giờ mới ngủ, cứ ngồi lên nằm xuống suốt, vì chúng tôi có một cháu bé bị ốm. Nhưng cái duy nhất chúng tôi nghe thấy, quãng mười rưỡi hay mười một giờ kém mười lăm, tôi nghe thấy một chiếc xe hơi lái đi, liền nhận xét với bà nhà tôi: ‘Bob Rupp đi đấy.’ Tôi bắt đầu đi bộ về nhà, và trên đường, khoảng lưng chừng rặng cây du Tàu, tôi trông thấy con chó già Collie của Kenyon, nom sợ hãi. Đứng đấy, đuôi quặp giữa hai chân, chẳng sủa cũng chẳng cựa quậy. Nhìn thấy con chó - không hiểu sao lại làm cho tôi lại cảm thấy. Tôi đã quá choáng váng, quá tê dại, không thể cảm nhận nổi đầy đủ sự ghê tởm của chuyện đó. Sự đau đớn. Sự kinh hoàng. Họ đã chết. Toàn gia. Những người tử tế, tốt bụng, những người tôi biết - mà bị giết. Ông phải tin là thế, vì nó đúng như thế.”
Cứ hai tư giờ một lần có tám đoàn xe lửa chở khách không đỗ chạy vù qua Holcomb. Trong đó, hai chuyến đưa thư đến và lấy thư đi - một việc mà, như người trông coi nhiệt thành giải thích, có cái khía cạnh tài tình của nó. “Vâng thưa ngài, ngài phải cảnh giác. Các tàu đó đi qua đây, đôi khi chơi tới một trăm dặm một giờ. Chỉ gió của nó thôi cũng đủ cho các ngài hạ đài. Và các bao thư ấy mà bay ra thì hãy lo cho cái mạng mình đi! Khác nào đóng vai cản đối phương trong bóng bầu dục vậy chứ: Ình! Ình! ÌNH! Nhớ lấy là không phải tôi đang than vãn. Đây là công việc trung thực, công việc của chính phủ, và nó giữ cho tôi trẻ mãi.” Bưu tá viên của Holcomb, bà Sadie Truitt - hay Mẹ Truitt, như người thị trấn đây gọi - trông đúng là trẻ hơn tuổi thật vốn đã tới bảy lăm. Một góa phụ thấp đậm, phong sương, đi giày múa ba lê, đeo băng đô và ủng cao bồi (“Những của dễ chịu nhất mà bạn có thể quàng vào chân, mềm như cái lông chim ấy”), Mẹ Truitt là người bản địa Holcomb cao tuổi nhất. “Thời của họ, chúng tôi gọi chỗ này là Sherlock. Rồi cái người lạ mặt kia đến. Bằng cái tên Holcomb. Một thằng cha trồng lấy gỗ, cái tay vừa nói ấy. Kiếm được tiền, thế là quyết định chỗ này phải mang tên của chả. Rồi mau chóng chả đã làm gì nào? Bán đi. Chuyển đến California. Không phải là chúng tôi. Tôi sinh ra ở đây, các con tôi sinh ra ở đây. Chúng! Tôi! Ở! Đây!” Một người con của Mẹ là bà Myrtle Clare, bà này lại chính là bà chánh bưu điện sở tại. “Có điều, đừng có mà nghĩ đó là cách tôi kiếm lấy địa vị này từ chính phủ. Con Myrtle còn chẳng muốn tôi có địa vị nữa cơ. Nhưng ấy là một nghề mình phải chạy lấy. Nó đến với bất kỳ ai đặt giá thấp nhất. Và tôi luôn đặt thế - thấp đến nỗi ngay cả xe ủi cũng nhòm trộm qua được. Ha ha! Cái này chắc là làm bọn trẻ cáu đây. Nhiều cậu muốn làm người trông coi thư tín, vâng, thưa ngài. Nhưng tôi không biết khi mà tuyết cao bằng ông già Primo Carnera và gió thổi tím tái hết cả người lên rồi mấy cái bao thư kia nó vút bay đến - Ú! Uỳnh! - thì chúng sẽ thích đến đâu.”
Trong nghề của Mẹ Truitt, Chủ nhật là ngày làm việc như bất kỳ ngày nào khác. Ngày 15 tháng Mười một, đang chờ chuyến mười giờ ba mươi hai chạy về phía Tây thì bà ngạc nhiên thấy hai xe cứu thương băng qua đường - rồi quay về hướng nhà Clutter. Chuyện này đã khiến bà làm một việc trước kia chưa từng làm - bỏ nhiệm vụ. Các bao thư rơi xuống đâu cứ để đấy, đấy là cái tin mà chắc Myrt phải nghe thấy tức thì.
Dân Holcomb gọi bưu điện của họ là “Tòa nhà Liên bang,” cái tên có vẻ như khá là quá thực chất để được giao cho một cái nhà một tầng bụi bặm đáng bỏ đi. Trần dột, ván nhà phồng lên, các thùng thư không bao giờ đóng, bóng đèn bị vỡ, đồng hồ thì chết. “Vâng, thì đáng xấu hổ,” người phụ nữ chủ trì ở đây, một người rất chi oai vệ, có phần độc đáo, cay cảy, đã tán thành như vậy. “Nhưng tem thư thì vẫn ổn, đúng không? Dẫu sao thì tôi quan tâm cái gì đây? Phần của tôi, ở cái chỗ này, rất thoải mái dễ chịu mà. Tôi có ghế xích đu, có lò sưởi đẹp đốt củi, có bình pha cà phê và có nhiều cái để đọc.”
Bà Clare là gương mặt nổi tiếng nhất ở hạt Finney. Tiếng tăm của bà không phải mới nảy ra từ công việc hiện nay của bà mà là từ công việc trước kia - chủ nhà hàng khiêu vũ, một hiện thân không đi đôi với cái vẻ ngoài của bà. Bà là một phụ nữ dữ tướng, hay mặc quần, áo sơ mi len, đi ủng cao bồi, tóc đỏ, tính tình hơn hớn, tuổi tác của bà không bao giờ được tiết lộ (“Với tôi cái này là để biết, còn với ông thì là để đoán”) nhưng ý kiến của bà thì nhanh chóng được tiết lộ, phần lớn được công bố với cái giọng có độ cao và sự sắc gọt như giọng gà trống. Cho đến năm 1955, bà và ông chồng quá cố mở Nhà hàng Khiêu vũ Holcomb, một doanh vụ mà nhờ tính độc nhất của nó ở khu này đã lôi cuốn một lượng khách uống cừ nhảy đẹp từ trăm dặm quanh vùng đến, những vị khách mà lối ứng xử thi thoảng lôi cuốn sự quan tâm của cảnh sát trưởng. “Chúng tôi đã có những giờ phút căng thẳng đấy, đúng,” bà Clare hồi tưởng lại. “Một số cậu con trai chân vòng kiềng ở hạt này, chỉ cần bà cho chúng uống các thứ cháy họng là chúng liền giống da đỏ ngay - thấy cái gì là muốn lột da đầu cái đó. Dĩ nhiên, chúng tôi chỉ bán những thứ hợp pháp, không bao giờ bán của cấm. Mà dù có hợp pháp cũng không bán đâu. Chồng tôi, ông Homer Clare, không chịu được trò đó; tôi cũng vậy. Một hôm, Homer Clare - ông qua đời trước đây bảy tháng mười hai ngày, sau ca mổ năm giờ đồng hồ ở Oregon - ông bảo tôi, ‘Myrt ơi, cả đời chúng ta sống trong địa ngục thì nay chúng ta sẽ chết trên thiên đường.’ Hôm sau chúng tôi đóng cửa nhà nhảy. Tôi chẳng bao giờ tiếc vì đã làm thế. Ô, lúc đầu tôi có nhớ lúc mình còn là con cú đêm ấy - những điệu nhạc, sự vui vầy hội hè. Nhưng nay Homer đi rồi, tôi đúng là vui khi được làm việc ở đây, tại Tòa nhà Liên bang. Ngồi một lúc. Nhâm nhi một ly cà phê.”
Đúng ra, sáng Chủ nhật ấy, bà Clare vừa rót ở bình cà phê mới pha ra một ly cho mình thì Mẹ Truitt quay lại.
“Myrt!” bà nói, nhưng không nói tiếp được nữa vì còn phải thở. “Myrt, có hai xe cứu thương đến nhà Clutter.” Con gái bà nói, “Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?”
“Xe cứu thương chứ. Đến nhà Clutter.”
“Kìa, thì đã sao? Chỉ là chuyện Bonnie thôi. Lại lên cơn. Chuyến mười giờ ba hai phút ở đâu?”
Mẹ Truitt ngồi phịch xuống; đã biết câu trả lời như thường lệ, Myrt đang thưởng thức đoạn cuối. Rồi Mẹ bật ra một ý. “Nhưng mà Myrt, nếu là Bonnie thì sao lại những hai xe cứu thương?”
Một câu hỏi sắc nhạy, bà Clare, vốn là người hâm mộ logic, tuy hay dẫn giải logic theo kiểu hơi kỳ cục, buộc phải thừa nhận vậy. Bà nói sẽ điện thoại cho bà Helm. “Mabel sẽ biết,” bà nói.
Cô con gái nói chuyện với bà Helm lâu tới vài phút, làm cho Mẹ Truitt hết sức bồn chồn, bởi Mẹ không nghe được gì ngoài các câu trả lời tiếng một khó hiểu của con gái. Tệ hơn, khi đặt máy, cô con gái không buồn làm nguôi cơn tò mò của bà lão; thay vì vậy nó lại lầm lì uống hết cà phê, đi ra bàn làm việc, đóng dấu một chồng thư.
“Myrt,” Mẹ Truitt nói. “Vì Chúa, Mabel nói gì vậy hả?”
“Con đâu có ngạc nhiên,” bà Clare nói. “Khi mẹ nghĩ Herb Clutter đã bỏ cả đời ra cập rập hấp tấp như thế nào, lao vào đấy lấy thư từ mà chẳng bao giờ chào-và-cảm-ơn-mày-chó-nhé được cho một tiếng, lao đi nháo nhào như con gà nhép cứ nhô đầu ra - đến câu lạc bộ, trông coi mọi sự, nhận những việc này việc nọ mà có lẽ người khác ước ao. Thì nay xem kia - ông ta lãnh đủ rồi. Thôi, từ nay không còn phải cập rập hấp tấp nữa.”
“Sao hả, Myrt? Ông ấy sao lại không còn phải gì gì nữa?”
Bà Clare cao giọng lên. “VÌ RẰNG ÔNG ẤY CHẾT MẤT RỒI. Cả Bonnie nữa. Cả Nancy. Cả cậu con trai. Ai đấy bắn họ.”
“Myrt, đừng nói những điều như thế đi. Ai bắn họ?”
Vẫn không ngừng đóng dấu tem thư, bà Clare đáp, “Cái người đàn ông trên máy bay. Cái người mà Herb kiện là đã đâm máy bay xuống cây ăn quả của ông ấy. Nếu không phải hắn ta thì có lẽ là mẹ đấy. Hay một ai đó qua phố. Hàng xóm tất cả đều là rắn đuôi chuông hết. Tụi đầu gấu đang tìm cơ hội để đập cửa vào mặt mẹ. Cả thế giới này đều thế cả. Mẹ biết như thế mà.”
“Mẹ không biết,” Mẹ Truitt nói, đưa tay lên tai. “Mẹ không biết chuyện gì như thế.”
“Bọn đầu gấu.”
“Myrt, mẹ sợ.”
“Sợ cái gì? Khi giờ của cụ đến thì nó đến thôi. Nước mắt cũng không cứu được cụ đâu.” Bà quan sát thấy mẹ mình bắt đầu nhỏ vài giọt nước mắt. “Khi Homer chết, tôi đã khóc cạn hết nước mắt trong người và cạn cả đau buồn nữa. Nếu có đứa nào xổng ra ở quanh đây mà muốn cắt cổ tôi thì tôi chúc nó may mắn. Cái đó hỏi có khác gì cơ chứ? Trong vĩnh hằng thì như nhau hết mà. Xin hãy nhớ: nếu một con chim đem cát, từng hạt từng hạt một qua đại dương, thì đến lúc nó mang hết được cát sang bờ bên kia mới chỉ là bắt đầu của vĩnh hằng. Vậy cụ hãy xì mũi đi nào.”
Cái tin ghê gớm, được tuyên cáo từ băng ghế nhà thờ, được truyền đi trên đường dây điện thoại, lan khắp nơi bằng trạm phát thanh của Garden City. KIUL (“Một thảm kịch, không thể tin nổi và gây sốc vượt mọi lời nói, đã giáng vào bốn thành viên của gia đình Herb Clutter khuya đêm thứ Bảy hay sớm hôm nay. Cái chết tàn khốc và không có động cơ rõ ràng...”), làm cho ở người nhận tin trung bình một phản ứng gần với phản ứng của Mẹ Truitt hơn là của bà Clare: sửng sốt, ngả sang rụng rời; một cảm giác kinh hoàng cạn cợt bị những dòng chảy lạnh lẽo của nỗi sợ cá nhân mau chóng làm cho sâu hoắm.
Quán cà phê Hartman, có bốn bàn đóng thô và một quầy ăn trưa, có thể thỏa mãn chỉ một phần các lời đồn đại đầy khiếp đảm, phần lớn của đám đàn ông, những người mong muốn tụ bạ ở đây. Chủ quán, bà Bess Hartman, một người da thịt ít ỏi, một phụ nữ không đến nỗi rồ với mái tóc màu vàng lẫn muối tiêu ốp bồng, cặp mắt sáng xanh đầy quyền thế, là chị em họ của bà chánh bưu điện Clare, người mà bà Hartman có thể sánh bằng ở phong cách hồn nhiên vô tư, có lẽ còn vượt hơn. “Một vài người nói tôi là một con chim già dày dạn, nhưng chắc chắn chuyện của nhà Clutter có làm cho tôi chao đảo,” về sau bà nói với một người bạn thế. “Tưởng tượng mà xem, có ai giở trò láu cá như thế chứ! Cái lúc tôi nghe chuyện, khi mọi người đổ vào đây nói đủ các thứ chuyện kỳ quặc ấy, tôi liền nghĩ ngay đến Bonnie. Dĩ nhiên thế là dớ dẩn, nhưng chúng ta không biết sự tình, và nhiều người nghĩ rằng có thể - nếu tính đến các cơn cớ của bà ấy. Bây giờ chúng ta không biết nghĩ gì đây. Chắc đây là giết vì thù hằn. Do một kẻ biết cả trong lẫn ngoài của nhà này. Nhưng ai thù ghét nhà Clutter? Tôi chưa nghe thấy một lời nào chống lại họ bao giờ; gia đình nào cũng nên được lòng người như nhà ấy, và nếu đôi khi chuyện như thế này xảy ra cả với họ thì còn ai an toàn nữa đây, tôi hỏi bà? Một ông già ngồi đây sáng Chủ nhật ấy, ông ấy vạch đúng ra vấn đề, cái lý do khiến không ai ngủ được; ông ấy nói, ‘Tất cả những người chúng ta có ở tận chốn này đều là bạn bè chúng ta. Không có gì khác.’ Ở mặt nào đó, đây là chỗ tồi tệ nhất của vụ án. Đáng sợ dường nào khi hàng xóm không thể nhìn nhau mà không có chút ngạc nhiên! Vâng, sống với nhau mà như thế là gay; nhưng nếu như có bao giờ họ tìm ra kẻ làm chuyện này thì tôi dám chắc lúc đó kẻ ngạc nhiên hơn cả bản thân bọn giết người lại chính là chúng ta đấy.”
Bà Bob Johnson, vợ của đại lý Bảo hiểm Nhân thọ New York, là một tay bếp xuất sắc, nhưng bữa tối Chủ nhật bà chuẩn bị mà không được ăn - ít nhất là không được ăn lúc nó còn nóng - vì đúng lúc chồng bà cắm nĩa vào con trĩ rán thì ông nhận được điện thoại của một người bạn. “Và đó,” ông nhớ lại, khá rầu rĩ, “là lần đầu tiên tôi nghe nói tới vụ ở Holcomb. Tôi không tin nổi. Tôi không thể cho phép mình tin. Trời, tôi cá ngân phiếu của Clutter ở ngay trong túi tôi đây. Một mẩu giấy đáng giá tám chục nghìn đô la. Nếu cái điều tôi đã nghe là đúng. Nhưng tôi nghĩ, không thể đúng được, chắc đã có sai lầm gì đây, những chuyện như thế chưa từng xảy ra, ông không thể vừa lúc nãy bán một món bảo hiểm lớn cho một người mà lúc sau người ấy đã chết. Bị giết. Nghĩa là bồi thường kép. Tôi không biết làm thế nào. Tôi gọi người quản lý của văn phòng chúng tôi ở Wichita. Bảo ông ta là tôi đã có tấm ngân phiếu nhưng chưa kịp làm đủ thủ tục, vậy xin cho ý kiến. Đúng, đây là một tình huống tế nhị. Rõ là về pháp lý chúng tôi không buộc phải trả. Nhưng về luân lý lại là chuyện khác. Dĩ nhiên chúng tôi quyết định làm theo luân lý.”
Hai người được hưởng nhờ thái độ cao quý này - Eveanna Jarchow và cô em gái Beverly, hai người kế thừa duy nhất bất động sản của bố họ - chỉ trong vài giờ sau phát hiện đáng sợ kia đã trên đường tới Garden City, Beverly đi từ Winfield, Kansas, cô đang thăm chồng chưa cưới của cô ở đấy, còn Eveanna từ nhà cô ở Núi Carroll, Illinois. Dần dần, theo thời gian, những người khác trong họ hàng được báo tin, trong đó có bố ông Clutter, hai anh trai ông, Arthur và Clarence và em gái, bà Harry Nelson, đều ở Larned, Kansas, và người em gái thứ hai, bà Elaine Selsor, ở Palatka, Florida. Còn cả bố mẹ của Bonnie Clutter, ông bà Arthur B. Fox, sống ở Pasadena, California, cùng ba anh em trai của bà - Harold ở Visalia, California, Howard ở Oregon, Illinois, và Glenn ở Kansas City, Kansas. Quả tình, phần lớn những người có trong danh sách khách dự lễ Tạ ơn của nhà Clutter đều đã được hoặc gọi điện thoại hoặc gửi điện tín và đa số đã lên đường ngay để có một cuộc gặp mặt gia đình không phải quanh một tấm ván rên rỉ mà là ở bên mộ một đám tang hàng loạt.
Ở Sở Thầy Cô, Wilma Kidwell buộc phải dằn mình để kiềm chế đứa con gái, vì Susan, mắt húp híp, khốn khổ bởi những cơn quằn mình nôn ọe, cứ cãi, không chịu nghe can gián mà cứ nài rằng con phải đi - phải chạy - ba dặm đến trại nhà Rupp. “Mẹ không thấy ư, mẹ?” em nói. “Nếu Bobby nghe thấy chuyện đó thì sao? Cậu ấy yêu Nancy. Con với cậu ấy cả hai đều yêu. Con phải là người báo cho cậu ấy.”
Nhưng Bobby đã biết. Trên đường về nhà, ông Ewalt đã dừng lại ở trang trại nhà Rupp mà chuyện trò với Johnny Rupp bạn ông, bố của tám đứa con trong đó Bobby là thứ ba. Hai ông cùng đi vào nhà ngủ - một tòa nhà tách ra khỏi nhà chính của trại vốn quá bé không đủ chỗ cho tất cả con cái ông Rupp cùng ở. Bọn con trai sống ở nhà ngủ, đám con gái ở “nhà trên”. Hai ông thấy Bobby đang chuẩn bị giường ngủ. Cậu nghe ông Ewalt, không hỏi han gì, rồi cảm ơn ông đã tới. Sau đó cậu ra đứng ở ngoài, dưới nắng. Cơ ngơi nhà Rupp ở trên một quả đồi nhô lên cao, một chỗ đất bằng bày ra trống trải, ở đó cậu có thể nhìn thấy đất đã thu hoạch loa lóa sáng của Trại Lũng Sông. Khung cảnh làm cho cậu mải mê có lẽ đến một tiếng đồng hồ. Những người toan giúp cậu khuây khỏa đều uổng công. Chuông báo bữa tối reo, mẹ cậu gọi cậu vào - gọi đến nỗi cuối cùng bố cậu nói, “Thôi. Cứ để con nó ở một mình.”
Larry, chú em, cũng từ chối nghe theo tiếng chuông triệu hồi. Cậu lượn quanh Bobby, không thể giúp đỡ nhưng muốn giúp đỡ, dù cho ông anh đã bảo “Đi đi”. Sau đó, khi anh cậu thôi đứng mà bắt đầu đi xuống con đường và tắt ngang cánh đồng đến Holcomb thì Larry theo anh. “Hê, Bobby. Nghe này. Nếu chúng ta đi đến đâu đó thì sao lại không đi bằng xe?” Anh cậu không trả lời. Cậu đang đi có mục đích, thật ra là chạy, nhưng Larry bám theo không khó. Tuy mới mười bốn, cậu đã cao hơn anh, ngực nở hơn, chân cẳng dài hơn. Dù có đủ loại bằng khen về thể thao, Bobby đúng hơn vẫn ở dưới tầm cỡ trung bình - rắn chắc nhưng mảnh khảnh, một chàng trai thanh tú với khuôn mặt dẹp, cởi mở ân cần. “Hê, Bobby. Nghe đây. Họ không cho anh gặp chị ấy đâu. Không được cái gì đâu.” Bobby quay lại cậu em, nói, “Đi về, về nhà.” Cậu em rớt lại sau, rồi đi theo cách một quãng. Tuy là nhiệt độ của mùa bầu bí, ngày vẫn chói lọi, cả hai cậu đều mồ hôi mồ kê khi đến gần một rào chắn do lính cảnh vệ bang dựng lên ở lối vào Trại Lũng Sông. Nhiều bạn bè của gia đình Clutter, cả người lạ ở khắp hạt Finney tụ tập ở chỗ này, song không ai được phép qua rào chắn, nhưng ngay sau khi hai anh em Bobby đến đó thì nó được nhấc vụt lên để cho xe cứu thương ra, bốn xe, số xe cuối cùng đã được yêu cầu đến để mang các nạn nhân đi, và một xe của văn phòng cảnh sát trưởng chở đầy người - những người mà chính lúc đó vẫn đang nhắc tới cái tên Bobby Rupp. Vì Bobby, như sau này cậu được biết, là nghi phạm chính của họ.
Ở cửa sổ phòng khách nhỏ của mình, Susan Kidwell nhìn đám người màu trắng lướt qua, dõi theo mãi cho tới khi nó rẽ ở góc phố và bụi của con phố không lát đá dễ dàng tung bay lên đã rơi xuống lại. Cô vẫn còn đang ngắm cảnh này thì Bobby, bị chú em cao to che mất, trở thành một phần của cảnh kia, run rẩy đi lại phía cô. Cô đi ra cổng nhà gặp cậu. Cô nói, “Mình rất muốn báo cho cậu.” Bobby bắt đầu khóc. Larry vẩn vơ ở trong sân Sở Thầy Cô, tựa vào một cái cây. Cậu không nhớ được mình đã từng thấy Bobby khóc bao giờ chưa, và cậu không muốn thấy, nên cúi đầu xuống.
Xa tít tận thị trấn Olathe, trong một phòng khách sạn có những tấm mành cửa sổ làm ánh nắng giữa trưa tối lại, Perry đang ngủ, một chiếc rađiô xách tay rì rầm bên cạnh hắn. Hắn chỉ tụt ủng ra, còn quần áo chẳng buồn cởi. Hắn nằm úp sấp ngang giường, tuồng như giấc ngủ là vũ khí đã quật ngã hắn. Đôi ủng, màu đen, khóa bạc, ngâm trong chậu rửa đầy nước ấm giờ đã nhờ nhờ hồng.
Về phía Bắc ít dặm, trong gian bếp vui mắt của một trang trại khiêm nhường, Dick đang ngon bữa tối Chủ nhật. Những người khác - mẹ, bố, em trai hắn - đều không nhận thấy điều gì khác thường trong cung cách hắn. Buổi trưa về đến nhà, hắn hôn mẹ, sẵn sàng trả lời những câu hỏi bố đặt ra liên quan tới chuyến đi mà hắn nói là hết đêm để đến Fort Scott, rồi ngồi xuống ăn, vẻ hoàn toàn vẫn là cái Tôi thường ngày của hắn. Khi xong bữa, ba người đàn ông vào phòng khách để xem trận bóng rổ trên ti vi. Buổi phát hình vừa bắt đầu, ông bố đã ngạc nhiên thấy Dick ngáy; lúc đó ông nhận xét với đứa em Dick rằng ông không bao giờ nghĩ mình sẽ sống đến ngày thấy Dick ngủ mà không xem bóng rổ. Dĩ nhiên, ông không hiểu là Dick mệt đến nhường nào, không hiểu là, trong nhiều việc làm khác của nó, thằng con đang ngủ chập chờn kia của ông đã lái xe hơn tám trăm dặm trong vòng hai mươi tư giờ vừa qua.
Chú thích

[1] Ông xếp chỉ huy, tiếng Tây Ban Nha
[2] Tổng lượng cồn trong loại bia đó là 3,2%.
[3] Tiếng Tây Ban Nha. Nghĩa là “Được. Tôi hiểu.”
[4] Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ thời kỳ 1953 - 1963.