Một buổi chiều, trời mưa mới dứt hột, nên trong rào cây cỏ còn loi ngoi, trước sân nước còn ứa đọng thành vũng. Mấy đám ruộng nào lúa cấy đã bén rồi thì phơi màu xanh lét, còn mấy đám ruộng mới cấy vài bữa, thì màu còn vàng khè. Trong bưng ễnh ương nối nhau mà khóc tiếng nghe uềnh oang. Sau hè nhái nhỏ đua nhau mà la tiếng nghe lét chét. Thị Tố với con Lựu nấu cơm xong rồi bèn dọn để trên một cái chõng tre. Cai tuần Bưởi kêu sắp nhỏ áp lại ngồi chung quanh mâm cơm. Con Lựu bưng nồi cơm để trước mặt mà bới cho mỗi người một chén. Trong mâm cây chỉ có hai món ăn mà thôi, một chén muối sả với một dĩa cá lóc chừng ba bốn khứa, mà là cá Cai tuần Bưởi câu được hồi trưa, chớ không phải cá mua ngoài chợ nên mỗi khứa lớn chừng bằng ngón chân. Mây đứa nhỏ chen đũa mà gắp cá, còn ba người lớn thì húp nước, hoặc quẹt muối sả, mà người nào ăn coi cũng ngon lắm. Thị Tố bưng chén cơm mà và, cơm còn nóng nên khói lên nghi ngút. Chị ta vừa muốn thò đũa quẹt muối mà rồi chị ta thụt tay và ngó chồng mà nói rằng: - Hồi xế tôi đi xóm Chòi về, đi tới cửa Hương thân Chiểu bị mắc mưa nên tôi ghé nhà tôi đụt. Cậu Hương thân nói chuyện nghe tức cười quá. - Cậu nói gì mà tức cười? - Cậu nói với tôi, cậu muốn cưới con Lựu. - Cậu lớn quá, gả như vậy coi sao được. - Không lớn gì. Cậu năm nay giỏi chừng bốn lăm bốn bảy gì đó chớ bao lớn. - Còn giống gì nữa! Bốn lăm bốn bảy đó đẻ con Lựu không được hay sao? - Nói như mình vậy thì thôi! Vậy chớ mình không nghe người ta nói bảy mươi có của cũng vừa mười lăm hay sao? - Nói bậy nà! - Nói thiệt chớ nói bậy. Cậu Hương thân than với tôi rằng vợ cậu mất mấy tháng nay, không ai coi sóc trong nhà, nên cậu bê bối lung lắm. Phần thì sắp con nhỏ lúc nhúc, phần thì ruộng làm mê mê, cậu cực quá chịu không nổi. Cậu nói nếu vợ chồng mình chịu gả thì cậu cưới một trăm đồng bạc rồi thì mùa tới mình muốn làm ruộng thì cậu nhịn lại một hai dây cho mình làm. Cai tuần Bưởi nín khe không cãi với vợ nữa. Chừng anh ta ăn cơm rồi, anh ta vừa bước chân xuống đất vừa hỏi con Lựu: - Em ưng Hương thân Chiểu hay không em Lựu? Con Lựu ngó anh mà đáp: - Thân em còn lấy chồng làm chi nữa mà anh hỏi. - Ủa, sao vậy? - Ai thèm nữa mà em mong lấy chồng. - Hương thân Chiểu chịu cưới đó. - Theo những lời chị Hai nói hồi nãy đó, thì Hương thân Chiểu muốn mua em về mà làm tôi mọi, chớ có phải cưới vợ đâu. - Em nói nghe kỳ cục quá! Hễ người ta cưới em, thì em phải lo coi sóc việc nhà cho người ta chớ. Ai mà cưới vợ để ở không coi chơi bao giờ. - Phải. Em cũng biết đạo làm vợ là lo giúp đỡ chồng những việc trogn nhà. Nhưng mà vợ chồng phải có cái tình thì ở với nhau mới được. Cái cách chú Hương thân Chiểu nói đó thì chú không có tình chi hết. Chú cưới vợ là kiếm người giữ con, nấu cơm, coi nhà cho chú mà thôi. Lấy chồng như vậy thì vui vẻ gì đó mà ham. - Tình là cái gì kia. Vậy chớ qua với chị Hai em đây có tình gì đâu, mà vợ chồng qua cũng vui vẻ với nhau vậy đó sao. - Sao lại không có tình. Mà dầu anh với chị Hai k hông có tình thì cũng có nghĩa, chớ Hương thân Chiểu không tình mà cũng không nghĩa thì em ưng nỗi gì. Không được đâu anh Hai; em đã ngán đời rồi. Cậu Hai Nghĩa giàu lớn, cậu bỏ tiền mua vui. CHú Hương thân giàu nhỏ, chú xuất tiền mua mại. Thiệt thói đời là vâỵ em nghĩ em giận lắm. - Nói như vậy thôi, có lấy chồng được đâu. - Em nói thiệt với anh Hai chị Hai, nếu em phải lấy chồng, em chỉ ưng anh Cu mà thôi, chớ em không ưng ai khác. - Sao vậy? - Em coi anh Cu có tình mà lại có nghĩa nữa. Tuy ảnh nghèo, ảnh đi ở đày tớ cho người ta, mà ảnh hơn cậu Hai Nghĩa, hơn Hương thân Chiểu thập bội. - Hồi trước nó muốn cưới em. Qua cũng thương nó lắm. Ngặt mắc chuyện lộn xộn đó, bây giờ biết nó chịu cưới hay không? - Em noí chuyện đời cho anh nghe mà thôi, chớ không phải em muốn cho anh Cu cưới em đâu. Nếu bây giờ ảnh nói em mà cưới thì em xấu hổ thầm với ảnh lắm. Cai tuần Bưởi thở ra rồi bỏ đi xuống nhà Ba Rạng mà chơi, không nói chuyện nữa. Cách vài bữa sau, thằng Cu lơn tơn lên thăm vợ chồng Cai tuần Bưởi. Nó lên tới Bình Phú Tây thì trời đã chạng vạng tối rồi. Nó ghé nhà Ba Rạng trước, rồi mới rủ Ba Rạng đi với nó mà qua nhà Cai tuần Bưởi. Mấy người nói chuyện chơi với nhau một hồi, rồi Cai tuần Bưởi vùng nói: - Hương thân Chiểu muốn cưới con Lựu, con nọ không ưng, mà bữa nay ảnh gặp tôi ảnh còn nói nữa chứ. Thằng Cu nghe nói biến sắc; nó liếc mắt ngó con Lựu rồi hỏi Cai tuần Bưởi: - Hương thân Chiểu ở đâu? - Ở dưới xóm Chòi. - Giàu hay nghèo? - Nhà có ăn, nghe nói ảnh có ruộng chút đỉnh đủ làm. - Người ta nói, mà anh gả hôn? - Gả chỗ đó được lắm, ngặt vì con Lựu chê lớn tuổI, nó không ưng, qua biết làm sao mà gả. Thằng Cu ngồi lặng thinh hồi lâu rồi nói: - Giàu mà làm giống gì. Giàu cho bằng cậu Hai Nghĩa hay sao, mà cậu Hai Nghĩa lại ra giống gì đó. Thị Tố xen vô nói: - Con Lựu nó đã mang tiếng mang tăm, mà nó lại có một đứaong làng, có ruộng đất, có trâu nghé, có nhà cửa đàng hoàng. Bưởi tuy không giàu bằng Cu, không có dự việc làng như Cu, song trong nhà cũng có dư được dăm bảy thiên lúa. Vợ chồng Cu cũng như vợ chồng Bưởi, cứ van vái cho thằng Hai thi đậu đặng trong thân tộc có một người làm quan cho cha mẹ bà con đẹp mặt nở mày với thiên hạ. Cái hy vọng này tuy không coa, song là cái hy vọng chung của bậc thường dân, mà coi lại nhiều người học thức cũng còn tưởng phải làm quan mới vẻ vang, mới sang trọng. Cu với Lựu mơ ước như vậy nghĩ chẳng có lạ gì.Bữa rằm tháng sáu là ngày giỗ cơm cho Ba Cam. Vì Ba Cam không có vợ con, lại ngày trước chết tại nhà Hương sư Cu, nên vợ chồng Hương sư Cu xin với Bưởi để luôn bàn thờ tại nhà mà thờ. Cúng bữa đầu, Hương sư Cu không có mời làng xóm, duy có nội nhà với vợ chồng Bưởi mà thôi. Chừng cúng quảy xong rồi, bèn dọn một mâm ở nhà sau cho sắp con ăn với mấy đứa trong nhà, còn vợ chồng Cu với vợ chồng Bưởi thì ngồi một mâm ở nhà trên. Uống rượu được vài ly, Hương sư Cu mới nói rằng: - Ngày nay vợ chồng tôi có cơm mà ăn đây, thiệt tôi nhờ anh Ba lung lắm, nếu không có ảnh bày biểu, mình lục đục dưới Bình Phú Tây hoài, thì làm sao mình được như vậy. Bưởi cười và nói rằng: Tôi muốn khi nào tôi với dượng về Gò Công chơi một chuyến. Mình đi đã hai mươi mấy năm rồi mà không về lần nào hết, tôi nhớ bà con ở dưới quá. - Nhiều khi tôi cũng muốn đi về Gò Công trước thăm mồ mả, sau thăm anh em chơi. Mà lần nào nhà tôi nó cũng bàn ra hoài; lại tôi nhớ lời anh Ba dặn đừng có về xứ Gò Công làm chi, nên rồi thôi tôi không đi. - Bây giờ mình làm ăn khá rồi, mình về chơi, ai dám khinh khi mà sợ. Thôi để chừng gặt hái rồi, hai anh em mình đi. - Về dưới có chỗ đâu mà chơi. - Mình ở nhà Cậu Ba Rạng được mà. - Tôi muốn về phía dưới Đập Ông Canh. - Ở trên đó rồi xuống dưới Đập Ông Canh chơi được mà. Thị Tố vọt miệng nói: - Dượng Tư có xuống Đập Ông Canh thì xuống, chớ ở nhà tôi còn xuống đó nữa mà làm gì. Bưởi nghe vợ nói như vậy thì hỏi: - Sao mình lại không muốn tôi xuống Đập Ông Canh? - Cái chỗ không phải, mình còn léo tới đó làm chi? - Mình khéo nói dữ không! Người không phải, chớ chỗ nào không phải. Mà ai quấy thì có người, chớ không phải nội miền Đập Ông Canh đều quấy hết. Ai ở xấu với mình, thì họ mắc cỡ, mình có ở xấu với ai đâu mà ngại, nên không dám tới đó. Bà Hương sư nãy giờ ngồi lặng thinh mà ăn, chừng nghe anh với chị cãi tới đó thì cằn nhằn: - Thôi anh Hai. Anh nhắc tới chuyện cũ làm gì... Thình lình ngoài sân có tên trùm bước vô lột khăn xá Hương sư và trao một miếng giấy xanh và thưa rằng: - Thưa có một dây thép của ông; nên cậu xã biểu tôi cầm lại cho ông. Vợ chồng Cu biến sắc, Hương sư Cu vừa mở dây thép vừa nói: - Chắc là dây thép của thằng nhỏ ở ngoài nó đánh về. Cha chả, không biết nó thi đậu hay không đây. Cu với Bưởi đều dốt hết thảy. Bà Hương sư nóng nảy muốn biết coi dây thép nói chuyện gì, bèn kêu một đứa con của Bưởi mà sai cầm dây thép lại mượn thầy giáo coi giùm. Thằng nhỏ đi một hồi rồi hào hển chạy về nói: - Thầy giáo nói chú Hai thi đậu. Cả nhà đều mừng rỡ, xúm nhau nói nói cười cươi om sòm. Hương sư Cu vuốt râu nói: - Con tôi nó được làm ông Kinh lý rồi, thôi tôi không còn lo việc gì nữa hết. Má nó thấy không? Tôi biết con tôi học được lắm mà. Vậy năm trước tôi chịu cho nó đi học thêm nữa, cứ theo cằn nhằn tôi hoài. Bà Hương sư ngồi cười, mà vì mấy lời ấy làm cho bà cảm động quá nên bà ứa nước mắt. Thị Tố ngó quanh quất, thấy sắp con của chị ta với mấy đứa ở đều rút xuống nhà dưới hết, chị ta lẩm bẩm nói: - Đồ cái thằng Nghĩa thiệt không ra giống gì hết. Có con mà bỏ rơi bỏ rớt, dượng Hương sư dưởng lãnh dưỡng nuôi, bây giờ nó làm tới ông nọ ông kia, tôi không biết chừng thằng Nghĩa nó hay có mắc cỡ hay không. Hai Bưởi day mặt chỗ khác mà đáp: - Hứ! Thằng đó mà biết mắc cỡ giống gì. Mà mình nhắc chuyện xưa làm chi kìa. Thằng Hai là con của dượng Hương sư, chớ nó co biết thằng Nghĩa thằng Nghéo nào đâu. - Bây giờ nó nên rồi, tôi muốn nói thiệt cho nó biết, đặng nó về Gò Công nó bẹo mẹ con con mẹ Tổng Hiếu chơi. - Đừng có nói bậy. Thuở nay mình giấu, thôi thì giấu luôn, chớ nói ra làm gì. Tôi nghĩ lại tôi phục lòng dạ của dượng Hương sư lắm. Làm người như dượng đó mới thiệt là đúng đắn. Không phải là con dượng, mà vì dượng thương cô Tư nó rồi dượng coi con của cô cũng như con của dượng. Hồi nhỏ dượng bồng bế tưng tiu nó, chừng khôn lớn dượng nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn, cha ruột cũng không bằng. Thằng Hai ăn học giỏi; tôi tưởng ngày sau nó biết cội rễ của nó, thì nó càng trọng dượng Hương sư nhiều hơn nữa. Hương sư nghe Hai Bưởi khen mình, thì chúm chím cười và đáp rằng: - Con nào cũng là con, hễ mình kêu nó bằng con thì mình phải thương yêu nuôi dưỡng nó hết lòng. Hễ nó gọi mình bằng cha thì mình phải ăn ở cho xứng phận làm cha. Huống chi thằng Hai nó có cha, mà cha nó không thèm nhìn nó. Anh Hai với chị Hai còn nhớ hay không? Cái ngày tôi nói mà cưới má nó, tôi nói rằng: "Con của vợ tôi là con của tôi. Người ta bỏ, tôi lãnh mà nuôi. Thằng Hai không có cha, tôi lãnh làm cha". Tôi hứa với má nó thì tôi phải làm. Ngày nay tôi đã trọn phận sự của tôi. Tôi đã đến giữa Tòa nhìn nó là con. Tôi đã nuôi nó ăn học, học thành người tử tế. Như nó biết xét, thương tôi thì xét, bằng nó không nghĩ, nó đủ lông đủ cánh rồi nó bay bổng, nó không thương tôi nữa thì tôi cũng không phiền, miễn là tôi xét trong lương tâm, tôi không có chỗ nào ăn năn, với tôi ngó má nó không hổ thẹn, bao nhiêu đó cũng đủ cho tôi vui rồi. Một người vợ như bà Hương sư mà nghe chồng nói như vậy thì không thể nào cầm giọt lẹ được. Bà Hương sư lấy khăn lau nước mắt mà đáp: - Đã biết con tôi nó thuộc dòng bạc bẽo. Nhưng tôi nuôi nó từ nhỏ chí lớn, tôi dạy dỗ từng chút, tôi tập tánh tình nó giống theo tôi, nên toi chắc không khi nào nó vong ân bội nghĩa như họ vậy đâu. Làm cha như mình, con nào mà bạc cho được. Nếu nó bạc thì là yêu quỷ, chớ nó phải là người nữa đâu. Mà thôi, chuyện xưa mình nhắc lại làm gì. Tôi thường nói với mình, mẹ con tôi ở dưới bùn, cái người xô xuống đó theo lẽ họ phải vớt lên mà tắm rửa. Họ không làm như vậy, họ xô rồi họ bỏ đi tuốt. Trong lúc mẹ con tôi chơi vơi, mình ghét mẹ con tôi mới phải, song mình không giận, không ghét, mình lại đưa tay ra mà kéo mẹ con tôi lên rồi mình tắm gội ngày nay được sạch sẽ. Cái ơn của mình đời đời kiếp kiếp không bao giờ tôi quên được, mà tôi chắc con tôi nó giống tôi, chẳng khi nào nó quên đâu. Trót hai mươi lăm năm nay, con tôi nó biết có mình mình đây là cha nó, chớ nó có biết cha nào nữa. Ngày nay con mình nó nhờ mình mà học đã thành tài, tôi xin mình yên lòng thương nó cũng như xưa nay vậy, đừng nên nghi ngại điều chi mà tội nghiệp cho con. - Không. Tôi thương con lắm, tôi có nghi ngại điều chi đâu. Nhưng mà có một việc xưa rày nó làm cho tôi bối rối hoài, hễ tôi nhớ tới thì tôi ngủ không được. Bữa nay sẵn có anh Hai chị Hai đây mà lại thằng Hai thi đậu nữa, vậy tôi tưởng cũng nên tỏ việc ấy ra trước là anh Hai chị Hai, sau nữa cho má nó rõ. Hương sư Cu nói tới đó rồi lấy gói thuốc ra mà vấn, diện mạo rất nghiêm nghị, ai dòm thấy cũng biết anh ta muốn nói một việc gì trọng hệ lắm. Vợ chồng Bưởi và bà Hương sư ngồi ngó nhau, trong lòng không yên, Hương sư Cu đốt thuốc mà hút một hơi rồi mới nói rằng: - Má nó cũng vậy mà anh Hai chị Hai cũng vậy, chắc là cũng biết tôi thương thằng Hai lắm chớ chẳng không. Tuy nó không phải máu thịt của tôi, nhưng mà tôi nuôi nó từ nhỏ tới lớn tôi tưởng nó là con ruột của tôi, chớ không có nhớ là con ghẻ chút nào. Trót hai mươi mấy năm nay, tôi làm vùi đầu vùi tóc, tôi tiện tặn chắt lót từ đồng, bổn tâm tôi là muốn có tiền dư, trước là nuôi con ăn học với người ta, sau chừng vợ chồng trăm tuổi già, để lại cho con chút đỉnh cho nó khỏi nghèo nàn cực khổ. Năm nay con thi ra trường, nó sẽ làm ông này bà kia, nằm đêm tôi nghĩ lại sự tôi thương con, tôi tính lăng xăng cho nó thuở nay thì được về phần tôi, mà quấy về phần con lắm. Anh chị với má nó nghĩ lại đó mà coi, thằng Hai có cha, mình đều biết hết thảy. Cha nó sang trọng giàu có. Lúc nó còn nhỏ tôi giấu mà nuôi nó, chẳng có lỗi gì. Bây giờ nó khôn lớn rồi, nếu tôi giấu nữa đằ.ng giành làm chia, tôi làm vậy té ra tôi đoạn tình phụ tử của nó, tôi nghĩ quấy với nó lắm. Bởi vậy mấy tháng nay tôi buồn hết sức, không biết có nên tỏ thiệt với con hay không. Nếu tỏ thiệt tôi sợ tình cha con yêu mến nhau thuở nay đó nó phải phai nhạt chút đỉnh rồi không được vui như cũ nữa. Còn nếu không tỏ thì quấy với con lắm, mà lại ngày sau nó biết cội rễ của nó, thì nó còn coi tôi ra gì. Nay con thi đậu, thôi tôi tính chừng nào nó về đây, tôi kể hết công chuyện ngày xưa lại cho nó hiểu; thà là nó bớt thương tôi, chớ tôi không muốn để cho nó trách tôi. Bà Hương sư hiểu rõ ý chồng rồi thì biến sắc, vùng đứng dậy nói: - Mình tính như vậy sao được. Mình không thương con nữa hay sao, nên mình tính gây mối buồn rầu cho con? Cha nó là mình đó, chớ tôi không biết cha nào hết. - Tôi cũng cha, mà cha ghẻ, sao bằng cha ruột được! - Mình nói mấy tiếng ấy, thiệt cũng như mình cầm dao cắt ruột tôi. - Không. Má nó đừng có buồn. Việc tôi tính đó phải lắm. Tôi không muốn cho con ngày sau nó có chỗ trách tôi được, chớ không phải tôi có ý muốn làm buồn cho má nó đâu. - Tôi cũng biết mình không có ý muốn làm buồn cho tôi. Nhưng mà chuyện xưa đã phai mờ hẳn rồi, bây giờ mình bày ra thì tôi vui sao được. - Con đã nên người. Mình không được phép giấu cội rễ với nó nữa. Nếu mình không cho nó biết cha ruột nó, tức thì mình đã dắt con mình vào đường bất nghĩai. - Cha ruột nó nên thân gì đó mà nói cho nó biết. - Dầu nên thân hay là không nên thân, cũng là cha ruột của nó. Cha nó quấy là quấy với người khác, nó là con, có lẽ nào nó hờn cha nó. - Cha nó bỏ nó, không thèm nhìn nó, không nuôi dưỡng nó, cha nó ở như vậy không quấy với nó hay sao? - Dầu có quấy với nó đi nữa, nó cũng không phép trách. Huống chi cái quấy của cha nó thì anh Ba đã rửa sạch hết rồi. Bây giờ má nó không nên trách nữa. Nếu má nó còn ghi mãi trong lòng, thì hơi hẹp hòi đôi chút. - Người làm nhơ nhuốc danh giá của tôi, làm sao tôi quên được. Dầu tôi giảm thù oán chăng nữa, tôi cũng không thể không khi được. Bây giờ biểu con tôi phải kêu người ấy bằng cha, thì tôi chịu sao nổi? - Mình đừng cố chấp thái quá như vậy không nên. Cái lỗi của người ta làm ngày trước, có lẽ người ta đã ăn năn lâu rồi. - Người như vậy có bao giờ biết ăn năn. - Mình bỏ xứ hai mươi mấy năm nay, mình có gần gũi hoặc có gặp mặt người ta lần nào nữa đâu mà dám đoán bụng người ta được. Má nó nhớ lại mà coi, ngày tôi cưới má nó rồi, cô Ba Nhân tìm tới nhà mà bồng ẵm thằng Hai rồi cô xin chuộc nó. Tôi chắc hồi đó cậu Hai Nghĩa đã ăn năn rồi, song cậu ngỡ ngàng không tới được nên cậu cậy cô Ba Nhân tới đó đa. Hồi đó thằng Hai còn nhỏ, mình không chịu cho thì phải. Bây giờ nó đã lớn, nếu mình còn giấu nữa thì mình quấy lắm. Mình phải nói thiệt rồi để cho con thong thả nó liệu định. Nếu nó không chịu nhìn cha ruột nó thì thôi, còn như nó bỏ tôi mà trở về cội rễ tự ý nó, má nó cũng đừng cản. Bà Hương sư ngồi nơi góc ván rồi bà lấy vạt áo che mặt vừa khóc vừa nói: - Sự nhơ nhuốc của tôi hai mươi mấy năm nay đã che đậy yên r con nữa. Bây giờ có mấy người chết vợ hoặc để vợ, họ mới nói chớ cont rai mới lớn lên ai mà cưới. Thằng Cu chau mày mà đáp: - Sao lại không cưới... Tôi nói thiệt với anh Hai chị Hai, nếu cô Tư ưng tôi thì tôi cưới liền. - Nó có con rồi mà em cưới giống gì? - Con của cổ là con của tôi. Người ta bỏ tôi nuôi. Thằng nhỏ không có cha, tôi lãnh tôi làm cha. - Sao từ hồi đó tới bây giờ em không nói? - Tôi có nói một lần, chị Hai quên hay sao? Tại anh Hai chị Hai không nói được, vì cậu Hai Nghĩa đã ăn ở với cô Tư có nghén rồi bỏ; tôi xét phận tôi với cậu Hai Nghĩa thì tôi thấp quá, bởi vậy tôi không dám nói nữa. Từ hồi đó đến giờ tôi thề không cưới vợ. Có cưới thì cưới cô Tư mà không được thì thôi. Ba Rạng mới quen thằng Cu, mà thấy tính tình nó trung hậu cũng thương, nên nghe nói mấy lời thiệt thà mà hữau tình ấy thì cười ngất, rồi kêu con Lựu mà hỏi rằng: - Sao em Tư? Chú Cu nói vậy đó em nghĩ sao? Nội đây đều bà con hết thảy em đừng mắc cỡ gì hết. Em ưng hay không, em nói phứt một câu? Con Lựu ngó xuống đất mà đáp rằng: - Hôm trước em đã có nói với anh Hai em một lần rồi; nếu em phải lấy chồng thì em chỉ ưng một mình anh Cu thôi, chớ em không ưng ai hết. Ngặt vì anh Cu là một người phải, còn em là một người đàn bà hư, nếu em làm vợ của ảnh thì hổ thẹn quá. Ba Rạng cười mà nói: - Em nói một chút mà qua hiểu nhiều lắm. Mấy lời em nói đó thiệt là đúng đắng. Mà mấy lời chú Cu nói hồi nãy cũng đúng lắm nữa. Thiệt thiên hạ cho em là gái hư, mà em biết xét phận em như vậy thì gái nên cũng khó sánh. Còn chú Cu, tuy chú nghèo nàn, song đối với em mà chú có tấm tình như vậy, qua coi chú hơn người giàu sang xa lắm. Thôi để qua đứng làm ông Tơ bà Nguyện cho đôi bên. Em ưng đi, đừng ái ngại chi nữa. Qua dám chắc vợ chồng như hai em đây trời không nỡ để nghèo khổ đâu, mà dầu có nghèo đi nữa, cũng thuận hòa vui vẻ, hơn vợ chồng họ nhiều lắm. Con Lựu nghe mấy lời cảm động nên chảy nước mắt, lật đật đứng dậy mà đi vô buồng. Vợ chồng Cai tuần Bưởi hiểu ý em đã chịu rồi, nên biểu Cu vê1 bữa nào rảnh rang trở lên sẽ tính việc cưới. Chiều bữa sau, Cu lót cót lên nữa. Nó nói nó gởi cho chủ nó về trước về sau được 80 đồng bạc. Con Lựu nhất định không nhận tiền bạc chi hết; chỉ xin 20 đồng bạc đặng đưa cho chị Hai nó đi mua đồ nấu cúng cha mẹ nó một bữa mà thôi. Trước bữa cưới, nó gói mà đưa hết cho Thị Tố những áo quần, vòng, bông của cậu Hai Nghĩa đưa nó hồi trước mà nói rằng: - Những đồ này là đồ làm cho thân em nhơ nhuốc. Em thấy nó càng thêm hổ thẹn. Vậy em cho chị, chị muốn bán hay là bỏ tự ý chị. Đám cưới xong rồi, Cai tuần Bưởi cậy Ba Rạng viết giùm một bức thơ gởi nói cho Ba Cam hay. Anh ta khuyên thằng Cu đừng ở với Cả Tri nữa, về ở chung với mình, đặng mùa tới anh em kiếm ruộng mướn mà làm với nhau. Cu nghe lời về ở Bình Phú Tây với anh vợ. Dầu không nói, ai cũng biết chắc vợ chồng thằng Cu vui vẻ hòa thuận với nhau hơn vợ chồng khác hết thảy. Cu phỉ nguyện nên quên hết việc trước của vợ; còn Lựu yên thân song ngó chồng cũng còn chút hổ thẹn. Cu bồng thằng Hai mà hun hít nựng nịu tối ngày; Lựu thấy vậy lại càng thêm kính trọng.Qua tháng tám, lúa sớm gần đứng cái, lúa mùa đã nở bụi, ngó ra đồng tứ phía đều xanh rì. Một buổi sớm mai, Thị Tố đi chợ, Cai tuần Bưởi vác cần câu vô bưng mà câu rê. Con Lựu lục đục sau bếp nấu cơm. Thằng Cu bồng con ghẻ ngồi dựa cửa mà coi con mèo rình chụp con rắn mối. Bỗng đâu có một người đàn bà trạc chừng 22 hoặc 23 tuổi, nước da trắng, gương mặt tròn, mình mặc áo lụa trắng, quần lãnh đen, đầu đội khăn màu bông hường, chân mang giày thêu nhung đỏ, thủng thẳng đi vô sân của Ba Rạng, sau lưng lại có một đứa con gái chừng 15, 16 tuổi, mặc quần áo vải đen đi theo. Thằng Cu thấy người đàn bà ấy hỏi vợ Ba Rạng việc gì không biết, mà vợ Ba Rạng chỉ ngay nhà Cai tuần Bưởi rồi người đàn bà xăm xăm đi lại. Khi người ấy vô gần tới cửa, Cu dòm kỹ thì nghi là cô Ba Nhân con gái bà Cai Hiếu. Nó nghĩ mà thôi, chớ không dám chắc, bởi vì hồi trước nó gặp cô Ba vài lần, mà mấy năm nay cô có chồng, về ở theo bên chồng trong chợ Giồng Ông Huê nó không gặp nữa. Tuy vậy mà nó không bồng thằng Hai đứng dậy, cúi đầu chào khách. - Phải nhà Cai tuần Bưởi ở đây hay không? - Thưa phải. - Có vợ chồng Cai tuần Bưởi ở nhà hay không? - Thưa, không. Chị Hai tôi đi chợ, còn anh Hai tôi đi câu. - Chú là giống gì của Cai tuần Bưởi. - Tôi là em rể. Thưa cô ở đâu lại, hỏi anh Hai chị Hai tôi có việc chi hay sao? Người khách không trả lời mà ngó thằng Cu trân trân rồi ngó thằng nhỏ bồng trong tay đó. Thằng Cu bèn nói rằng: - Mời cô bước vô nhà. Chị Hai tôi đi chợ cũng gần về a. Người khách liền đi xốc vô nhà, rồi vén áo ngồi chỗ bộ ván giữa. Sắp con của Cai tuần Bưởi thấy có người lạ, không dám giỡn nữa, nên ôm gốc cây cột nhà ngó. Con Lựu đương nấu cơm sau bếp vạt áo trước vắt ngang lưng, cũng lơn tơn chạy lên coi ai cho biết. Người khách ngó Lựu rồi hỏi Cu rằng: - Vợ chú đó phải không? - Thưa, phải. - Tên gì? - Thưa, tên Lựu. Người khách nhìn Lựu trân trân, Lựu thấy vậy bèn bước tới chào, và hỏi rằng: - Thưa, cô ở đâu lạ, có việc chi hỏi tôi? - Tôi ở trong chợ Giồng. Nghe nói em có một đứa con trai, em muốn kiếm người nào không con, em cho họ nuôi mà làm con nuôi, nên tôi ra đây coi thằng nhỏ ra làm sao rồi tôi xin về tôi nuôi. - Thưa, không. Con tôi thì tôi nuôi, chớ tôi có tính cho ai đâu. - Thằng nhỏ đâu nào? Được bao lớn? Nhân vật dòm chung thì thiệt không thấy dời đổi, nhưng mà gia đạo của bà Cai tổng Hiếu coi lại thì không giống như hồi xưa. Bà Cai tổng Hiếu chết đã mười mấy năm rồi, tá điền tới lui khỏi phải hầu hạ bà, mà ai ra lãnh chức Hương quản cũng khỏi bị bà sai k hiến nữa. Cậu Hai Nghĩa năm nay đã trên 50 tuổi rồi, mái tóc đã bạc hoa râm, da mặt đã dùn chút đỉnh, nhưng tai hại nhất là hai vết dao của Ba Cam chém ngày trước vẫn rành rành trước mặt, nên bây giờ cậu làm Hội đồng địa hạt, mà những người không ưa cậu, họ không chịu kêu cậu "Hội đồng Nghĩa"; họ lại kêu là "Hội đồng Thẹo" đặng ngạo cậu chơi. Mợ Hai Hưởng đã gần già rồi, răng đã rụng hết ba bốn cái, mà nước da của mợ coi cũng chưa chịu mởn, giọng nói của mợ nghe cũng chưa được êm, mợ cũng xổn xảng với chồng, cũng còn gắt gao với tá điền tá thổ như hồi trước. Vợ chồng Hội đồng Nghĩa ở với nhau thuở nay sanh có ba người con mà thôi. Người con gái đầu lòng là cô Hai Diệu, hồi thầy lẹo tẹo với Tư Lựu thì cô mới biết đi. Khi Cu dắt Lựu mà đi rồi, thì Hội đồng Nghĩa mới sanh thêm hai người con nữa: một người con trai tên Tý và một người con gái út tên là Thục. Cô Hai Diệu khi được 18 tuổi, thì cha mẹ gả cho con ông chủ Khoán ở trong Long Hựu. Cô về nhà chồng ở được ba năm, kế cha chồng chết, chồng mê say bài bạc phá tan sự nghiệp. Vợ chồng Hội đồng Nghĩa thấy rể xài phá đã suy sụp rồi, sợ nó phá lây tới gia tài của con mình, nên lật đật bắt cô Diệu về. Cô Hai Diệu ở với chồng được một đứa con rồi, mà cô cũng đành dứt đạo cang thường bỏ nhà chồng mà trở về cha mẹ. Trong mấy năm nay chồng cô lâu lâu cũng có ra thăm vợ con một lần, nhưng mà lần nào chồng tới thì cô lợt lạt, chẳng khác nào như cô đối với một người ở lối xóm tới chơi vậy. Cậu Ba Tý đã chết hồi năm ngoái rồi, chớ chi cậu còn thì năm nay cậu được 20 tuổi. Khi cậu còn nhỏ thì vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa tưng tiu cậu như vàng như ngọc, tuy là cưng cậu, nhưng muốn cho cậu nên, bởi vậy phải dằn lòng phân rẽ đem xuống chợ Gò Công mà gởi cho cậu ở đi học, cậu đi học thì cậu xài phá tốn hao nhiều, nhưng mà cậu mò riết rồi cũng lên tới lớp nhất và cũng đi thi với chúng bạn. Cậu đi thi hai lần mới lấy được cái bằng sơ đẳng. Tuy vậy mà cha mẹ mừng rỡ hết sức làm heo tạ ơn đất nước, gấm ghé muốn chọ chỗ giàu có mà cầu hôn. Chẳng hiểu là tại người ta chê mà không gả, hay là tại cậu Ba Tý chưa gặp được duyên, mà cậu đi coi vợ ba bốn chỗ chẳng chỗ nào xong xuôi ý, thầy Hội đồng Nghĩa giận mới đem con lên Sài Gòn mà cho học thêm, chưa được một năm thì cậu mang bệnh mà chết, làm cho thầy Hội đồng mất người kế nghiệp, thầy rầu rĩ trăm phần, mà bà Hội đồng còn theo rầy rà, bà nói tại chồng bày chuyện cho học thêm nên con bà mới chết. Còn cô út là cô Tư Thục năm nay cô được 17 tuổi rồi, đã có hai ba chỗ cậy mai cậy mối nói mà xin coi. Cô giống mẹ nên nước da cô không trắng, hình vóc cô to xương, song gương mặt coi cũng hữu duyên, nhất là cô được cặp mắt thiệt là lanh, không hiểu trong sách tướng họ đoán tốt xấu thế nào, chớ con mắt ấy hễ trai thấy thì ưa lắm. Một buổi sớmmai, trời thanh bạch. Trước sân cỏ cây tươi tắn, lại thêm bầy chim se sẻ bay lên đáp xuống mà kiếm ăn, trong nhà dọn dẹpt rang hoàng, lại thêm các cửa đều mở hết, nên ở ngoài dòm vô coi rực rỡ. Ấy là nhà của thầy Hội đồng Nghĩa sửa soạn kỵ cơm cho ông Cai tổng Hiếu. Hương chủ Khanh ở trong chợ Giồng Ông Huê là em rể của thầy Hội đồng Nghĩa, nhớ ngày kỵ cơm của nhạc phụ, nên thắng xe hai bánh đi với vợ là cô Ba Nhân, mà ra nhà anh. Cô Tư Thục thấy cô với dượng ngừng xe trước sân, thì lật đật chạy ra mừng rỡ. Vợ chồng thầy Hội đồng với cô Hai Diệu cũng ra đứng dựa cửa mà chào mừng. Bà Hương chủ Khanh năm nay đã 47 tuổi, nhưng vì bà không có chửa đẻ lần nào, nên bà còn được mạnh mẽ, ăn nói nhậm lẹ, đi đứng gọn gàng, da mặt chưa dùn, mái tóc chưa bạc. Bà tánh tình bải buôi vui vẻ, bởi vậy vừa bước vô cửa rồi bà chào hỏi mấy người tá điền tá thổ đến dọn giỗ; bà nói lăng xăng không dứt tiếng. Bà hối cô Tư Thục sai trẻ ở ra xa bưng cam bưởi cau trầu vô; bà kêu thằng đánh xe mà dạy phải coi cho ngựa ăn uống tử tế. Mấy người đàn bà đến dọn giỗ, ai nghe tiếng bà chủ nói rân trên nhà trên thì cũng đều hớn hở vui mừng. Bà chủ đi lại đứng trước mỗi bàn thờ mà coi chưng dọn, rồi bà đi vòng xuống nhà dưới mà coi đàn bà nấu nướng, gặp mỗi người bà đều có một câu chuyện mà nói, bà không bỏ sót một người nào, bởi vậy bà lại gần ai cũng vui, chừng bà đi ai cũng ngó. Bà trở lên nhà cầu, thấy ông chủ với hai vợ chồng thầy Hội đồng đương ngồi noí chuyện bà bèn bước lại ván và têm trầu mà hỏi rằng: - Bữa hổm ở nhà tôi đi Gò Công có về nói gặp anh đi đóng bách phần đất. Anh mua sở ruộng nào đó vậy anh Hai? Thầy Hội đồng Nghĩa đưa tay lên vừa gãi thẹo trên mặt vừa đáp: - Mua đất của Chánh Bái Huân bên Ụ Giữa. - Anh mua mấy mẫu, giá bao nhiêu đó? - Ổng thiếu có ba ngàn đồng, mà 4 năm nay ổng trả lời hoài, trả vốn không nổi. Năm nay, ổng theo năn nỉ mua giùm cho ổng, cực chẳng đã phải mua, chớ mắc quá. Không đầy 15 mẫu mà mua tới 8 ngàn. - Theo giá lúa bây giờ, thì ruộng đó còn rẻ, chớ có mắc đâu. mà tuy nói 8 ngàn, chớ 4 năm nay anh cho vay ăn lời đã hai ngàn rưỡi hoặc ba ngàn rồi, tức thì anh mua ruộng đó có 5 ngàn hay 5 ngàn rưỡi gì đó chớ gì. - px;'>
Thằng Cu bồng con bước lại một bước, miệng chúm chím cười và đáp: - Con tôi đây. Thưa cô, xin lỗi cô, không biết cô có phải là cô Ba, con của bà Cai ở dưới Vĩnh Thạnh hay không? Người khách thấy người ta đã biết nên không cần giấu giếm nữa, nên cười mà hỏi rằng: - Sao chú biết tôi? - Thưa, trước đây tôi có thấy cô Ba một lần. Con Lựu chưng hửng, nên đứng nhìn cô Ba Nhân, coi nét mặt kém vui. Cô Ba Nhân vói tay bồng thằng Hai rồi ngó Lựu mà hỏi: - Thằng nhỏ được mấy tháng rồi đây? - Gần 10 tháng. - Bộ nó cứng cỏi, dễ thương quá chứ. Đặt tên là gì? - Tên Hai. - Tội nghiệp quá, mới bây lớn mà bận áo xấu quá. Sao không may quần yếm cho em bận? - Tôi nghèo, sắm được cái áo đó là may. Tiền đâu có dư mà vẽ tiền quần lồng quần yếm. - Thôi, cho tôi đặng tôi nuôi. Tôi thấy thằng nhỏ tôi thương quá. Tôi không có con. Tôi nuôi nó, tôi may quần áo lụa cho nó bận, chừng nó lớn tôi cho nó đi học. Coi bộ hai vợ chồng nghèo quá, có con cực khổ, để nuôi làm giống gì. Thằng Cu nghe mấy lời ấy, trong bụng nó phiền nên cười gằn và đáp: - Thưa cô, cô nói như vậy thì tội nghiệp cho con nhà nghèo lắm. Nhà giàu thương con, nhà nghèo cũng biết thương con vậy chứ. Ai nỡ cắt thịt mà trao người khác được. Vợ chồng tôi nghèo thì nuôi con theo phận nghèo. Cái tình thương con là quý, chớ giàu nghèo có nghĩa gì đâu. - Nghe nói thằng nhỏ này không phải là con của chú, mà chú cản trở nỗi gì? - Thưa, con gì cũng vậy, hễ đặt là con thì tự nhiên mình thương. Mà thằng Hai đây tôi thương nó không biết chừng hơn con ruột của tôi nữa, bởi vì cha nó không nhìn, tôi ra nhìn thế, nên tôi phải thương nó bằng hai. - Thôi, chú đừng có nhiều chuyện. Tôi nói phứt một câu: để thằng nhỏ cho tôi nuôi, tôi cho hai vợ chồng một trăm đồng bạc làm vốn mà làm ăn. - Nhân nghĩa mới quý, chớ một trăm đồng bạc có phải là quý đâu. Nãy giờ con Lựu đứng lóng tai nghe chồng đối đáp với cô Ba Nhân, chừng nó nghe cô Ba Nhân nói cho một trăm đồng bạc mà bắt thằng bé thì nó giận nên nói rằng: - Tôi nghèo, song tôi cũng có danh giá như ai vậy. Nghèo gì ham tiền bạc lại bán con mà ăn. Cô đừng có nói tiếng đó tôi phiền lắm. Cô Ba Nhân không dè vợ chồng thằng Cu biết điều đến thế, bởi vậy cô mới bị Cu, rồi bị luôn Lựu nữa, cô bợ ngợ, không kiếm được lời chi khác mà nói, túng thế cô nói: - Tôi không có con, tôi thấy thằng nhỏ tôi thương quá, cho tôi nuôi đi mà. Cu ngó vợ và lắc đầu, Lựu cười và nói: - Tôi đẻ nó nên tôi thương, chớ cô với nó có nghĩa gì đâu mà cô thương. Cô Ba Nhân ngó Lựu vừa cười vừa đáp rằng: - Cô cháu sao lại không có nghĩa. Lựu mắc cỡ, nên xây lưng đi vô bếp. Cô Ba Nhân biết thế không dễ gì mà nói được, nên cô nựng nịu thằng Hai rồi cô trả nó cho Cu đặng về. Cô đứng dậy rồi cô kêu Lựu ra mà từ giã. Lựu bước ra, cô nói: - Anh Hai tôi bị chỉ nên ảnh mới hóa ra người quấy. Tôi không chịu như vậy. Tôi xin hai vợ chồng để cháu cho tôi nuôi, muốn hai ba trăm tôi cũng cho. Vợ chồng suy nghĩ lại đi, rồi vô trả lời cho tôi biết. Cu lắc đầu đáp rằng: - Mấy ngàn, mấy muôn tôi cũng không ham, chẳng luận mấy trăm. Cô Ba Nhân ra về một hồi lâu, rồi vợ chồng Cai tuần Bưởi mới về tới. Lúc ăn cơm, Cu thỏ thẻ thuật lại việc cô Ba Nhân tới xin chuộc thằng Hai lại cho vợ chồng Bưởi nghe. Hôm sau vợ chồng Cai tuần Bưởi nhận được thơ của Ba Cam. Mọi người mừng rỡ xúm xít đọc: Em xin tỏ với anh một việc. Ông Thầy Kiện mới khẩn một sở đất 800 mẫu tại làng Vĩnh Mỹ thuộc về hạt Bạc Liêu. Ông đương qui dân làm ruộng đặng đem xuống lo mà khai phá. Ổng sắm trâu bò nhà cửa lúc thóc sẵn hết thảy, tá điền xuống đó mướn bao nhiêu thì người ta đo cho mà làm, tới mùa trả lúa ruộng rồi còn dư bao nhiêu thì mình lấy. Xứ Gò Công mình ruộng đất hẹp hòi quá, mước mắc quá nên làm không có lời. Em muốn anh chị với hai vợ chồng con Lựu dắt nhau đi hết xuống Bạc Liêu mà làm ruộng của ông Thầy Kiện, hoặc may có khá được. Hôm em về, em có hứa với con Lựu rằng em sẽ lo bảo bọc cho nó. Bây giờ nó có chồng, nó ở chung chạ với anh nữa coi thể bất tiện. Em đã có mướn một căn phố rồi, em muốn vợ chồng nó lên ở với em, thằng Cu thì em kiếm sở cho nó làm, còn con Lựu thì nó nấu cơm cho em ăn. Như vợ chồng nó muốn đi làm ruộng Bạc Liêu thì em sẽ giúp cho chúng nó đi. Được thơ này, dầu anh chị không chịu bỏ xứ mà đi Bạc Liêu đi nữa, thì cũng biểu vợ chồng con Lựu phải lên ở với em. Em trông lắm. Nhất định bữa nào đi thì phải gởi thơ trước cho em biết đặng em vô chợ Lớn đón tàu em rước. Xin anh Hai nói giùm em kính lời thăm vợ chồng anh Ba Rạng. " Ba Cam Sớp - phơ của ông Thầy Kiện Tô Lê N112 đường Kinh Lấp Sài Gòn Cai tuần Bưởi đương trông ruộng làm, nên được thơ này thì có ý muốn đi Bạc Liêu, ngặt vì Thị Tố than sự con đông, đến xứ lạ không biết khó dễ thế nào, làm cho anh ta dụ dự không quyết định. Tuy vậy mà anh ta đốc vợ chồng Cu đi, anh ta biểu đi trước thử coi việc ra làm sao rồi anh ta sẽ theo sau. Vợ chồng Cu bàn tính với nhau, nghĩ ở đây làm ăn khó khá được, lại thêm cô Ba Nhân vặn trú về sự thằng con hoài, bởi vậy nhất định lên Sài Gòn mà hỏi đọ cho chắc rồi liệu nếu đi Bạc Liêu thì đi, bằng không nên đi thì ở Sài Gòn kiếm công việc mà làm. Cu cậy Ba Rạng viết thơ gởi giùm trước cho Ba Cam, rồi đến ngày hẹn vợ chồng anh từ giã anh chị xóm giềng và bồng con mang gói mà lên đường.
ng sự ông bà, nghĩ coi có phải tiện hay không? - Nhìn bất tử vậy sao được. Có chắc là con của mình đâu mà nhìn. Mà nhìn rồi má bày trẻ nó sanh giặc chịu sao nổi. - Sanh giặc cái gì? Anh nhìn con mà thôi, ai biểu anh nhìn mẹ làm chi mà sanh giặc. Tôi tức quá, tôi biểu ông Chủ tôi ổng cưới vợ bé đặng nó đẻ con tôi nuôi mà ổng không chịu. Nếu ổng có con như vậy thì tôi rước về tôi nuôi liền. Hương chủ Khanh nghe vợ nói như vậy thì ông vuốt râu mà nói: - Vợ bé vợ mọn làm gì? Trời cho mình có con thì nuôi, bằng không cho thì thôi. Có con rồi nó hư thì càng khổ cho mình, chớ có ích đâu. Bà Chủ ngó chồng mà đáp: - Có con sao lại không ích? Nói kỳ dữ không! Tròi trọi như mình đây, ngày sau vợ chồng chết rồi chó nó bươi mả chớ có ai đâu mà rẫy. - Rẫy cũng vậy mà không rẫy cũng vậy. Hễ chết rồi thì thôi. Thầy Hội đồng suy nghĩ thế nào không biết, mà vợ chồng Hương chủ đương cãi nhau như vậy, thầy lại xen vô hỏi bà Chủ: - Cô có biết mấy năm nay tụi nó đi đâu hay không? - Tụi nào? - Tụi Cai tuần Bưởi. - Ờ ợ! Đi đâu mất hai ba mươi năm nay. Tôi có hỏi thăm làm chi đâu mà biết. Anh muốn tìm hay sao? Nếu anh muốn để tôi hỏi thăm cho. - Thôi thôi. Hỏi cho biết chơi vậy chớ tìm làm giống gì. Tụi nó mọi rợ, du côn quá! Thầy Hội đồng mới nói tới đó, kế bà Hội đồng dưới bếp đi lên. Thầy lật đật bỏ chuyện đó mà bắt qua nói chuyện mùa màng ít câu, rồi mời em rể lên nhà trên chơi. Đến trưa, chồng của cô Hai Diệu là cậu Thôn Kỉnh ra tới. Cậu đi một cái xe hơi nhỏ hai chỗ ngồi; cậu bịt khăn đen, bận áo dài, do cậu cầm tay bánh mà đi, chớ không có sốp - phơ. Cậu chạy thẳng vô sân, kiếm bóng mát mà đậu, rồi xốc bâu áo, sửa khăn đen, thủng thẳng đi vô nhà. Duy có vợ chồng Hương chủ Khanh mừng rỡ hỏi thăm mà thôi, còn vợ chồng thầy Hội đồng Nghĩa không thèm hỏi, thậm chí cô Hai Diệu cũng làm lơ, bồng con đi bét xuống nhà dưới. Tá điền thấy tình chủ nhà đối với rể, họ phải hùa theo ý đó, nên họ chào hỏi lơ là cầm chừng mà thôi. Thôn Kỉnh gặp cảnh khó khăn dường ấy, nhưng vì cậu nghĩ cậu có tội xài phí, song cậu xài là xài tiền của cậu; chớ cậu không xin cha mẹ chợ đồng nào, bởi vậy cậu không ái ngại chi hết, cứ đàng hoàng tỉnh táo như thường. Cậu kéo ghế mà ngồi, rồi lấy thuóc ra đốt hút. Bà Hội đồng ngồi dưới nhà cầu với bà Chủ, bà dòm lên thấy rể thì bà ghét lắm, nên bà nói với bà Chủ: - Thứ đồ khốn nạn! Hết ruộng hết đất rồi còn không lo, cũng cứ chưng xe hoài! Nếu con Thục mà nó có chồng cũng như con Diệu vậy nữa, chắc là tôi hết kể sự nghiệp này rồi. - Không việc gì chị phải lo. Chị để tôi kiếm chỗ gả con Thục cho chị coi. - Ừ, cô làm ơn cô lựa giùm thử coi, chớ để ổng ở nhà đây ổng lựa thứ đồ phá của nữa rồi mang khốn. - Chị để đó mặc tôi liệu. Vợ chồng Hương chủ Khanh ở tới chiều bữa sau, mãn đám giỗ rồi mới về. Thôn Kỉnh cũng ở, nhưng mà cậu lên bồng con được ít lần, chớ không nói chuyện với vợ được tiếng nào hết.