1. Con người Khác với con vật, con người có sự tự nhận thức về mình, về sự tồn tại của mình Điển hình cho cái nhìn con người một cách tự nhiên, đơn giản là quan niệm con người của học thuyết Khổng -Mạnh, coi con người là đơn vị cơ bản cấu tạo nên gia đình, nhiều gia đình cộng lại thành quốc gia, nhiều quốc gia cộng lại thành thế giới. Trong chuỗi tổ chức ấy con người là những cá nhân, với tư cách là những đơn vị tự thân hoàn chỉnh, chiếm vị trí gốc rồi toả ra xã hội. Thân có tu thì gia mới tề, gia có tề thì quốc mới trị, quốc có trị thì thiên hạ mới bình được!(lô gích này ta cũng gặp lại trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh:muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa!)ấy là những con người nông nghiệp, con người của cái tâm. Cái trí còn rất sơ khai, còn cái lợi của cá nhân thì bị nén lại. Ngay khi hình thành quan niệm này về con người đã gặp bế tắc. Tu thân đến như đức thánh Khổng, đạo đức đến như đức thánh Khổng mà không được nước nào dùng, các quốc đều bất trị, thiên hạ thì bất bình, bởi mô hình con người đạo đức (homo ethicus) chỉ là con người của qui mô gia đình, làng xóm. Một người hướng về hành động như Khổng Tử mà quan niệm này của ông thì thật là không tưởng. Bệnh xã hội chủ nghĩa không tưởng của nhân loại có thể đã âm ỉ từ trước công nguyên. Chủ thuyết là đức trị, nói dân là quí, rồi mới đến xã tắc, còn vua thì xem nhẹ mà trong thực tế thì thang giá trị luôn lộn ngược trở lại. Nền đức trị chỉ thịnh vượng khi có một minh quân độc tôn. Nhưng bất kể triều đại nào quân cũng chỉ minh được lúc đầu, sau thế nào cũng thoái hoá biến chất. Chỉ có đám lê dân là ngoan ngoãn tu thân, còn những kẻ thống trị thì chẳng thấy ông vua nào theo được Nghiêu Thuấn cả!Dân bao giờ cũng ham mê cái lợi và tôn thờ cái tâm, nhưng thấp cơ thua trí kẻ thống trị. Các vị vua chúa đều hiểu rõ ba yếu tố ở con người, nên muốn khống chế phần con thì dùng cái lợi, muốn khống chế phần người thì dùng cái tâm và rất ngại nâng cao dân trí. Cứ như vậy con người đạo đức bị chế độ phong kiến và nông nghiệp giam hãm hàng chục thế kỷ. Khi CNTB hình thành, quan hệ sản xuất công nghiệp làm cho nhận thức về con người rung chuyển tận gốc. Một mặt, tính cá nhân của con người phát triển mạnh, nhất là con người của cái lợi, nhưng mặt khác sự ràng buộc của các cá nhân trong guồng máysản xuất và tiêu thụ của xã hội cũng ngày càng chặt chẽ. Thế là con người nông nghiệp, con người cá nhân của chế độ phong kiến bị giằng xé mãnh liệt theo hai chiều ngược nhau, chiều cá nhân và chiều xã hội. Kết quả là đến thế kỷ 19 đã bùng ra hai xu hướng ngược hẳn nhau về nhận thức bản chất con người: con người của phái Mác xít và con người của phái hiện sinh. ° Nhận thức về con người của phái Mác Xít Ưu điểm nổi bật của trường phái này là phát hiện ra tính xã hội của con người. Quan hệ của xã hội với cá nhân không phải là quan hệ của số tổng và các số bị cộng mà là quan hệ điều khiển, chi phối:xã hội quyết định con người. Tiếc rằng Marx đã cường điệu tính xã hội này đến mức cho nó choán toàn bộ nội dung con người, coi con người chỉ là tập hợp (ensemble) của các quan hệ xã hội (1). Khi đã định nghĩa con người như vậy thì nếu rút hết phần xã hội ấy đi, con người chỉ còn là con số zero, là hư vô!Vậy là duy tâm, siêu hình và phi lý! Song quan điểm cực đoan này không dừng ở đó. Con người đã không còn thuộc tính cá nhân, chỉ còn thuộc tính xã hội, nhưng xã hội theo quan niệm của Mác chỉ là những cuộc đấu tranh liên tiếp. Ông nói: Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp! (2). Qui tất cả mọi hoạt động xã hội của con người thành hoạt động đấu tranh giai cấp thì nội dung con người cũng chỉ thu vào trong nội dung giai cấp, có bản chất là con người giai cấp. Nhận thức này về con người là cơ sở để thiết lập nên chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở để hoạch định chương trình cách mạng vô sản và xây dựng CNXH. Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin, phần lớn nội dung là dành cho vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề con người chỉ được nói tới một cách sơ lược. Sau này ông Trần Đức Thảo có thuyết minh vấn đề này bằng quan điểm rằng:con người có hai bản chất: con người giai cấp là bản chất hàng một, con người nói chung là bản chất hàng hai. (3) Việc tập trung tinh lực của con người vào cuộc giành giật giai cấp, bỏ quên cả một thế giới phong phú nằm trong cá nhân và không chấp nhận có những mặt của xã hội nằm ngoài giai cấp đã làm cho con người trở nên nghèo nàn một cách đáng sợ! Học thuyết Khổng Tử lấy cá nhân làm gốc, học thuyết Mác lấy xã hội làm gốc, nhưng gặp nhau ở một yếu tố chung là đạo đức (những nhà lý luận Mác -Xít không thừa nhận điều này). Nếu Khổng Tử lấy việc tu thân làm gốc để toả ra làm tốt xã hội, thì Mác lấy việc tu xã hội (làm cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất)để mở đường cho việc làm tốt cá nhân. Chỗ giống nhau ấy là do đều xuất phát từ tinh thần nhân văn cổ điển, coi con người là tính bản thiện, chỉ cần diệt điều ác (tu thân)hoặc diệt cơ chế cá (đánh đổ CNTB)là con người hoặc xã hội sẽ trở nên thiện. Điểm giống nhau ở tất cả các trường phái nhân văn cổ điển là cần một đấng tối cao tiêu biểu cho cái thiện và toàn xã hội chỉ được hướng vào đấng tối cao và chí thiện ấy thôi. Xã hội bình trị của Khổng Tử sẽ được thực hiện nếu như có một minh quân biết đặt dân cao hơn xã tắc, xã tắc cao hơn ngôi vua. Xã hội ưu việt của Mác cũng sẽ được thực hiện nếu có một đảng tiên phong chỉ biết lấy lợi ích xã hội làm lẽ sống, ngoài ra không còn một lợi ích riêng nào khác!(và sau khi dành được quyền lực nó lại chủ động tổ chức xã hội sao cho quyền lực ấy có thể tiêu vong dần đi!). Một đấng tối cao lý tưởng như thế lúc nào cũng có mà lúc nào cũng không có. Có, vì nó đã được trời hoặc lịch sử trao sứ mệnh rồi, dân chẳng phải đi tìm, mà cũng chẳng có quyền bầu chọn!Không có, vì giữa cõi trần tục này kiếm đâu ra một thực thể lý tưởng phi lý như thế? Mác cũng như Khổng Tử đều không hiểu rõ con người, đều mất cảnh giác trước mặt trái của con người, nằm sẵn trong con người từ bản năng xa xưa, từ cõi vô thức của nó. Quan niệm nhân văn cổ điển ấy nhân đạo nhưng siêu hình, phi biện chứng và cũng không duy vật nên dầu có được bổ sung bằng hàng trăm giải pháp thực tế và dân chủ nó vẫn không thoát ra khỏi cái vòng ảo tưởng và độc tôn, độc đoán. Xã hội đi từ cái tâm thì không tới được cái tâm. Trải qua hàng triệu năm đau khổ con người mới nhận ra và buộc phải chấp nhận cái nghịch lý khó hiểu và khó chịu đó. Khi bàn về con người của phái Mác -Xít tôi không thể không liên hệ đến con người của phái Khổng Mạnh mặc dù có thể Mác không hề đọc Khổng Tử. Trí tuệ luôn là cái chung của nhân loại, nó phản ảnh những giai đoạn tất yếu của lịch sử tư tưởng nhân loại. Hai học thuyết về con người ấy vừa có chỗ giống nhau như in, vừa có chỗ ngược nhau, tương tự như phép biện chứng của Mác Ănghen so với phép biện chứng Hegel vậy. Có thể nói Mác đã công nghiệp hoá con người cá nhân đạo đức, nông nghiệp của đạo Khổng để nó trở thành con người xã hội và con người kinh tế (homo economicus) trên cái nền chung nhân văn cổ điển. Nhưng, như đã phân tích ở trên, theo quan niệm của Mác thì tính xã hội của con người là yếu tố quán xuyến, quyết định. Khi con người đã là con người xã hội thì yếu tố kinh tế của con người cũng phải mang tính xã hội, do đó tư liệu sản xuất của con người cũng phải xã hội hoá, điều này mâu thuẫn với sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản, cho nên phải phá bỏ chính chủ nghĩa tư bản để thực hiện sự công hữu hoá về tư liệu sản xuất. Đến đây ta thấy xuất hiện những vướng mắc về logich: -Mâu thuẫn giữa tính xã hội của sức sản xuất (trong đó có con người) và tính tư nhân của sự chiếm hữu là mâu thuẫn xuất hiện ngay từ đầu của CNTB, ngay từ đầu đã khôngcó sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất thì CNTB phát triển sao được đến như ngày nay? Theo Mác thì mỗi phương thức sản xuất trong lịch sử đều phải có một giai đoạn hoàng kim trong đó có sự phù hợp giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất. Vậy CNTB không có giai đoạn này sao? Vai trò của CNTB nằm ở quãng nào? -Có thực mâu thuẫn giữa tính xã hội và tính tư hữu là mâu thuẫn loại trừ nhau không? Việc xác nhận mâu thuẫn này có trái ngược gì với luận điểm cũng của Mác về sự chín muồi và tan rã đồng loạt của CNTB trên toàn thế giới không? °Nhận thức về con người của phái hiện sinh Hiện sinh không phải là một phái thuần nhất, nhưng thống nhất trong xu hướng khám phá con người cá nhân, và với hướng này nó đối lập với tất cả các môn phái triết học và tôn giáo trước nó và cùng thời với nó. Triết học và tôn giáo xưa nay đều đặt cá nhân con người bên cạnh những cá nhân khác, với mối quan hệ qua lại và trong trường tác động của các nguồn sức mạnh khác nhau như thần quyền, đức tín, lý trí, qui luật, đạo đức, lý tưởng... nghĩa là có những điểm tựa cho con người và không thể có tự do hoàn toàn cá nhân. Thoát khỏi bao nhiêu trói buộc hà khắc con người mới đạt tới độ tự do như con người của xã hội công nghiệp, lúc ấy con người cá nhân mới có điều kiện và mới dám nhìn vào bản thân mình, thấy mình hiện hữu và có quyền chỉ huy con người mình. Nhưng trong khoảnh khắc lịch sử cởi trói thiêng liêng ấy, cơn phấn khích đã làm cho một bộ phận xã hội đi quá đà, ngỡ mình đã được thả hoàn toàn tự do. Chủ nghĩa hiện sinh là tuyên ngôn của con người cá nhân, là một cuộc khởi nghĩa thất bại, nó còn ấu trĩ nhưng thiết tưởng chẳng nên ruồng bỏ, mà chỉ nên thương cho số phận con người (cũng như CN Mác -Lênin là tuyên ngôn của con người xã hội!). Sự đối địch giữa hai thái cực của nhận thức là điều dễ hiểu. Theo quan niệm hiện sinh, con người chỉ tồn tại đúng như nó đang hiện hữu, như một thực thể đơn độc riêng biệt bị vứt vào trong vũ trụ, nó tự chiêm nghiệm, tự hành động theo cá tính riêng của nó, rồi chết. Trong trạng thái tự do không có điểm tựa ấy nó thấy mình hoàn toàn có quyền chủ động lựa chọn con đường anh hùng hay hèn nhát, là con thú hay siêu nhân, hoặc thờ ơ vô cảm hoặc chán chường buồn nôn. Một bên tự do đến mức chẳng thấy xã hội đâu cả, một bên lại ràng buộc đến mức chẳng thấy cá nhân đâu cả. Nói con người là sự tập hợp tất cả những mối quan hệ xã hội thì có nghĩa là mọi ý nghĩ và hành động của cá nhân đều bị qui định bởi xã hội (xã hội có giai cấp thì sự qui định là do giai cấp!)không còn có chỗ cho tự do cá nhân, tự do chỉ còn nghĩa là tự giác làm theo qui luật, và trong bối cảnh các quan hệ xã hội như nhau, không có cá tính, như những đinh ốc trong một cỗ máy của công nghiệp. Một bên là sự lên tiếng của lý trí, ý thức, còn một bên là sự lên tiếng của bản năng, tiềm thức, vô thức, siêu thức. Một bên muốn liên kết mọi người thành một tổ chức để làm một cuộc cách mạng cho ngày mai, một bên lại rũ tung những con người ra thành một thế phân tán vô tổ chức, vô mục đích, chỉ biết có hiện tại. Đó là mâu thuẫn giữa người đang nhóm lửavà kẻ phá hoại vẩy nước lạnh vào. ° Nhưng đối với chủ nghĩa tư bản thì cả hai con người ấy đều là kẻ phá hoại. Chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển đòi hỏi có một khái niệm con người tương ứng với thời đại của nó. Chủ nghĩa Mác trả lời:Trong xã hội công nghiệp con người phải là con người xã hội, nó mâu thuẫn với chủ nghĩa tư bản nên phải phá bỏ chính chủ nghĩa tư bản đi!(Đây mới thật là gáo nước lạnh đổ vào chủ nghĩa tư bản!) Chủ nghĩa hiện sinh trả lời: con người bao giờ cũng là con người cá nhân!Mặc xác cái xã hội vô nghĩa của các anh!tôi làm việc của tôi! Cả hai câu trả lời đều negatif, chẳng câu nào ủng hộ chủ nghĩa tư bản cả!Vậy mà chủ nghĩa tư bản không bế tắc, không chết mà phát triển đến ngày nay, và phát triển như ngày nay!(Thực tế này không hề chứng minh cho quan điểm rằng chủ nghĩa tư bản là hoàn hảo, bất biến và vĩnh hằng!). Bởi vì sao?Bởi lịch sử không chờ các nhà lý luận cho phép hay không cho phép nó. Ghép hai câu trả lời negatif nói trên đã thành một câu trả lời positif cho lịch sử. Con người vừa là con người xã hội vừa là con người cá nhân, hai tính cách đó không những không loại trừ nhau mà còn là điều kiện của nhau. Muốn xây dựng một xã hội đầy tính xã hội như Mác mong muốn (và như các nước tư bản tiền tiến đang đi tới)hoàn toàn không cần phá bỏ tính cá nhân và tính tư nhân. Con đường xã hội hoá không phải là con đường xoá tư nhân mà là liên hệ các tư nhân một cách xã hội!Sự liên hệ đó gồm hàng trăm mối liên hệ đa dạng phức tạp, trực tiếp và gián tiếp, hữu hình và vô hình, và hình thành dần dần, tương ứng với trình độ khoa học của nền sản xuất. Chủ trương gom vào hợp tác. lấy qui mô hợp tác xã làm thước để đo tính xã hội là hiện thân của một ý niệm xã hội hoá còn sơ khai, cơ giới, thô thiển, phản qui luật chứ không phải chỉ là sự nóng vội. Một khi đã là điều kiện của nhau thì sự thủ tiêu sở hữu tư nhân chính là thủ tiêu khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội.