BÀI 1: BỐI CẢNH, THỜI GIAN, SỰ VIỆC. Sinh ra và lớn lên ai cũng có quê hương, dù có đi khắp năm châu bốn bể họ cũng đều nhớ về quê hương, có quê hương mới khôn lớn, nhớ quê hương mới nên người, tôi tự giới thiệu về quê hương đôi nét. Quê hương tôi tính theo đường đi từ Nam ra Bắc, quý vị khách bộ hành, du lịch, hoặc cô bác, anh chị em, bạn bè, con cháu, có dịp nào đó trên đường đi ngang qua địa phận Tỉnh Thừa-Thiên. Địa đầu ranh giới từ đèo Hải-Vân trở ra, nên để ý nhìn xem phong cảnh hữu tình, núi cao biển xanh cảnh đẹp như một bức tranh sơn thuỷ. Đi xe lửa qua khỏi đèo Đồng-Nhất đến ga Lăng-Cô, tàu chạy trên đường sắt men theo chân núi đến Hói Mít bên trái dãy Trường-Sơn, bên phải đầm Lập-An, tàu chui qua khỏi cái hầm ngắn đó là quê tôi. Nếu quí vị đi xe hơi xuống khỏi đèo Hải-Vân đến cầu Lăng-Cô cỡ 10 cây số là đổ dốc hết đèo Phú-Gia, nhìn bên phải có nhà dân cư dọc theo Quốc lộ 1 A là làng Phú-Gia, qua đoạn 150m bên phải có ngã ba Chân-Mây là con đường xuống hải cảng độ chừng 200m, áp sát đường hướng bắc đó là nhà ông Phan Tường em ruột của tôi. Cha mẹ tôi ngày xưa còn trẻ đã sinh ra tôi tại đây vào ngày 16 tháng 10 năm 1939, nhằm năm Kỹ Mão cầm tinh con mèo. Đó là nơi chôn nhau cắt rốn, có họ hàng, bà con, làng xóm quê hương tôi. Từ ngã ba Chân Mây chạy theo quốc lộ 1 A đến Thừa-Lưu xã Lộc-Tiến là xã quê tôi. Xuôi theo đường đến Nước Ngọt là xã Lộc-Thủy, qua đèo Phước-Tượng đến Cầu Hai huyện Phú-Lộc, huyện quê tôi. Tiếp nữa Đá-Bạc, Nong, Truồi, Phú-Bài, Hương-Thủy, An-Cựu, thành phố Huế tỉnh Thừa-Thiên là quê hương tôi. Khi tuổi ấu thơ và niên thiếu của tôi nằm trong thời kỳ thực dân phong kiến, phát-xít Nhật đổ bộ cướp nước đè đầu cỡi cổ. Kết thúc Đệ nhị thế chiến, Việt minh lên nắm chính quyền 1945. Qua 1946 tôi mới lên 8 tuổi, còn nhớ cha cõng chạy giặc, ban đêm leo lên núi Khe Hang để trốn quân Pháp tái chiếm Việt-Nam. Lúc này tình hình chính trị rất rối ren, toàn dân cả nước, phải nỗ lực đóng góp tối đa từ tinh thần lẫn vật chất, để cực lực chiến đấu chống quân Pháp. Quê hương tôi hướng đông giáp biển, hướng tây sát núi Trường-Sơn, làng nằm giữa, có đường quốc lộ 1 A và đường xe lửa áp sát với làng bên trái hướng tây. Thời chống Pháp trên địa thế này là vùng xôi đậu, ban ngày của Pháp, ban đêm của V.M. Nhân dân sinh sống rất vất vả, chật vật, bị uy hiếp đủ điều. Nhưng vẫn cứ bám đất bám làng để sống, góp phần chiến đấu anh dũng, chống quân Pháp suốt 10 năm gian khổ, đến 1954 mới được đình chiến, chứ chưa phải hòa bình độc lập. Trong khoảng thời gian nói trên, gia đình tôi rất khó khăn, năm sáu tuổi đầu đã biết ra đồng mò cua bắt ốc hái rau, để gia tăng bữa cơm đạm bạc hằng ngày, lợi dụng đi làm công việc nầy để nghịch bùn bơi sông tắm suối cho thỏa thích. Kỷ niệm một ngày anh em đi tát cá mò cua còn nhớ mãi suốt đời, tôi với anh Doãn con ông bác rủ nhau vào phía trong đường rầy xe lửa ngang cầu 8 thước, be bờ quanh một góc ruộng. Hai anh em hì hục tát hơn giờ đồng hồ mới cạn nước thì người đã mệt nhoài, đứng hết muốn nỗi nên phải ngồi bẹp xuống sình để mò cua bắt cá. Ông Doãn mò mãi mê thế nào mà một con đỉa trâu to bằng đầu chiếc đũa chui tuột vào hậu môn của ông, cảm giác nhột nhạt sờ tay nghe trơn lạnh. Anh kêu tôi: "Đỉa em ơi! Mi xem giúp tau hình như có con đỉa đang chui vào đít". Tôi vội vàng chạy lại bảo ông chổng mông lên để xem thì thấy nó đã chui vào hết hai phần con, chỉ còn thò bên ngoài cỡ một phần, nhìn kỹ đúng là một chú đỉa trâu, nhanh nhẹn thò tay dí hai móng bấm thật chặt cố gắng lắm mới kéo nó ra được. Hai thằng nhìn nhau sợ quá không dám mò nữa đi qua vũng cầu tắm rửa ra về. Nhớ lại những lời kể chuyện của bà nội, đỉa mà chui vào lỗ tai là nó ăn hết óc, rồi đẻ đỉa con đầy đầu, chui vào bẹn, vào hậu môn hút hết máu làm chết người, sợ quá từ nay về sau không dám ngồi bẹp xuống sình mò cua bắt cá nữa. Năm 1945, anh em tôi được 7 tuổi đời, bác cho ông Doãn đi học trường Dì Phước dạy cạnh nhà thờ Đạo Công-giáo của ông Cố Vị, Cố Phương ngoài Tam Vị. Từ nhà ra đến trường học độ chừng hai cây số có đi qua một cái cầu leo nguy hiểm, đi không cẩn thận là lọt tỏm xuống sông, bác gởi anh Doãn cho chị Xuyến và anh Khuê dắt qua cầu lúc đi cũng như khi về. Còn tôi đã đến tuổi đi học mà chẳng được đi, vì không người giữ nhà trông em để cha mẹ đi làm công việc đồng áng, một phần đường xá qua cầu nguy hiễm, nên cha mẹ tôi chưa cho đi học. Cách Mạng mùa thu năm 1945 dành được thắng lợi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, mới có phong trào bài trừ giặc dốt, Bác Hồ kêu gọi toàn dân phải đi học từ già đến trẻ bắt buộc phải đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ sở tham dự khoá học Bình dân học vụ, do Thầy khóa Nhượng dạy. Hồi đầu cha tôi mới học hai mươi bốn chữ cái, ông học được chữ nào về truyền dạy lại cho tôi. Thế là tôi được cha tôi làm thầy khai trí học vỡ lòng đầu tiên. Tôi học tới học lui hai mươi bốn chữ cái mà u mê đọc trước quên sau. Cha tôi có một cây roi mây nhỏ xíu bằng chiếc đũa, dài cỡ một mét rưỡi, đầu roi có chùm rễ xoè ra để ông cầm mà đánh. Một bữa nọ ham đi chơi rong quên hết, chiều ông đi làm về, khảo bài không thuộc, nổi nóng rút roi phết vào lưng lằn ngang lằn dọc đau điếng người. Mẹ thấy tôi bị ăn đòn sót ruột lắm, nhưng chẳng dám cự nự ông một lời để an ủi. Bà nghĩ rằng ông cũng thương con nên phải răn đe đánh đập cho nó nên người. Tháng 1 mùa Xuân năm 1946, trong xóm có hai ông bà, gia đình khá giả, mời gia sư dạy học trong nhà cho con cháu của họ, dạy cả chữ quốc ngữ lẫn chữ Hán. Được cha dẫn đến lớp học, trước xin hai ông bà chủ chấp thuận, sau gởi tôi cho thầy dạy dỗ. Đầu tiên thầy đặt tên cho tôi là Phan Vinh, thầy dạy lễ phép, chào kính người trên kẻ dưới, đã là học trò không được nghịch phá, tham lam, trộm cắp của bạn bè, phải đoàn kết thương yêu chỉ vẽ lẫn nhau, biết thi đua học tập cho tốt. Thế là năm nay tôi mới được ngồi lớp học tại trường có thầy giáo dạy, nói là trường chứ một gian chái gạnh ra bên hông nhà trên của hai ông bà chủ, kê mấy bộ bàn ghế thô sơ, cả lớn bé đều ngồi chung một lớp. Học với Thầy Khóa Nhượng được tám tháng tập viết chữ ghép vần tiếng Việt, xem sách chữ in chưa thông suốt, thì thầy xin nghỉ dạy về quê hương gia đình của thầy ở làng Thổ Sơn. Khi thầy còn dạy học tại làng Phú-Gia, tuổi thầy đã cao nên già yếu, ngày thì dạy lớp học trẻ từ sáng đến tối mới được nghỉ. Một lớp học trên dưới khoảng hai mươi trò lớn nhỏ, trình độ cao thấp khác nhau, thầy soạn bài viết bài cũng vất vả, tối lại bắt buộc thầy phải đi dạy học bình dân học vụ, sức thầy chịu đựng không nỗi, nên thầy xin ông bà chủ cho nghỉ về nhà. Không còn thầy dạy sự học của tôi bị gián đoạn từ đây, ở nhà đi chơi long nhong. Dạo nầy em gái tôi đã biết bồng em giữ nhà nấu cơm, tôi giao việc cho em tôi làm, chạy rong nghịch phá. Cha tôi thấy vậy, đến gia đình cùng xóm có một bầy trâu rất đông, năn nỉ hai ông bà chủ xin chăn rẽ một nái để gầy giống và cày ruộng, đẻ nghé con thì chia ba, chủ hai còn người chăn giữ một. Được ông bà chủ chấp thuận, làm giấy hợp đồng dắt trâu nái mẹ về nhà, bắt đầu tôi được làm mục đồng chăn trâu không còn rảnh rỗi đi chơi rong lêu lổng nữa. Làm mục đồng chăn trâu có nhiều bạn bè cũng thích thú. Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ, được ngồi lưng trâu, được sờ đuôi trâu. Hằng ngày được ngồi trên lưng trâu di chuyển một vài cây số là thường. Khi đến bãi chăn thả, bày ra các trò chơi như: đánh đu, đánh đáo, đánh bi, đá cầu, đá bóng, múa gươm múa gậy, chạy ô ba, xúi nhau vật lộn, nghịch ngợm đủ thứ v.v... Tôi đi chăn liên tiếp ba năm, trâu mẹ đẻ cho được hai chú nghé đực, một con ba tuổi, một con hai tuổi mập mạp dễ thương, tôi yêu mến chúng lắm. Tháng 9/1950 lính Pháp mở cuộc hành quân ra xóm Tre, xóm Đình làng Phú-Gia. Không hiểu mấy ông du kích địa phương dàn trận đánh thế nào bị thất thế để chúng vây bắt được một ông, trói tay dắt về đồn Thừa-Lưu theo đường quốc lộ 1 A. Lính Pháp nhìn thấy năm bầy trâu chăn gần đường lộ ngã ba Chân-Mây bây giờ. Một ông quan hai người Pháp chỉ tay vào đàn trâu đang gặm cỏ la om sòm, ra lệnh cho mấy tên Việt gian đi theo Pháp lội xuống ruộng dí súng bắt anh em tôi đánh hết trâu về đồn, nó lấy cái cớ trong làng có V.M. Lùa hết năm bầy trâu lên đồn Thừa-Lưu nhốt hết vào trong hàng rào đồn luỷ của chúng, đóng chặt cổng trại rồi đuổi anh em tôi đi về. Tôi tiếc nuối buồn rầu, lủi thủi ra về vừa đi vừa khóc, vì thương hại cho hai con nghé bé dại yêu quí của tôi. Hai anh em tôi với ông Sinh về đến cống Gạo tai nghe phía sau có tiếng xe chạy. Ngoảnh lại nhìn thấy một chiếc xe Dodge chở đầy lính súng đạn mã tấu, mấy anh lính người Việt kêu to: Ê, hai thằng tê. Tôi tưởng nó cho quá giang về làng, hai anh em co giò chạy theo cỡ năm mươi mét, xe nó từ từ dừng lại tại cống Gạo ngang xóm Rú là xóm Núi, dắt xuống xe hai người bịt hết con mắt đưa xuống bờ ruộng gần suối để đứng tại đây. Mấy thằng lính người Việt nói hai thằng mầy đứng đó coi tụi tau cho hai thằng V.M. về chầu Diêm vương. Tụi lính đánh thuê cho Pháp toàn người Việt, cả một tiểu đội nó nằm sấp xuống đường lộ, ôm súng Mas 36 lên đạn nghe rốp rốp. Thằng quan Tây ra lệnh bắn, chúng bóp cò súng nổ liên thanh, đạn bay trúng vào người của hai ông nhảy cẩng lên trời rồi nhào đầu xuống đất dẫy chết. Tụi nó buông súng, xách mã tấu chạy xuống bờ ruộng chặt đầu. Tôi nghe tiếng mã tấu chạm xương cổ kêu cốp cốp. Khi đầu lìa khỏi xác chúng xách lên đường, leo lên chạng ba của cây mù u lớn trồng bên đường lộ để đầu lên đó, nhét vào miệng mỗi ông một điếu thuốc lá trắng lốp, rồi tụt xuống leo lên xe tài xế lái chạy về đồn. Ông Sinh nhìn thấy có run hay không lúc ấy tôi chẵng để ý. Riêng tôi thì mặt mày tái mét run cầm cập hồn vía bay hết lên ngọn cây. Thật căm thù cho cái quân độc ác, người Việt giết người Việt, tôi ngao ngán cho đời có chiến tranh xâm lược. Anh em lủi thủi đi về mà thương tiếc tội nghiệp cho hai ông ấy. Đêm hôm đó hễ tôi nhắm mắt ngủ là mơ màng ác mộng trước mắt nhan nhãn cảnh tượng hiện ra khi mình được chứng kiến sự giết người tàn bạo của bọn thực dân Pháp. Ngày hôm sau có một số cụ già lụ khụ 65 tuổi trở lên 70, 80 tuổi, mặc quần dài trắng áo dài đen, chân mang guốc, đầu chít khăn đóng, che dù đen đội nón trắng, rủ nhau cuốc bộ lên Đồn Thưà Lưu xin lại năm bầy trâu. Nghe mấy cụ đi về kể lại tụi Pháp không thèm tiếp, nên chẳng thương lượng gì được. Cách năm sáu ngày sau, vì trâu bị nhốt lâu ngày quá đói khát, phần nó sợ giết thịt, nên ban đêm xé rào tẩu thoát về làng. Mỗi bầy bị giết hai hoặc ba con trâu tơ mập, để tiếp tế cho lính Pháp ăn khắp cả địa bàn đồn trú trong huyện Phú-Lộc. Bầy trâu của tôi gồm ba con hai chú nghé dễ thương của tôi đã bị chúng giết thịt, chỉ còn lại con trâu mẹ già ốm về được. Tháng giêng năm sau bị một trận dịch nó cũng chết luôn, thế là toi cơm mấy năm chăn dắt dãi dầu mưa nắng. Tháng 2 năm 1951, khủng hoảng kinh tế gia đình vì quân Pháp chẳng cho cày ruộng, cấy lúa trong đường quốc lộ 1 qua đường xe lửa giáp chân núi, vì chúng sợ phá đường giao thông xe tàu. Hết gạo ăn, thất nghiệp đói khát khuẩn bất, cha tôi cũng trốn làng vào Lăng-Cô theo bác tìm việc làm kiếm sống, tiết kiệm tiền gởi về cho mẹ nuôi anh em tôi. Vào được Lăng-Cô cha tôi nhờ bác kiếm việc, xin với ông Cửu Sang làm bốc xếp các đốt gỗ to tướng do trâu bò kéo trên rừng về để tại ga tàu lửa Lăng-Cô. Ba đến bốn chục người mới lập thế kéo lên toa tàu được một đốt súc Chò-chai to tướng nặng trịch, để ông chủ đưa vào Đà-nẵng hoặc ra Huế bán cho các trại mộc đóng đồ gỗ, mới có tiền mang về phát lương cho cu-li. Còn mẹ tôi ở nhà đi khắp làng tìm hỏi mua tre chặt vác về, cây dài cưa làm bốn, cây ngắn cưa ba, tuỳ theo thước tấc mà cưa cho phù hợp, bó lại đưa lên vai vác đi, đến ga Thừa-Lưu bỏ lên toa tàu, mua vé và cước phí, rồi chở vào ga Lăng-Cô bán lại cho mấy ông thuyền chài để họ đan dụng cụ đi làm nghề, kiếm tiền lời về đong gạo nuôi con, cứ sáng đi sớm chiều về nhà với con cái. Có bữa mua không có tre thì chặt một cây chuối nặng trịch một chuyến vác. Năm nay có chị Hai con của bác Cả chồng chết sớm không có nhà ở, một tay phải nuôi hai đứa con trai còn bé dại, ở chung trong nhà. Sáng sớm thím cháu vác chuối đi với nhau. Chị Hai khỏe hơn vác cây to, mẹ yếu hơn vác cây bé vừa, phải đi năm cây số mới đến nhà ga xe lửa, bán cho thương lái mua chở vào Lăng-Cô bán lại cho các người nuôi heo. Thời ấy nuôi heo mọi cho ăn toàn rau lang và chuối cây, làm gì có thực phẩm hỗn hợp như bây giờ. Mẹ và chị bán được tre và chuối thì đong gạo về ăn được trong ngày, mai lại đi làm tiếp, cứ thế mà cứu gia đình qua khỏi cơn đói khát ngặt nghèo. Thời gian cha vào Lăng-Cô làm việc, ở nhà nhớ cha quá, xin mẹ cho đi theo vào ga Lăng-Cô thăm cha. Xuống tàu đi đến chỗ cha đang bốc cây, thấy cha lao động nặng nhọc vất vả thương cha quá. Một hai lần đầu vào thăm cha xong lên tàu về lại với mẹ. Lần sau nữa xin cha ở lại, ở với bác, chiều tối cha đi làm về ăn ngủ với cha. Mấy ngày sau cha đi làm, tôi ở nhà theo ông Doãn sang ga Lăng Cô bán nước cho lính Pháp đi lại trên xe lửa. Anh Doãn thì khôn ngoan lanh lẹ hơn, anh chỉ vẽ cho mà làm, đi săn nhặt vỏ chai thuỷ tinh, súc rửa cho sạch, hái lá bàng non vò nát nấu đậm đem pha trộn với nước lã cho có màu nâu lợt giống nước chè, đổ vào chai đóng nút kỹ, năm bảy chai bỏ hết vào giỏ mang đi rao bán. Chẳng thấy thằng Tây nào chịu mua bằng tiền, nó chỉ trao đổi mà thôi, nó đổi cho phong bánh Bítqui, bánh kẹo, ổ mì, hộp cá hoặc hộp thịt nhỏ, nhiều ít cũng đổi. Có một vài thằng Tây xấu bụng kêu đưa nước cho nó, nó đỗ đầy binh đông, rồi nó đuổi mình đi chổ khác chẳng cho cái gì, hận quá chữi đ. m. mi, nó chẳng hiểu mình nói gì. Hôm nào lính Pháp đi hành quân đông trên tàu đổi được nhiều thứ. Cái nào còn nguyên vẹn bao bì tốt, đem bán lại cho mấy mụ bán quán lấy tiền, thứ không có bao bì thì để dùng hoặc mang về nhà cho các em. Tháng 5 năm 1951, đến mùa lúa chín ở quê, mẹ bắt tôi vào Lăng Cô kêu cha trở về làng thu hoạch vụ mùa đông xuân, cha con cùng về với nhau, dạo nầy không vào ở Lăng Cô nữa. Thỉnh thoảng cha con vào thăm hai bác và các anh chị một bữa, rồi trở lại sinh sống với xóm làng. Mùa xuân năm 1952, thầy Khóa Sinh mở lớp dạy học hai thứ chữ Hán Việt, ai muốn học chữ gì tuỳ ý thầy vẫn dạy. Con nhà khá giả xin học cả hai thứ, tiền thầy mua sắm giấy bút phải gấp đôi. Nhà nghèo nên cha chỉ nhờ dạy một thứ chữ Việt mà thôi. Mẹ mua sắm cho đầy đủ giấy bút, may cho một bộ áo quần mới, một cái mũ đan lát thủ công bằng sợi cói, để đội đầu đi học che mưa nắng. Cha dắt đi đoạn đường năm cây số mới đến nhà ông Bân tại xóm Bàu làng Trung-Kiền nơi thầy dạy học gởi cho thầy. Tại xóm Chùa tức là xóm của tôi ơ, dù chỉ có tôi với ông Khảm được cha mẹ cho đi học mà thôi, các bạn trang lứa vì nhà quá nghèo không có cơm rau để ăn, còn nói gì đến việc học hành, chỉ cho đi ở chăn trâu bò cho các nhà giàu kiếm cơm ăn để sống mà thôi. Dạo nầy tôi với bạn Khảm sáng sớm cơm nước xong, cắp sách đội nón, mang theo một bữa cơm trưa, cuốc bộ bằng hai bàn chân trần năm cây số mới đến trường. Lớp học đến trưa nghỉ ăn cơm, học lại buổi chiều, vì đường xa thầy cho hai anh em được ưu tiên nghỉ sớm, lại cuốc bộ năm cây số mới về thấu nhà. Cứ ngày qua ngày hai đứa cuốc bộ mỗi ngày mười cây số, mỗi tháng chỉ được nghỉ hai ngày rằm và mồng một Âm lịch. Theo học một năm với thầy Sinh biết đọc biết viết, biết làm những bài toán cộng trừ. Mùa xuân năm 1953, thầy khóa Thúy ở làng Bình-An lên mở lớp dạy học ở làng Thổ Sơn ranh giới sát làng Phú-Gia gần đường đi hơn, nên tôi từ giã thầy Sinh về học với thầy khóa Thúy. Ông Khảm cũng theo tôi học thầy mới bỏ thầy cũ, hai anh em tôi học cùng lớp chữ quốc ngữ. Thầy khóa Thúy dạy tốt hơn thầy khóa Sinh, ông nầy dạy giỏi, học trò dễ hiểu, mau tiến bộ. Học với ông được năm tháng, đến tháng 6/1953, chợ Thừa-Lưu ban đêm tự nhiên bị hỏa hoạn thiêu rụi, phải kiến thiết lại chợ mới. Xã nhờ thầy viết văn tế lễ Khánh thành chợ, viết bằng chữ Hán. Không biết thầy viết những gì trong tờ văn tế mà bị vi phạm chính trị, thầy bị bắt đi tù. Thế là anh em tôi phải nghỉ học, vừa tiếc nuối mình bị nghỉ học dỡ dang, vừa thương thầy không biết thân phận thầy tù tội nơi đâu mà thăm viếng. Văn chương phú lục chưa hay, không thầy dạy chữ, phải học cày cho xong. Tôi lại tiếp tục đi chăn trâu cày ruộng. Mùa xuân năm 1954, chiến tranh gần ngày kết thúc rất ác liệt. Lính Pháp đốt hết nhà cửa, cưỡng bức cả làng phải di cư lên làng Trung-Kiền khu vực trảng trống, cho ở tập trung tại đây, chia lô cất lều trú ngụ. Được cha cho học lại với thầy Sinh ít tháng, thì Pháp bị Việt-Minh đánh bại tại Điện Biên Phủ ngày 07.5.1954. Đôi bên được lệnh đình chiến do hội nghị Giơ-ne-vơ (Thuỵ-Sĩ). Cả làng được cho về lại chốn cũ làng xưa, tôi cũng tạ từ thầy về làng nghỉ học. Năm nay tôi vừa được mười sáu tuổi đời, cùng cha dỡ lều, chuyển về làng sinh sống. Tuy hoà bình nhưng đất nước vẫn còn chia đôi lãnh thổ. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, miền Nam từ vĩ tuyến 17 cầu Hiền-Lương trở vào. Mỹ đưa cụ Ngô về làm Thủ Tướng miền Nam, cũng mở ra chiến dịch và các chính sách để ổn định lòng dân, viện trợ cho dân nghèo đói, xóa nạn mù chữ v.v... Thời gian nầy anh Sanh còn trẻ tuổi đẹp trai, con nhà giàu học giỏi. Anh tự nguyện làm việc nghĩa, đứng ra mở lớp dạy học bình dân ban đêm cho con em mù chữ trong xóm chùa, học tại nhà ông Đê, mệ Đỉu. Ban ngày đi làm ăn, tối tập trung lại anh dạy cho học đến 23 giờ mới giải tán ra về. Trong lớp học được bốn anh em có trình độ hơi khá ngang nhau, anh tách riêng ra Phan Vịnh, Trịnh Quyền, Lê Diên, Hứa Khảm dạy riêng chương trình học cao hơn và khuyến khích thi đua để học tốt. Trong thời gian thọ giáo với anh trình độ văn hoá của tôi và các bạn cũng được nâng cao lên một ít, dù ít hay nhiều tôi cũng nhớ ơn anh ấy. Cho dù một chữ cũng thầy nửa chữ cũng thầy, nhờ vậy mà khi vào đời, đi xa gia đình, cũng có mang theo chút ít văn hóa tối thiểu để làm hành trang xử lý cho đời mình. BÀI 2. MÁI NHÀ XƯA LÀNG XÓM CŨ Từ năm 1955 đến năm 1959 tôi vẫn sinh sống với gia đình làng xóm tại quê hương. Khi đã được hồi hương về xóm cũ làng xưa, cha tôi dựng tạm lên một túp lều tranh cỏ che mưa nắng tạm thời để lo bắt tay vào việc đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ. Ba tôi ngày đi làm lụng tối lại phải tập trung đến trụ sở tham dự khoá học mái ngói có tường gạch của ông bà Sắc Đ... Ông bà biết thương lượng xin với Pháp nói là cái nhà thờ của gia tộc, nên nó tha không đập phá, sau ngày đình chiến gia đình ông bà hồi hương về ở tốt lành nguyên vẹn, chỉ có một vài vết đạn nhỏ không đáng kể. Toàn cả làng ai cũng dựng túp lều ở tạm, làng yêu cầu xã cho phép lên rừng khai thác gỗ về cất lại nhà ở được chấp thuận. Trong khi đi khai thác phải làm đơn Thôn trưởng chứng thực mang lên Xã phê chuẩn thuận cho, mới được mang theo lương thực ở lại ăn làm. Nếu ai không xin tự tiện mang lương thực đi bị Công an chế độ cũ xét gặp quy cho tội tiếp tế V.C, bị tù mục xương. Mỗi đợt đi làm phải xin phép gia chủ gánh theo lương thực, thợ rừng mang theo rìu, rựa, cưa, đục. Lộ trình phải chui qua hầm tàu lửa Phú Gia, thẳng đường rầy vào đến khe Bạch-Xà leo dốc núi đi mãi cho đến trại Hang. Đây có một cái hang đá to ở được, mới dừng chân hạ trại ở lại cả tuần lễ, đốn hạ cây to cưa xẻ ra thành kèo cột phách gỗ, đục lỗ bịn xỏ dây cột chặt kéo xuống núi vác ra đầm kéo về gần cửa hầm tàu mới vác vai đi về nhà. Đoạn đường đi trên núi dốc và dưới đường đằm ước chừng hơn mười cây số. Cha tôi thuê mướn thợ rừng đi khai thác bảy tám lần mới đủ nếp nhà, vì làm nhà rường theo kiểu Huế cổ điển nên kèo cột nhiều lắm. Cây gỗ đã đủ mướn thợ mộc ông bộ Hòa làng Thổ Sơn làm thợ cả, ông Tỏ học trò phụ, hai ông cặm cụi cưa bào đục đẻo hai tháng trời mới dựng nhà lên được. Cha mẹ cũng chuẩn bị tấm lợp bằng cỏ tranh đánh hom sáu chải chuốt sạch sẽ, dây buộc lạt lợp cả năm sáu tháng trước mới đầy đủ. Sườn nhà cây gỗ được thợ mộc bào trơn đóng bén, mái lợp sạch sẽ gọn gàng, trông lên cũng mát mắt, vây xung quanh sườn tre tráp tranh lát kín đáo, được tạm ổn cả nhà ở khỏi sợ các cơn mưa bão khắc nghiệt tại miền Trung. Lúc này anh Sanh được làng bầu làm Thôn trưởng nên nghỉ dạy học, anh em tôi cũng nghỉ học. Thời gian nầy ngày tôi đi làm việc nhà, tối phải xuống xóm tre nhà mệ Tình để dạy cho các em nhỏ học bình dân, những em nhà nghèo không có điều kiện đến trường. Anh Sanh làm Thôn trưởng chỉnh đốn tổ chức lại, phân chia làng ra bốn liên gia, mỗi liên gia phải bầu một liên gia trưởng, tổ chức các đoàn thể thì có các lão ông, lão bà, nông dân, phụ nữ, mỗi đoàn thể phải bầu Ban Chấp Hành để lãnh đạo. Đầu tiên tôi được bầu Chấp hành Thiếu niên. Năm 20 tuổi sung vào đoàn thể thanh-niên, tôi cũng được bầu làm Ban chấp hành Thanh niên. Làm chức vụ nầy thỉnh thoảng nhận được giấy mời đi họp đại hội tại Xã, phải cuốc bộ năm cây số mới đến địa điểm họp, thường tôi chọn một chỗ ngồi sau cùng để an toạ. Cán bộ xã khai mạc cuộc họp tôi chỉ lắng tai nghe thuyết trình thao thao bất tuyệt, nghe hơi êm tai gió bên ngoài thoang thoảng thổi vào phòng họp hiu hiu mát mẻ, tôi đánh một giấc ngủ. Ngủ gật mê man ngon lành, không đề nghị không ý kiến cho đến khi bế mạc ra về. Khi có Lễ Song Thất hoặc Quốc khánh 7/7, 26/10... nhiệm vụ phải sắp chữ dán băng rôn những câu tung hô và đả đảo, tôi không tiện viết ra đây đọc kỳ lắm. Mỗi khi đi dự lễ tôi phải thân hành vác băng cờ khi đi cũng như khi về, chỉ làm tay sai cho các cấp lãnh đạo thôn và đoàn thể. Ăn cơm nhà vác ống loa hàng tổng, chẳng có được một tiếng khen ngợi, quyền hạn gì cả, thêm mất công bỏ việc của gia đình. Đôi khi báo với cha ngày mai con bận đi họp, nhìn nét mặt của cha thấy ông không được vui, nhưng chẳng nói gì, tôi hiểu ông chẳng phải nể nang gì tôi, mà ông chỉ sợ mang vạ vào thân vu cho cái tội phản đối chế độ.