Phùng Lư Châu trang trọng quì trước tượng Bồ Tát Phổ Hiền trong điện Vĩnh Minh Hoa Tạng thành tâm phát nguyện. Lễ xong chàng thong thả bước ra ngoài ngắm cảnh. Mặt trời đúng ngọ cao vút chiếu ánh nắng rạng rỡ trên đỉnh núi cao tỏa thành vòng hào quang bảy màu lung linh kỳ diệu. Hiện tượng Phật Quang vô cùng mầu nhiệm, Châu chiêm ngưỡng với niềm an lạc vô biên, chàng cảm giác như Bồ Tát đã chứng giám lòng thành của mình. Châu thanh thản bước đến “vách đá xả thân” cheo leo, chàng mĩm cười tung nắm đá vụn xuống vực thẩm. Lơ đễnh nhìn theo mớ đá long lanh rơi xuống đáy sâu hun hút, Châu bỗng mơ màng nhớ lại quãng đời qua...Lư Châu vốn là con trai duy nhất của một gia đình khá giả tại huyện Phật Đô, thị xã Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Cha mất sớm, Châu là cháu đích tôn được nội tổ thương yêu đùm bọc. Bà nội cưng cháu thường dẫn đi lễ chùa, Châu lễ lạy thuần thục và thuộc kinh rất nhanh, nên ai cũng khen thằng bé có tâm đạo. Một hôm, bà cháu đi lễ chùa Chiêu Giác tại Thành Đô, bỗng có vị sư tu hạnh khổ đầu đà, dáng dấp khật khùng bất thần vỗ nhẹ trán thằng bé rồi lên tiếng: “Hà! hà! Thằng bé Phùng lư Châu nầy quả có tên tiền định! Nè dầu ở châu nào thì cũng phải nhớ tu tập con nhé! Con không xuất gia đầu Phật thì thiệt thòi cả đời đó!”. Nghe lời nói kỳ dị nầy, nội lo sợ nên nghiêm cấm Châu lai vãng đến cửa chùa, dù là đến chùa để học chữ nghĩa. Thời bấy giờ, việc đào luyện nhân tài được giao cho chùa, chùa biến thành chốn học đường chuyên dạy cả tam giáo: Phật, Nho và Đạo. Thế nhưng nội nhất quyết rước thầy đồ về nhà dạy Châu học, nội chủ trương chàng chỉ cần có chút ít vốn liếng chữ nghĩa để bảo quản cơ nghiệp tổ tiên, chớ đâu có mộng đỗ đạt ra làm quan mà phải chánh thức đến chùa đi học. Đang hồn nhiên vui sống, bất ngờ nội tổ bạo bệnh qua đời, chúc thư của người lại biến mất. Chú ruột của Châu, xưa nay thương yêu cháu như con đẻ, bỗng nhiên lại ra vẻ xa vắng khác thường. Một hôm, viện cớ không đâu, chú giận dữ xua đuổi mẹ con Châu ra khỏi ngôi nhà hương hỏa, ngôi nhà mà đáng lý ra thì Châu, cháu đích tôn đương nhiên được thừa hưởng. Mẹ Châu dẫn con thơ lên huyện đường khóc lóc khẩn cầu cứu xét, nhưng viên quan, chẳng biết vì lý do mờ ám gì, lại về phe với người chú, phủ nhận tư cách thừa kế của Châu. Thua buồn, mẹ Châu dẫn con về quê ngoại tại bến Tào ngư Than, huyện Hồng Nhã, tỉnh Tứ Xuyên nương náo. Bà bán mớ tư trang còn lại, tạo được ngôi nhà khiêm tốn cùng với thửa vườn trồng lê hai mẫu. Không quen nếp sống chân lấm tay bùn đồng quê, bà giao vườn đất cho Triệu Ngũ, cháu trai con của người anh thứ hai, coi sóc để chia một phần hoa lợi, nhờ vậy cũng tạm đủ sống đắp đổi qua ngày. Tai họa nầy lại tiếp theo tai họa khác. Niềm phẩn uất khôn nguôi khiến bà mẹ lâm trọng bệnh, rồi chỉ trong vòng hai năm sau thì qua đời. Khổ đau chán nản tột cùng, Châu lẩn quẩn trong đầu ước vọng được chết, vì chỉ có chết thì họa may cái thân bèo bọt nầy mới không còn bầm dập. Thế nhưng, chàng vẫn phải gắng gượng sống, sống để báo hiếu, cư tang chăm sóc mồ mả mẹ ba năm, rồi sẽ “thả trôi đời mình ra sao thì ra”. Từ nhỏ Châu vốn không gần gũi bên ngoại, nên khi về sống địa phương nầy, chàng cảm thấy rất cô đơn, không ai thân thiết để bày tỏ nỗi niềm riêng. Châu chỉ biết tiêu sầu bằng cách thả thuyền trôi trên giòng Thanh Y lơ lửng, hay lang thang khắp các đỉnh núi Hồng Nhã, mơ mộng gởi hồn mình theo gió theo mây chập chờn trôi vào chốn không gian vô tận. Trên non cao, mở rộng tầm mắt hướng về bốn phương trời xa tít, Châu thường bị thôi thúc bởi ước mơ làm kẻ phiêu lưu lang bạt giang hồ, chớ không muốn chôn chặt cuộc đời mình ở xó quê hương hẹp té nầy. Đó là lý do khiến Châu thỉnh thoảng trèo lên đồi Thanh Mục viếng Tiên Thiên các, tham kiến chư vị đạo sĩ để thưa hỏi về pháp tu trường sanh bất tử, về cảnh Bồng Lai và thú tiêu dao sơn thủy của đạo gia. Rất tiếc, chư đạo sĩ quá bận rộn với việc cúng tế cầu đảo nên chẳng ai phí phạm thời giờ giải đáp những câu hỏi vớ vẩn của kẻ vô danh tiểu tốt như chàng.Vừa mãn tang mẹ, để chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến viễn du, Châu đi một vòng từ giã thân nhân thì bỗng khám phá rằng mẹ và người dì thứ tư đã có lời kết ước xuôi gia ngay khi chàng và cô em Hồng Ngọc còn tấm bé. Điều cực kỳ hứng thú là “tiểu Ngọc”, năm năm về trước chỉ là con bé đen đủi tong teo như cây sậy, mà nay lại biến thành một thiếu nữ xinh đẹp mặn mà, khiến chàng vừa thoáng thấy dung nhan thì đã điên đảo tâm thần... Dì Tư ngọt ngào nói:- Mấy năm qua, dì dượng luôn canh cánh nhớ lời nguyện ước năm xưa, muốn sớm tác hợp lương duyên cho hai con để thỏa lòng chị ba nơi suối vàng, nhưng chờ mãi đến nay mới đề cập tới vì phải chờ con mãn tang mẹ!Niềm hạnh phúc vô biên đột ngột tràn ngập khiến Châu ràn rụa nước mắt, chàng ấp a ấp úng thật lâu mới thốt nên lời:- Tạ ơn dì dượng thương con, nhưng khổ nỗi ngoài chiếc kiềng và đôi bông vàng mẹ để lại, con đâu dư tiền để tiến tới hôn nhân...- Tiền bạc đã có dì dượng bù đắp, con hãy yên chí! Vã chăng chuyện hôn lễ đâu có vội vàng gì, chuyện mà dì dượng quan tâm là tương lai sự nghiệp của con. Dượng con thường buôn bán đi lại Lạc Sơn nên nghe tin viên huyện quan Phật Đô cũ đã bị cất chức. Quan huyện mới đang truy cứu những chuyện mờ ám ngày trước, một cơ hội thuận tiện để con có thể kiện đòi lại tài sản của nội tổ con. Đây mới là chuyện cấp bách phải giải quyết ngay, con biết không?Đang là kẻ cô đơn sống dở chết dở, tương lai đen tối mù mịt mà bỗng dưng được dì dượng đề ra phương cách phục hồi tài sản, rồi lại ưu ái hứa gả con, Châu xúc động nước mắt ràn rụa lắp bắp:- Dạ! dạ!...- Ơ! dượng con sẽ đi Phật Đô dò la manh mối! kiện thưa thì phải chấp nhận “chi tiền”, chi bao nhiêu cũng được, miễn là được việc cho mình thì thôi!... Ơ! chi phí hao tốn thế nào, dì dượng cũng ứng trước cho con được màø!- Con khờ dại chẳng hiểu biết gì cả! con xin dì dượng thương mà thu xếp mọi việc cho con!Phó thác cả đời mình cho dì dượng thì đâu còn gì phải lo lắng nữa, Châu an tâm thụ hưởng tối đa cái hạnh phúc trên trời vừa rớt xuống. Suốt ngày, Châu chỉ có “trách vụ” duy nhất là kề cận bên tiểu Ngọc để săn sóc, nâng niu, chiều chuộng nàng mà thôi. Dì cũng dễ dãi để Châu tùy tiện đưa tiểu Ngọc dạo chơi đây đó. Hai người tự do tay nắm tay tung tăng dìu nhau trên đỉnh đồi vắng vẻ tỉ tê tâm sự, bơi thuyền đùa giỡn trên giòng Thanh Y hay tham gia hát hò trong các vụ hội hè đình đám vui nhộn. Phiên chợ Tết huyện Hồng Nhã ồn ào náo nhiệt, đôi trẻ tíu tít theo làn sóng người say sưa ngắm nhìn những gian hàng hoa trái chưng bày sặc sỡ, Châu chọn được một cành đào xinh xắn, trà và vài loại bánh mứt cho nhà vợ. Khi viếng gian hàng tơ lụa, tiểu Ngọc hớn hở ướm thử từng bộ quần áo đắt giá. Nhận thấy nàng tỏ vẻ thèm thuồng chẳng muốn rời chiếc áo gấm màu mạ non thêu những đoá phù dung màu hồng sắc sảo, vượt quá xa túi tiền của mình, Châu ngượng ngập khẽ nói: “Em ráng chờ một thời gian nữa, anh mà đòi được gia tài thì một chục bộ anh cũng thừa sức mua cho em mà!”. Tiểu Ngọc chán nản dợm rời bước, thì bỗng nhiên có tên công tử ăn mặc diêm dúa đứng cạnh đó chận nàng lại, vênh váo lên tiếng:- Hà hà! tên đó không tậu nỗi cho cô em áo gấm đó, thì đã có ta đây sẵn sàng lo cho cô em mà!Thấy tên công tử giở giọng sàm sỡ, Châu giận tím gan, nhưng vì cạnh hắn còn có hai tên thuộc hạ “bặm trợn”, nên chàng đành nhịn nhục kéo tiểu Ngọc đi ra. Nào ngờ, tiểu Ngọc khờ dại tưởng kẻ lạ là người tốt bụng nên ngây thơ đối đáp:- Xin cảm tạ lòng tốt của công tử! Nhưng em và công tử chưa quen biết nhau thì làm sao em dám nhận quà!- Trước lạ sau quen! cớ sao cô em lại ngại ngùng?- Không! em không nhận đâu!Châu lôi Hồng Ngọc đi một quãng rồi, mà tên công tử vẫn bám theo, lải nhải tán tỉnh:- Cô em dễ thương làm sao! Xin cô em cho tôi biết quí danh và quê quán, nội ngày mai gia nhân của tôi sẽ mang quà đến cho cô!- Ơ! em họ Trần, tên Hồng Ngọc ở Tào ngư Than. Em không nhận quà của công tử đâu! xin công tử chớ bận lòng!Trên đường đưa người yêu về nhà, Châu cằn nhằn thái độ dễ dãi của nàng đối với hạng người vô lại, và do đó hai người đã gay gắt to tiếng với nhau. Ngọc cứ ngoan cố cho rằng tên công tử là hạng hào hoa phong nhã và trách ngược lại là Châu đã thô lỗ nổi máu ghen tuông vớ vẩn. Châu giải thích thế nào nàng cũng không chịu hiểu. Giận dỗi, Châu tự dặn lòng rằng sẽ chẳng bao giờ tìm gặp nàng nữa. Thế nhưng, chỉ ngay ngày hôm sau, cơn giận tan biến, niềm nhớ nhung đã ngùn ngụt dày dò, Châu muốn gặp người yêu tức khắc nhưng vì tự ái, chàng cố gắng cắn răng chịu đựng, hi vọng nàng sẽ nhượng bộ trước. Chờ mãi mà nàng vẫn im hơi lặng tiếng, nên đến ngày thứ ba Châu đành chịu phép qui hàng lò dò tìm đến nhà nàng. Chàng đang rụt rè trước ngõ bỗng bị dượng ngăn chận lại, lạnh lùng lên tiếng:- Mi còn đến đây làm gì? Đi ngay! ta chẳng muốn thấy bản mặt mi nữa!Không ngờ chuyện cãi vã của mình khiến người lớn nổi giận, Châu cuống quít van nài:- Con xin lỗi dượng! Con và em Ngọc chỉ có chuyện hiểu lầm nhỏ. Con xin gặp em để giải thích ngọn ngành.- Không có điều gì để giải thích! không có điều gì để nói nữa! Mi đừng vác bản mặt đến nhà nầy là đủ!Bị dượng xô đuổi trắng trợn, Châu chết điếng người tự hỏi tại sao chỉ mới mấy ngày trước dượng vồn vã thương yêu mà hôm nay lại đối xử phũ phàng tàn nhẫn như vậy? Châu không tin chuyện Hồng Ngọc giận hờn lại có thể sanh ra hậu quả kinh khủng nầy. Lòng dạ hoang mang cùng cực, Châu lủi thủi thối lui nhưng không ra về ngaỵ Chàng lẩn quẩn quanh đó hi vọng dì hoặc tiểu Ngọc xuất hiện thình lình cứu gỡ cho chàng cơn bối rối nầy. Bỗng nhiên, Châu nghe tiếng vó ngựa vọng lại, rồi có ba người kỵ sĩ xuất hiện dẫn đầu bởi tên công tử đáng ghét hôm trước. Không cần ai giải thích Châu hiểu ngay chính tên nầy là đầu giây mối nhợ gây ra biến cố đau thương cho chàng. Cơn ghen tức bùng nổ không kềm hãm được, Châu phóng tới thộp ngực hắn. Châu chưa kịp ra tay thì những cú đấm đá thi đua nhau nện trên thân thể của chàng, Châu ngã gục xuống, tai còn văng vẳng nghe tiếng can ngăn của dì:- Công tử dạy cho hắn bài học như thế cũng đủ rồi. Xin tha cho hắn phen nầy đi!- Công tử đừng nghe lời bả! Đập rắn thì đập cho chết, nương tay hậu hoạn khó lường công tử ạ!, dượng cao giọng.Châu đang buông xuôi bất động, bỗng nghe lời xúi ác độc của dượng, cơn hận thù trong lòng bùng nổ thúc đẩy chàng cắn răng chịu đựng, nhỏm dậy lê lết từng bước đến được nhà của người anh họ Triệu Ngũ thì mới lăn quay bất tỉnh. Cả nhà họ Triệu xúm xít săn sóc Châu. Sau khi nghe chàng thổ lộ nguồn cơn, chị Triệu nhanh nhẩu đi ngay đến nhà Ngọc mong sưu tầm thêm những tin tức nóng sốt khác. Vừa trở về, chị Triệu tuôn ra một hơi:- Oái chà! chú đụng với đám trọc phú họ Ngô thật là nguy hiểm! Bọn nó thanh thế lớn, hại người như bỡn. Chú nên tránh nó thật xa mới được!- Chị có nói chuyện được với tiểu Ngọc không? Ngọc có hiểu vì sao mà em ra nông nỗi như thế nầy không?, Châu thều thào hỏi.- Ơ! chị có tiếp xúc với con Ngọc, nó cho biết cô dượng tư đã nhận lời gả nó về làm dâu nhà họ Ngô rồi. Nó nhắn với chú là “kiếp nầy lỡ làng, thôi thì đành hẹn nhau kiếp lai sinh” và khuyên chú nên bỏ đi thật xa, kẻo tánh mạng khó vẹn toàn!- Ôi! thật không ngờ dì dượng có thể nhẫn tâm phản bội lời hứa hôn năm xưa dễ dàng như vậy?, Châu than thở.- Em Châu à! - Triệu Ngũ ôn tồn lên tiếng -, Chỉ riêng em thật thà tin tưởng dì dượng tư, chớ bà con cô bác ai chẳng nghi ngờ rằng họ đã bịa đặt vụ hứa hôn để ngắm nghía tài sản của nội em. Nay tình cờ họ Ôm chặt được cái hũ vàng nhà họ Ngô trên tay rồi, thì họ còn dại gì mà phải bám vào em để theo đuổi cái gia tài bất trắc làm chi nữa? Họ trở mặt đá đít em là chuyện đương nhiên mà!Đêm hôm đó, căn nhà của Châu bị bọn vô lại đốt phá tan tành, may mà Châu còn nằm dưỡng thương tại nhà Triệu Ngũ nên mới không bị hãm hại. Tình thế hung hiểm quá, Triệu Ngũ vét tiền dành dụm đưa hết cho Châu để phòng thân, rồi âm thầm chèo thuyền đưa Châu trốn khỏi Tào ngư Than trong đêm đen.Ra đi mang theo niềm sầu đau thù hận, Châu thề sẽ khổ công tầm sư học đạo, tập luyện một môn võ công thượng thặng để có ngày trở lại tầm cừu. Trước đây, Châu thường nghe những khách giang hồ tán tụng võ thuật siêu tuyệt của các phái Thiếu Lâm, Võ Đang và Nga Mi(#1). Thiếu Lâm và Võ Đang xa xôi, nên chàng quyết định tìm đường đến Nga Mi, vùng núi thiêng tọa lạc tại thị xã Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.Ngắm nhìn tòa Nga Mi sơn hùng vĩ, cao ngất trời xanh lòng Châu rộn rã tin chắc rằng nơi nầy đúng là chốn dung thân lý tưởng của mình. Thế nhưng khi thật sự đến nơi, thăm hỏi đủ mọi hạng người Châu chẳng thu thập được một dữ kiện nào chứng tỏ có sự hiện hữu về một môn phái võ thuật tại đây. Có người còn cho rằng huyền thoại về Nga Mi hoa quyền, Nga Mi tuyệt chiêu, Nga Mi kiếm pháp... đều toàn là những chuyện tưởng tượng. Châu thoạt viếng Chùa Báo Quốc, cửa ngõ lên núi, rồi tìm đến động Cữu Lão nay là chùa Tiên Phong - đạo tràng của đạo sĩ Triệu minh Công, nổi tiếng về thuật đi mây về gió - và chùa Phục Hổ, - ngôi chùa mà theo truyền thuyết thì vị sơ tổ võ công rất thâm hậu đã từng hàng phục loài mãnh hổ - mà dấu vết võ học của người xưa vẫn biệt tăm. Không nãn lòng Châu tiếp tục lục soát khắp nơi từø các ngôi chùa am dưới chân núi rồi lần lên đến lưng núi, viếng chùa Vạn Niên(#2). Chùa Vạn Niên tựa mình trên vách đá hùng vĩ, có những cây đại thụ tàn bóng dị kỳ đong đưa mớ giây leo chằng chịt, cây lá chen chúc khoe tươi trổ đủ loại hoa rực rỡ, lại có ao nước tinh khiết trong xanh do giòng suối từ Long Môn động đổ xuống mang theo những mảnh đá nhỏ long lanh như ngọc, nên xưa kia chùa còn có tên là Bạch Thủy tự. Tương truyền Phổ Hiền Bồ Tát, trên bước đường hành đạo đã từng dừng chân chốn nầy nên ngôi chùa còn có tên là Phổ Hiền tự, và kể từ đó Nga Mi sơn được tôn kính là một thánh địa và là đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Điện đá nung tức chuyên điện, có lối kiến trúc rất đặc biệt: toàn điện được tạo toàn bằng đá nung, kể cả nóc điện hình cái vòm, giống như một nắp vung bằng đồng vĩ đại úp chụp xuống. Vách điện kiến trúc thành tầng bậc, ba tầng trên trang trí hàng ngàn tượng Phật, Bồ Tát, La Hán nhỏ, và đặc biệt nhất, ở giữa điện là pho tượng đồng vĩ đại tạc Ngài Phổ Hiền Bồ Tát an tọa trên thớt voi sáu ngà. Đây là địa điểm được ca tụng là linh thiêng bậc nhất tại núi Nga Mị Khách hành hương tin tưởng rằng khi thành tâm lễ Bồ Tát rồi đi nhiễu quanh tượng bảy lần thì tâm nguyện chánh đáng của hành giả sẽ được thành tựu. Châu chiêm ngưỡng tượng Bồ Tát thật lâu. Trong một phút xuất thần, Châu cảm thấy tượng Bồ Tát sống động như hiện thực đang tỏa ánh mắt từ bi an ủi chở che, chàng nức nở: “Xin Bồ Tát cứu con! Xin Bồ Tát cứu con”. Rời bảo điện, Châu bỗng thấy hai tên thuộc hạ họ Ngô lù lù ở cổng ngoài, mắt dáo dác nhận diện từng khách hành hương. Từ dạo sống lang thang bụi đời, Châu lân mẫn thương kẻ đầu đường xó chợ, nên khi gặp lão ăn xin già Phổ Đức chí thành hành hương, chịu khó leo trèo vất vả, chàng kết thân làm bạn đường để dắt dẫn đỡ đần và chia xẻ cơm nước. Gần gũi nhau đôi ngày thì Châu đã thân thiết tâm sự với lão tất cả nỗi niềm đau khổ của mình. Vì vậy, vừa thấy nguy Châu hội ý với lão để lão cà rà xin tiền cản trở chúng, hầu chàng có thể len lỏi vào đám đông lẫn tránh, rồi băng rừng mà đi, không theo lối mòn bình thường nữa. Tưởng đã thoát thân, bảy ngày sau Châu lần mò leo lên Kim Đỉnh, địa điểm cao nhất của Nga Mi sơn, thì đã thấy hai tên chó săn đó đã chờ sẵn tự bao giờ. Biết chúng phải đợiø đến đêm mới ra tay hành động, Châu ung dung khoác tay lão hành khất già đưa nhau lên Phổ Quang điện đảnh lễ Bồ Tát. Hành lễ xong, Châu vét số tiền tùy thân còn lại dúi hết cho lão, rồi thoan thoát bỏ đi. Chàng muốn có được những giây phút cô đơn, để trầm ngâm nhớ lại quãng đời qua, và cũng muốn thanh thản ngắm những cụm mây trắng bồng bềnh trong bầu trời mờ sương. Châu thầm than: “Oâi! sao ta phải mang kiếp người khổ nhục nầy? Oâi! sao ta chẳng là mây trắng mong manh thong dong trên đỉnh núi?”. Châu thờ thẩn hướng tầm mắt về bờ vực sâu hun hút. Vực thẳm muôn trùng nầy được gọi là Xả Thân nhai hoặc Đoạt Hồn nham, tuy mang nghĩa là vách đá đoạt hồn tán mạng, nhưng lại được giới tình si tôn xưng là vực thẩm của tình yêu. Niềm tin nầy đã phát xuất từ truyền thuyết rất xa xôi. Ngày xưa đó có chàng thư sinh tên Trang Thanh và công nương La Uyển Thu yêu nhau qua thi phú, nguyện kết nghĩa phu thê, nhưng phụ thân cô gái, một vị Tiết độ sứ quyền uy, cương quyết ngăn cản. Hai người dẫn nhau trốn đi và đã bị quân lính truy nã ráo riết. Đã quyết tâm sống chết bên nhau, nên khi lên đến Kim Đỉnh Nga Mi sơn, đôi tình nhân xiềng tay nhau khóa chặt, nguyện đời đời kiếp kiếp dù làm ma, làm quỉ, làm người, cũng là vợ chồng. Thế rồi, họ ôm nhau nhảy xuống vực sâu tự tử. Chết thành quỉ thần, hai người thường hiển linh phù trợ cho những lứa đôi thủy chung gắn bó. Vì vậy, sau nầy những kẻ yêu nhau khắn khít mặn nồng đã đưa nhau đến đây thệ nguyện và cầu xin phù hộ cho được ăn đời ở kiếp. Họ cũng long trọng mang theo xích sắt và khóa, nhưng dĩ nhiên họ không buộc tay nhau lao xuống vực sâu, mà chỉ tượng trưng xiềng chặt xích và hai khóa vào hai sợi dây giăng dọc theo các bậc thang đá lên Kim Đỉnh. Câu chuyện người xưa gợi Châu nhớ mối tình chua chát của mình, chàng nghĩ nếu mình được cùng người yêu nắm tay nhảy xuống chết chung thì hạnh phúc biết là bao. Châu đã quyết định chọn cái chết ngay từ khi đặt chân tới đỉnh; chàng nghĩ chuyện tầm cừu đã hoàn toàn vô vọng thì sống để làm gì? huống chi kẻ địch dễ gì buông tha chàng. Tuy nhiên, khi mon men đến bờ vực, chuẩn bị gieo mình xuống, thì chút hối tiếc đó bám sát tâm trí khiến chàng đứng khựng lại, đầu óc trống rỗng như sỏi đá vô tri. Châu hồi tỉnh lại khi tiếng hồng chung thanh thoát bên tai, tiếng chuông nhắc nhở chàng hạnh nguyện bao la của Phổ Hiền Bồ Tát, rồi bao nhiêu tâm ý của chàng đều tập trung vào việc tưởng niệm tượng Ngài cỡi voi, thế rồi, bao nỗi ưu tư dằng dặc: sống chết, thương yêu, thù hận trong giây phút đã lặng lẽ tan biến tất cả. Trời sụp tối, bỗng Châu nghe có tiếng bước chân rất nhẹ tới gần. “Chúng nó sắp ra tay”, ý nghĩ đó vừa lóe lên thì vai chàng đã bị hai bàn tay chụp cứng lại. Không chần chờ gì nữa, Châu vận dụng hết sức lực phóng ra hố thẩm, và vì vậy, đã vô tình lôi “tên gian ác” đi theo số phận hẩm hiu của chàng.Châu nhắm tít mắt lại, nghe tiếng gió rít lên theo độ rơi vùn vụt của thân xác chàng. Trong giây phút chờ chết, Châu tiếp tục tưởng niệm Bồ Tát. Niệm hằng lâu mà sao thân xác vẫn còn rơi, rơi mãi... Lạ thật, đáng lẽ, thân xác chàng đã tan nát dưới đáy vực lâu rồi, có thể nào hố nầy không đáy và chàng cứ rơi mãi đến xuống tận mấy tầng địa ngục chăng? Độ rơi càng lúc càng nhanh bỗng chậm dần vì có luồn gió dõng mãnh từ dưới thốc ngược lên, thế rồi, thay vì rơi thẳng xuống thông thường, chàng bị cơn gió xoay nên rơi vòng vòng theo hình trôn ốc. Thân thể chàng dường như nhẹ hẳn ra, sức rơi chậm lại nên khi Châu dang hai cánh tay chàng có cảm giác mình như con chim bay lượn đang là đà đáp xuống. Aùnh sáng lờ mờ, tầm nhìn lại bị đám mây trắng dầy đặc che khuất, Châu không thấy gì ngoài cái bóng của “kẻ gian ác” bay cách chàng không xạ Châu tò mò nhìn kỹ mặt mũi kẻ gian như thế nào, rồi bỗng nhiên chàng xúc động reo lên: “Uả! té ra là ông! Trời ơi! con đã hại ông rồi!”. Thì ra lão hành khất Phổ Đức tốt bụng thấy chàng đứng ngẩn ngơ cạnh hố thẩm nguy hiểm nên kéo chàng lại, vô tình bị chàng lôi theo. Có lẽ, ôâng lão biết chàng ái ngại nên mĩm cười trấn an, rồi phất tay như ngầm bảo chàng tiếp tục an vui cái trò chơi bay lượn, đừng bận tâm chi cả.Lớp mây dầy đặc loãng dần, Châu không còn bay lượn được nữa mà bị rơi nhanh xuống nghe tiếng “ùm” thật lớn. Trồi đầøu lên, Châu thấy lão hành khất cũng rơi xuống hồ nước, và thoát nạn như chàng. Cả hai cất tiếng cười vang, rồi đưa nhau lội vào bờ. Phong cảnh ở đây đẹp tuyệt trần: hồ nước trong mát xinh tươi, hoa lá muôn màu rực rỡ, cây trái xum xuê, chim đủ loài sắc lông sặc sỡ, ca hót vang lừng.Châu nhìn quanh, rồi cất tiếng:- Ông ơi! Có lẽ mình đã lạc vào chốn thần tiên rồi ông à!- Ơ! cũng có thể coi là cảnh non bồng! Chốn nầy gọi là Bắc Câu Lư châu(#3), nhân dân cõi nầy có nhiều phước báu hơn nhân dân cõi Nam Thiệm bộ châu, nơi mà loài người sinh sống nên cảnh vật cũng thù thắng hơn!Thấy ông lão trả lời rành rọt, Châu rối rít hỏi:- Cõi nầy xa lắc xa lơ hở ông? sao từ thuở giờ không một ai thấy biết vậy ông?- Trong thế giới Ta Bà nầy, các cảnh giới nằm chập chồng trên nhau nên có thể nói là các cõi cũng không gần mà cũng chẳng xa nhau. Chỉ có điều là căn nghiệp của loài người chỉ tương ưng với không gian ba chiều của cõi Diêm phù Đề nên loài người chỉ thấy biết cõi nầy mà thôi! Mấy ai có nhân duyên đặc biệt bị đẩy lệch sang chiều không gian khác như chuyện chúng mình?- Thế người ở đây tánh tình có ác độc không? nếu bắt gặp ta họ có giam cầm hành hạ không?- Nhân dân ở đây vốn chỉ thích ca vui hợp đoàn chớ không có dạ quanh co ác độc..., vã lại, họ nào có thấy nghe chúng ta mà sanh tâm nầy nọ...- Uả! sao lạ như vậy ông?- Vì nghiệp căn khác nhau nên dù cùng sống chung cũng không thấy nhau. Vật chất chốn nầy không tương ưng với con nên cũng không ngăn ngại con, do đó, con có thể đi xuyên qua thành quách mà không hề hấn gì. Nầy hãy theo ta đi một vòng cho biết sự tình.Thế rồi, lão hành khất nắm tay Châu lướt đi như bay, xuyên qua cây cỏ, tường vách, thân thể dân bản xứ, để quan sát sinh hoạt nơi đây. Dân chúng trẻ đẹp, vóc dáng như nhau, vầy thành đoàn nam nữ chung sống, cùng bơi thuyền, tắm gội, ca hát, đùa giỡn... ; nảy ý hành dâm dục thì chọn kẻ đồng tình đưa nhau dưới tàn cây “khúc cung” rậm rập vui thú, xong cuộc vui thì chia tay, không có liên hệ gia đình ràng buộc; thức ăn thức uống, y phục dư sẵn, chẳng ai phải gia công khổ cực làm lụng và mọi người cứ thế mà vui chơi suốt ngày.- Nếp sống ở đây sung sướng thật, nhưng trong cõi nầyï mình chỉ là bóng ma, có thọ dụng được gì đâu! Con chẳng thích làm ma chút nào hết!Châu đang càm ràm chợt trông thấy hàng cây đơm đầy trái chín màu đỏ sẫm có vẻ ngon lành, cơn đói cồn cào bỗng dưng nổi dậy giục chàng thò tay hái mớ trái để ăn đỡ dạ, nhưng chẳng biết sao tay chàng cứ chụp trật vuột mãi. Cây trái đối với chàng có lẽ chỉ là thứ ảo ảnh nên chàng chẳng có cách nào đụng chạm được. Lão hành khất cười ngất, lên tiếng:- Ta đã bảo vật chất ở đây không tương ưng, không ngăn ngại với ngươi thì làm sao ngươi có thể cầm giữ ăn uống chứ! Nếu ngươi cảm thấy đói, thì chịu khó đến cây “hương thọ” đàng kia, ngửi chút hương thơm cho đỡ dạ, hương thơm nầy cũng giúp cho thân thể ngươi nhẹ nhàng, ngũ căn linh mẫn hơn...Theo sự chỉ dẫn đó, Châu tìm đến cây “hương thọ” đón nhận mùi hương. Hương nầy chẳng những trị được “bệnh đói” mà còn giúp thân thể chàng nhẹ hửng, lâng lâng bay bổng như gió như mây. Hứng chí Châu lông bông bay lượïn ngắm cảnh khắp nơi. Rừng cây, hồ nước thanh tú nhiều không kể xiết, nhưng núi non hang động lại hiếm hoi. Châu săm soi mãi mới chọn được một động đá xinh xắn nằm trên một triền đồi đầy hoa tím thơ mộng. Chàng vội vã trở về báo cáo với lão hành khất:- Hay quá Ông ơi! con tìm được một hang động rất dễ thương. Mình có nơi trú ẩn an toàn rồi ông ạ!Lão già mĩm cười hiền hòa:- Sống ở dây mình hiện hữu cũng như không, thân xác chẳng bị nắng mưa hành hạ, tiền của không tích lủy,... thì nơi chốn nào chẳng an toàn, con bận tâm chuyện ăn ở mà chi? Ơ! góp ý với con cho vui vậy thôi, chứ con muốn chọn nơi trú ẩn nào tùy thích, đừng lo nghĩ đến ta vì ta sắp từ giã chốn nầy rồi.- Ông đi đâu? Ông đi đâu con theo đó, chớ ở một mình buồn chết đi...- Ta trở về chốn cũ! Con nặng nề quá, làm sao ta có thể cưu mang chuyển đưa con sang chiều không gian của loài người cho được!- Con nhẹ hửng mà! con bay được mà ông!, Châu reo to.-Thân con tạm thời nhẹ nhờ “hương thọ”, nhưng tâm con thì sao? nó có thanh thoát chăng hay vẫn trĩu nặng bởi dục vọng, bởi tham sân si, bởi thương ghét ân oán mừng lo..., huống chi, về đó thì con lại than thân trách phận... thì có ích lợi gì!Trong cơn hiểm nguy, tâm ý Châu hướng vào việc tưởng niệm Bồ Tát Phổ Hiền, sau đó chàng lại bị cảnh giới lạ lùng nầy thu hút, nên đã quên khuấy cơn sầu tình đang cưu mang. Chừng nghe lão hành khất hỏi, bao nhiêu nỗi yêu thương thù hận đột ngột quay về đảo lộn đầu óc chàng, khiến thân chàng đang lơ lửng trên không bỗng rơi tòm xuống đất. Đi về thì chịu trăm ngàn cay đắng và mất mạng như chơi, còn ở lại sống tẻ nhạt với cảnh làm con ma cô đơn vô tích sự kéo lê cả đời thì bi đát quá. Châu bối rối nhận thấy giải pháp nào cũng tệ cả, nhưng sau những giây phút dằn co, chàng quyết định thà rằng chết cho ra chết, chớ không sống như ma vất vưởng chốn nầy. Chàng năn nỉ:- Xin ông thương con! tìm cách đưa con về với loài người. Sống chết đói khổ gì con cũng cam tâm cả!- Con đường về là con đường thanh tịnh tâm, tâm thanh tịnh nhẹ nhàng thì trong một niệm có thể dạo khắp cõi Ta Bà thế giới, lúc đó muốn đến với chiều không gian nào chẳng được. Không ai có thể chuyển hóa tâm mình, mà mình phải tự cứu độ bằng cách tu tập hằng giữ tâm trong chánh niệm, nghĩa là tập quán sát từng giờ từng phút không để tạp niệm sinh khởi, thì tịnh tâm sẽ hiện bày. Nếu con thực hành tiến bộ, thì ta có thể gia bị thêm cho con đủ dũng lực để trở về.- Sao thì con cũng đồng ý hết! Xin ông dạy con thể thức tu tập ngay đi!Thế là lão hành khất bắt đầu dạy Châu ngồi kiết già thực tập mười sáu pháp quán niệm hơi thở trong mười sáu ngày ông vắng mặt, ngoài ra, ông cũng cẩn thận giảng giải pháp quán thân bất tịnh để dự phòng cho chàng đối trị trong trường hợp cơn bệnh tình si trầm kha bộc phát. Sau khi ông lão rời bước, Châu liền ngồi dưới gốc cây hương thọ thực tập pháp quán niệm hơi thở thứ nhất: “Thở vào một hơi dài hành giả biết mình đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài hành giả biết mình đang thở ra một hơi dài”. Thể thức tu tập thoạt nghe qua rất giản dị, nhưng khi thực sự bắt đầu thì lại lắm gian nan. Châu chỉ theo dõi hơi thở chừng mười hơi, thì bao nhiêu chuyện xưa tích cũ bỗng nối tiếp nhau hiện ra, rồi bao nỗi vui buồn hờn giận theo đó mà xôn xao. Khi sực tỉnh, Châu xấu hỗ gạt bỏ vọng niệm và bắt đầu theo dõi hơi thở trở lại. Gay go nhất là những khi chàng bị hình dáng tiểu Ngọc ám ảnh, Châu điêu đứng bỏ dở công phu thiền tọa vì dẫu chàng xua đuổi thế nào bóng nàng vẫn lỳ ra đó, thì làm sao tiếp tục theo dõi hơi thở cho được. Châu sực nhớ pháp quán thân bất tịnh, chàng quán nàng như là một bọc da chứa đầy những chất dơ bẩn: đờm dãi, máu me, phân, nước tiểu..., bọc da đó mấy năm nữa thì sẽ nhăn nheo hư hoại, rồi sẽ nằm bất động, bầy nhầy, sình thúi gớm ghiếc... Phép quán bất tịnh tuy không trị dứt nỗi bệnh tình si nhưng cũng giúp chàng tạm nguôi ngoai, hầu có thể tiếp tục tu quán niệm. Tình trạng vọng tâm sinh khởi nầy cứ tái diễn mãi, nhưng cũng may là mỗi ngày mỗi thưa thớt lần. Tu tập chốn nầy được mùi hương trợ lực thân tâm thơi thới nhẹ nhàng lại không bị ngoại cảnh kể cả ấm no đói lạnh chi phối, nên Châu tu tập tinh tấn suốt ngày đêm. Nhờ vậy, khi thực hành đến thức quán niệm thứ 6: “Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc; ta đang thở ra và cảm thấy an lạc” thì chàng đạt đến trạng thái hỷ lạc trong thiền định, từ đó những vọng niệm không còn đột ngột xuất hiện nữa. Khi chàng hoàn thành thức thứ 16: “Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ; ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ”, Châu cảm thấy thân tâm thanh thản an vui, chuyện đời không có chi ràng buộc, về hay ở cũng vậy thôi. Đúng lúc đó, thì lão hành khất trở lại. Ông khảo sát Châu, khen chàng khá tiến bộ, đưa chàng 5 đề tài mới để quán niệm và hẹn sẽ trở lại khi chàng hoàn tất. Chàng khởi sự quán “sắc bất dị không” nửa ngày, kế đó quán “không bất dị sắc”. Những viên đá vụn ảo ảnh trước kia chàng không thể rờ mó, nay qua quán niệm Châu có thể cầm nắm cất giữ được. Bốn ngày kế chàng tiếp tục quán các đề tài thọ, tưởng, hành, thức. Vừa hoàn tất, thì lão hành khất cũng xuất hiện sẵn sàng đưa chàng rời Bắc Câu Lư châu. Oâng đặt hai bàn tay trên vai Châu, bảo chàng đứng thẳng người nhắm mắt quán “ngũ ấm giai không”. Châu lắng lòng quán niệm cho đến khi cảm giác tay ông lão đã rời vai chàng thì mới mở mắt. Thật là kỳ lạ, Châu tưởng chàng vẫn đứng yên chỗ cũ, không ngờ lại thấy mình đang cô đơn đứng trên Xả Thân nhai, tại Kim Đỉnh núi Nga Mị Mặt trời vừa lóe ánh hồng, đồi núi vắng lặng chìm trong mù sương mờ mịt, ông lão mất dạng và cũng chưa có bóng người lui tới. Khi hồi tưởng lại những biến cố dồn dập lạ lùng vừa qua, Châu cực kỳ bối rối chẳng biết mình đang mơ hay tỉnh. Chàng dụi mắt đôi lần rồi thử véo mạnh gò má. “Ui cha!” Chàng gật gù tạm tin hiện đang tỉnh, nhưng còn chuyện lạc đến Bắc Câu Lư châu thì thực hư vẫn chưa rõ được. Có lẽ, chàng đã đứng ngẩn ngơ tại đây từ đêm qua cho đến sáng nay và đã đi vào giấc mơ kỳ diệu thấy rơi xuống hố thẩm, rồi lạc bước đến chốn thần tiên. “Thế còn chuyện xảy ra trước đó: kết bạn hành hương với lão hành khất Phổ Đức, bị kẻ địch rượt đuổi, chuyện tình với nàng tiểu Ngọc thì sao?”, Châu phân vân tự hỏi. Trừ hình bóng ông lão vẫn còn sống động trong tâm, những hình ảnh khác đối với chàng xa xôi mù mờ đứt khoảng, nên Châu cũng không thể đoan chắc đó là thực hay mộng nữa? Châu bỗng nhận thấy túi áo hơi cộïm, chàng thò tay móc ra được một vốc đá nhỏ màu trắng long lanh chiếu sáng. Trố mắt nhìn sửng những vật kỳ lạ nầy khá lâu, Vinh mới mường tượng nhớ ra là trong khi tọa thiền quán đề tài “không bất dị sắc” thành công, chàng thửù hốt một vốc đá vụn bỏ vào túi. Không lẽ đó là những viên đá trắng lóng lánh nầy? và không lẽ chuyện tu tập tại Bắc Câu Lư châu là thực?Châu quyết tâm tìm cho ra lão hành khất, tìm được lão thì sẽ giải tỏa được mọi nghi vấn. Châu đi lần xuống chùa Vạn Niên. Chàng ngạc nhiên thấy các điện Kim Cang, điện Thiên Vương và điện Thất Phật đã bị hỏa tai thiêu hủy; dấu vết tàn tạ đã cũ kỹ trong khi khoảng tháng trước khi Châu ghé vào chiêm bái vẫn còn nguyên vẹn. Châu tò mò dọ hỏi thì mới biết hỏa hoạn xảy ra từ bốn năm trước, tức năm Gia Tĩnh thứ 18, và vì vua Thế Tông nhà Minh tôn sùng Đạo giáo, nghiêm khắc với Phật giáo nên việc trùng tu bị đình trệ. Châu sửng sốt nhẩm tính rằng chàng đã lên Nga Mi sơn vào cuối mùa đông Gia Tĩnh nguyên niên, giờ thì đã vào thu Gia Tĩnh năm thứ 22, như vậy thời gian hơn 21 ngày tại Bắc Câu Lư châu tương đương với 21 năm 6 tháng cõi thế. “Mình già mất rồi!”, Châu thầm than. Chàng vội vã đến ao Bạch Thủy soi mặt, nhận thấy dáng dấp chàng vẫn trong lứa tuổi đôi mươi, thì ra, chàng chẳng già yếu tí nào mà còn khỏe mạnh ra. Có thể do sự tác động kỳ diệu của chất “hương thọ” nên thân thể chàng trở nên thoan thoắt nhẹ nhàng, không cảm thấy mệt nhọc, rét lạnh, đói khát... chi cả. Châu quanh lên quẩn xuống núi Nga Mi hàng mấy mươi lần, cố công dọ hỏi đủ mọi nơi mà vẫn không tìm ra tông tích lão hành khất. Bấy lâu, thân cận với lão hành khất, Châu thương kính ông như người cha già, yên chí rằng mình sẽ sống bên ông mãi mãi, nên không có nhu cầu nào gấp để hỏi han. Nay ông biệt dạng, hồi tưởng lại từng lời dạy dỗ, từng cử chỉ của ông, Châu mới hối tiếc và tự trách đã có cơ hội gần gũi bậc Thánh mà lơ là không biết tận hưởng, không tham học đạo lý cao sâu, không dò hỏi cẩn thận trú sở để tìm cầu. Châu tiếp tục lặn lội sang Trung Nga và Tiểu Nga, rồi đi khắp dãy Côn Luân dò la mà người xưa vẫn biệt dạng.Trên đường đi ngang phố chợ huyện Cảnh Khuyển, thấy có hiệu kim hoàn, Châu tò mò mang một hạt đá thăm dò giá trị. Bất ngờ hạt đá vụn vặt đó lại chính là viên kim cương to sắc nước xanh tím trị giá đến 300 lượng vàng. Trong khoảnh khắc, từ một kẻ cùng đinh biến ngay thành một đại phú ông, Châu bối rối không nghĩ ra nỗi phương cách nào để tiêu pha cho hết sự nghiệp trên trời rớt xuống nầy. Mặc dầu, mối tình xưa hầu như đã chìm trong quên lãng, hốt nhiên, Châu bỗng nảy sanh ý định trở về thăm lại quê hương theo tư cách của kẻ “mặc áo gấm về làng”. Châu tung tiền ra thuê một đoàn tùy tùng ngựa xe sang trọng tiến về huyện Hồng Nhã. Cảnh vật đổi thay, đám thuộc hạ phải dò la khá lâu mới khám phá ra căn nhà tranh vách đất xệu xạo của Triệu Ngũ. Triệu Ngũ chưa đầy 50 tuổi mà nom lụ khụ lắm rồi. Biết anh ta không nhận dạng được mình nên chàng nhất quyết dấu nhẹm lai lịch và tự xưng là thân tộc của Phùng Lư Châu đi tìm Châu. Nghe nhắc đến tên chàng, Triệu Ngũ bù lu bù loa khóc lóc thương số phận của người em họ không biết hiện nay đang trôi giạt phương trời nào, rồi anh xúc động cà kê kể lể câu chuyện xưa, với đầy đủ tình tiết mà ngay chính chàng là người trong cuộc lại quên tuốt luốt. Rồi anh kết luận: “Trời cao có mắt ông ạ! cô dượng tôi trăm mưu nghìn kế bắt sống cho được thằng rể giàu sang, ngờ đâu gặp thứ rể dỏm. Cha con họ Ngô phung phí tài sản, thua bài bạc gia tài đã khánh kiệt mà cố giữ bề ngoài hào hoa để dễ vay mượn. Khi con Ngọc về làm dâu chưa đầy sáu tháng, ông già chồng bạo bệnh chết, thằng con là Ngô Đại không đủ uy tín để vay đầu nầy đắp đầu kia, nên tình trạng nợ nần “tứ giăng” bị đổ bể. Thế rồi đám chủ nợ phát hoảng, xúm nhau kiện thưa đòi của, cuối cùng trọn sản nghiệp bịïï xâu xé sạch nhẵn. Hai vợ chồng nó đành khăn gói về nhà cô dượng nương náo. Thằng rể quen thói ăn hại, khi lên cơn nghiện ngập chỉ biết đánh đập vợ khảo tiền, nên dù cho con Ngọc có tảo tần làm lụng cực nhọc mà cuộc sống ngày càng bi đát. Đám con nó cũng chẳng ra gì: trai lêu lỏng theo phường trộm cắp đang bị tập nã, gái đi bụi đời bạt mạng biệt tăm biệt tích”. Châu dúi cho ông anh tình nghĩa 30 lượng vàng, rồi theo chỉ dẫn của anh ta, tìm đường đến nhà Ngọc. Ngồi vắt vẻo trên lưng ngựa, Châu hờ hửng ngắm ngôi nhà trống trải đổ nát, nơi mà chàng đã từng có những phút giây hạnh phúc tuyệt vời lẫn lộn với nỗi đớn đau ê chề nhục nhã. Một mụ đàn bà bề xề, đần độn, bẩn thỉu, rách rưới đang tẩn mẩn ngồi xắt chuối cây cho heo ăn trước cửa. Thật khó tưởng tượng nỗi người đàn xấu xí nầy lại là nàng! Thật khó tưởng tượng nỗi ngày xưa mình có thể sống chết vì người người đàn bà nầy! Châu ngoắc mụ tới. Mụ hoảng hốt bật dậy đứng khoanh tay khúm núm cúi đầu như kẻ tội phạm. Châu lạnh nhạt trao cho mụ 20 lượng vàng, rồi trước sự ngạc nhiên tột độ của mọi người, chàng thúc ngựa phóng nhanh như chạy trốn. Đang cho ngựa phi nhanh, bỗng Châu ghìm cương lại tránh gã say sưa bệ rạc té chổng gọng dưới lộ. Gã quều quào vận sức để lồm cồm bò dậy nhưng cứ trợt ngã mãi, nên cất giọng tru tréo chửi bới Trời Đất cho hả giận. Vượt qua hắn mươi thước, Châu chợt dừng lại cất tiếng hỏi: “Ngươi tên họ là gì?”. Gã còn đang ngẩn ngơ, thì tên tùy tùng lanh lợi đã lôi hắn dậy nạt lớn: “Quan hỏi ngươi tên họ gì?”. Gả tỉnh rượu tức khắc, ấp úng thưa: “Dạ! con tên là Ngô Đại ạ!”. Châu vét mớ bạc vụn vất xuống lộ, lạt lẽo nói: “Nầy! Cầm tí tiền lẻ uống rượu!”, rồi tiếp tục ra đi.Rời Hồng Nhã, Châu cảm thấy lòng lâng lâng nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng lớn. Châu thoạt cảm thấy có niềm vui tràn ngập, một sự thỏa mãn bâng quơ kèm với chút tự hào thích thú, nhất là khi nhớ cảnh Ngô Đại bò lê lết thu lượm mớ tiền còm. Đúng theo chương trình vạch sẵn đoàn ngựa xe tiếp tục tiến về huyện Phật Đô, quê nội chàng. Khi đi ngang địa phận núi Lăng Vân tình cờ nghe có cảnh chùa cổ và tượng Phật vĩ đại trên ngọn Thê Loan, Châu tò mò ghé vào chiêm bái. Lăng Vân là ngọn núi nhỏ, xinh xắn, hoa lá xanh tươi và lúc nào cũng có mây trắng vờn quanh nên càng thêm thơ mộng. Chỉ mất một thời gian gian ngắn, Châu đã lên tới chánh điện lễ Phật, rồi bước ra Thiên Ninh các nhìn xuống triền núi chiêm bái tượng Phật Di Lạc(#4) vĩ đại thoải mái ngồi, bề cao từ chân đến đỉnh núi, một công trình xây cất to tát tưởng như sức người không thể nào hoàn thành nỗi, nếu không có những vị bồ tát như Ngài Hải Thông xuất hiện. Tương truyền vào thời nhà Đường, có nhà sư pháp danh Hải Thông đến đây chọn một hang động trên đỉnh để tĩnh tụ Dưới chân núi là một con sông rộng, đúng ra là nơi tiếp giáp của ba con sông: Mân, Thanh Y và Đại Độ, ba giòng nước chảy siết đối nghịch nhau đã tạo nên những con xoáy ngầm hung bạo bất ngờ nhận chìm thuyền bè qua lại. Ngày ngày nhìn xuống núi, phải chứng kiến thường xuyên tai họa thảm khốc của đồng bào, sư cực kỳ xúc động nên phát nguyện tạc pho tượng Từ Thị Di Lạc vĩ đại nhìn ra giòng sông, ngưỡng mong Bồ Tát ban phát lòng TỪ vô lượng của người cho thuyền nhân. Thế rồi sư bỏ ra mấy mươi năm trời lặn lội khắp nơi khổ công quyên hóa. Khi đã hội đủ số tiền cần thiết, sư quay về Lăng Vân, thỉnh nguyện với viên huyện quan sở tại cho phép xây cất. Viên quan biết sư đang giữ số tiền to, máu tham ô nổi dậy đùng đùng. Hắn viện lẽ chuyện dựng tượng Phật để cứu khổ cứu nạn là huyền hoặc nên ngăn cấm và ra lệnh sư phải trao tất cả số tiền lạc quyên cho hắn. Sư thưa: “Xin Ngài hiểu chọ Tiền của quyên giáo là chỉ để tạc tượng nên dẫu có phải chết bần tăng cũng nhất quyết không làm khác được. Còn những gì là của riêng của bần tăng thì bần tăng lúc nào cũng hoan hỉ cả”. Viên quan nổi giận: “Hừ! ngươi nói cái gì của ngươi thì ngươi hoan hỷ, vậy ngươi hãy cho ta đôi mắt của ngươi đi!”. Sư trầm tĩnh đáp: “Xin vâng ạ!”, rồi sư móc đôi mắt, máu me đổ ròng ròng dâng lên: “Xin Ngài nhận cho!”. Viên quan sợ hải không dám hoạnh họe tiền bạc nữa. Mấy tháng sau thì hắn bị cách chức đột ngột. Từ đó, sư bắt đầu ngày đêm thực hiện công trình tạc tượng cho đến khi lìa đời, các thế hệ đệä tử tiếp nối sự nghiệp của sư, cuối cùng sau 90 năm gian khổ tượng đã hoàn thành bởiø cư sĩ Vĩ Cử, Tiết độ sứ Kiếm Nam Tây Xuyên. Điều nhiệm mầu kỳ diệu là ngay từ ngày khởi công, tai nạn chết người trên giòng sông không còn xảy ra nữa. Châu lần theo những nấc thang đẽo quanh co theo vách đá dựng đứng xuống chân núi. Trong niềm cảm xúc vô biên trước hành hoạt vị pháp xả thân của người xưa, Châu chân thành lễ tượng Bồ Tát Di Lạc. Tượng vĩ đại, cao ngang đỉnh núi, chàng phải ngẩn đầu ngả người ra sau mới có thể chiêm ngưỡng trọn vẹn. Châu thành khẩn lẩm nhẩm tán: “Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn... ” và chàng cảm thấy có sự giao cảm nhiệm mầu truyền đến, dường như chàng đã tiếp xúc được với Ngài. Đúng thời điểm ánh mắt Châu vừa chạm đến mặt tượng, thì hốt nhiên toàn thân chàng rúng động: chàng rùng mình rởn gai ốc, tóc tai dựng đứng, nước mắt tuôn trào... Chàng vừa nhận chân rất rõ là: thân tâm của chư Bồ Tát vô cùng vô tận bao la không ngằn mé, lòng từ bi hỷ xả của chư Bồ Tát vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn... Liên tưởng đến thân tâm mình, Châu than thầm: “Oâi! còn thân tâm con thì nhỏ nhoi ti tiện chẳng ra gì!”. Vừa than thở Châu vừa chân thành quán sát con người thực của mình trong mấy ngày vừa qua và cảm thấy xấu hỗ tột cùng. Chàng đã từng thực tập quán niệm theo dõi tâm trong từng nhịp thở để giữ tâm trong chánh niệm, thế mà vừa nhất thời giàu sang, được người người quy lụy, thì đã biến đổi tức khắc thành kẻ ngông cuồng tự cao tự đại, tham sân si do đó mà liên miên sinh khởi. Chàng về quê ngoại không vì tình thâm nghĩa trọng, mà thực tâm chỉ muốn “tác oai tác phúc”, nên chi, chàng đã đối xử với họ Ngô bằng dạ hẹp hòi thù hận, còn với Triệu Ngũ và Ngọc thì cũng đầy vẻ khinh miệt kiêu căng... Châu thành tâm cầu xin sám hối lỗi lầm, chàng thầm nguyện: “Thân con nhỏ nhoi như con trùng, con dế, tâm con xấu xa hèn mọn như quỷ như ma, nhưng từ nay con xin học theo hạnh nguyện của chư Bồ Tát, nguyện đời đời kiếp kiếp xả bỏ thân mạng mình để cứu khổ chúng sanh. Xin chư Bồ Tát chứng giám lòng thành của con. Xin chư Bồ Tát gia bị cho con... ”.Châu quyết định hủy bỏ chuyến về thăm quê nội. Chàng giải tán toán tùy tùng, mặc áo thô, đầu trần chân đất, kiểm soát tâm theo từng nhịp thở, từng bước từng bước trở lại núi Nga Mị Châu lặng lẽ lên Kim Đỉnh, vào điện Phật Quang đảnh lễ. Chàng phát nguyện sẽ xin xuất gia, nghiêm trì tu tập giới đức, hầu có ngày hội đủ điền kiện theo dấu chân người xưa, một mình một bóng làm kẻ ăn xin nghèo khó lưu lạc khắp nơi tùy cơ giáo hóa chúng sanh. Có lẽ Bồ Tát đã chứng giám lòng thành của chàng, nên ban cho chàng diễm phúc được chiêm ngưỡng cầu vòng Phật quang kỳ diệu. Sau khi gởi trả nắm đá kim cương về với vực thẩm Xả Thân nhai, Châu thư thái đi lần xuống chùa Vạn Niên yết kiến lão hòa thượng Ưùng Hiệp. Châu đảnh lễ hòa thượng, tường thuật đầy đủ chi tiết của đời mình, rồi thỉnh cầu xin được xuất gia đầu Phật. Hòa thượng lắng nghe câu chuyện lạ lùng của chàng cho đến khi kết thúc rồi nghiêm trọng lên tiếng: “Thí chủ quả có đại phước đức, đại nhân duyên nên được Bồ Tát ra tay cứu độ. Thí chủ ước nguyện muốn gần gũi Ngài mãi mãi chăng? Xin hãy tùy tiện đến Chuyên điện tầm cầu... ”. Châu háo hức bước nhanh đến Chuyên điện. Điện vắng vẻ không một bóng người. Châu chiêm ngưỡng tượng Bồ Tát Phổ Hiền cỡi voi sáu ngà, rồi bỗng nhiên thân tâm chàng rúng động, chàng quì sụp xuống nước mắt tuôn tràn. Chàng chợt hiểu. Chàng thấy rất tỏ tường. Lão khất sĩ, vị cha già thân thương, không một giây một phút nào xa rời chàng, và ngay trong giờ phút hiện tại nầy Ngài vẫn đang hiển hiện hào quang sáng ngời trong biển tâm của chàng.Tháng 2.2000Chú thích:(1-) Nga Mi sơn: Nga Mi nghĩa đen là mày chim nga, là một tòa núi cao tọa lạc tại huyện Nga Mi thị xã Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Sở dĩ, tòa núi mang địa danh nầy vì hình thế núi quanh co tợ như “đầu cò mày nga, nhỏ mà dài, đẹp mà tươi” (như tần thủ nga mi, tế như trường, mỹ như diễm). Nga Mi là ngọn núi nổi tiếng đẹp nhất Trung Quốc, với núi rừng chập chùng, thác nước tuôn chảy như thảm lụa trắng ngoạn mục, suối trong róc rách, vách đá dị dạng, mây trắng vờn quanh, thông reo vi vút... Toàn núi phân làm đại Nga, nhị Nga và tam Nga; đại Nga là nơi du lãm tập trung, có nhiều danh tự cổ kính như Vạn Niên, Hoa Tạng, Báo Quốc, Phục Hổ, Tiên Phong. Kim Đỉnh Phổ Quang, tọa lạc trên đỉnh cao nhất (3099 thước), làø nơi mà vào những ngày nắng tốt, du khách có thể chiêm bái hiện tượng ánh cầu vòng Phật Quang kỳ diệu.(2-) Chùa Vạn Niên tọa lạc ở độ cao 1020 thước, nằm giữa rừng cổ thụ thâm u và vách đá rêu phong, được khởi dựng từ đời nhà Tấn với tên Bạch Thủy tự, là ngôi chùa cổ kính, uy nghiêm, hùng vĩ bậc nhất tại Nga Mi sơn. Vào mùa Xuân, muôn loài hoa: sơn lựu, thược dược, mẫu đơn, Nga Mi tuyết... đua nhau nở rộ, bên cạnh lại có ao Bạch Thủy (còn có tên là Minh Nguyệt), nước trong xanh từ động Long Môn đổ xuống mang theo những hòn đá tí teo long lanh như ngọc, tăng thêm phần thanh tú mỹ lệ cho chốn tôn nghiêm. Tương truyền thì Bồ Tát Phổ Hiền, trong bước đường hoằng hóa đã từng dừng chân chốn nầy, nên chùa còn có tên là Phổ Hiền tự, và chính vì vậy mà Nga Mi sơn được tôn xưng là đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Giữa điện đá nung (Chuyên điện) có tượng Ngài Phổ Hiền cỡi voi sáu ngà bằng đồng đúc vào thời Bắc Tống cao 7.3 thước, nặng 62 tấn, ngoài ra, trên bảy từng kệ quanh vách điện còn tôn trí khoảng ba ngàn tượng Phật, Bồ Tát nhỏ bằng đồng. Đây là một địa điểm cổ kính, uy nghi và linh thiêng nhất của Nga Mi, nên khách hành hương thường thành tâm đi nhiễu nhiều vòng để phát nguyện hay cầu xin Bồ Tát gia hộ. Ngoài điện Phổ Hiền, chùa còn có những cơ sở vĩ đại khác như bảo điện Đại Hùng, điện Tỳ Lô, điện Quán Âm, điện Di Lặc, Bát Nhã đường, lầu kinh các, lầu trống, u minh chung... Chùa bảo quản được ba pho tượng tam thế Phật và pho tượng Phật A Di Đa bằng đồng từ thời nhà Minh, ngoài ra còn có xá lợi răng, bộ bối diệp kinh (do Vua Tích Lan tặng cho vua Minh Jia Qing), bảo tháp đựng hai viên xá lợi (do phái đoàn Phật Giáo Miến Điện tặng).(3-) Bắc Câu Lư châu là một trong 4 cõi nhân gian của Thế giới Ta Bà. Theo thế giới quan Phật giáo thì Thế giới Ta Bà được phân chia thành ba cảnh giới: cõi vô sắc, cõi sắc và cõi dục. Cõi vô sắc và cõi sắc đều là thế giới của chư Thiên, riêng cõi dục lại được phân thành 20 cõi, gồm cóù có 6 cảnh trời cõi dục (lục dục thiên), 4 cõi nhân gian (1. Đông Thắng thần châu, 2.Nam Thiệm bộ châu, cũng còn gọi là Diêm Phù Đề, tức là thế giới mà loài người đang sinh sống 3.Tây Ngưu hóa châu và 4. Bắc Câu Lư châu), 1 cõi Súc sanh, 1 cõi Ngạ quỷ và8 cõi Địa Ngục.(4-) Lạc Sơn Đại Phật còn gọi là Lăng Vân đại Phật tọa lạc trên ngọn Thê Loan, núi Lăng Vân. Đại Phật dựa vào núi, nhìn ra sông, nơi nhập lưu của 3 con sông Mân, Thanh Y và Đại Độ. Tượng Phật Di Lạc, cao 71 thước, mắt dài 3.3 thước, mặt cao 14.7 thước rộng 10 thước, tai dài 7 thước, vai rộng 24 thước. Tượng Phật ngồi an nhiên tự tại, khí phách hùng vĩ là tượng đá khắc lớn nhất thế giới. Tượng do cao tăng Hải Thông khởi tạo vào thời Đường, Khai Nguyên thứ nhất (năm 713) và đã hoàn thành 90 năm sau đó bởi cư sĩ Vĩ Cử, Tiết Độ sứ Kiếm Nam, Tây Xuyên.