Khi máy bay đến phi trường Whitehorse và hành khách tứ tán khắp nơi đúng vào lúc 3 giờ 09, giờ Cananda, thì Charity đã ở trên không 11 giờ mệt mỏi. Cổ đau, lưng mỏi, miệng khô không có chút nước bọt. Lạy Chúa, cô ghét đi máy bay. Cô mừng vì đã đến nơi bình an vô sự. "Thoát chết rồi", cô lẩm bẩm trong miệng, khi bánh máy bay chạm mặt đất, nhưng cô vẫn còn ngồi yên một chỗ. Phi trường nằm ở phía Bắc thành phố nhỏ, nhưng có vẻ hoạt động tốt, hay là cô nghĩ như thế khi thu hồi cái túi xách thứ nhất nơi băng tải. Khốn thay, cái túi xách thứ hai, cái túi xách đựng đồ trang điểm, bàn chải răng, sinh tố, dũa móng tay, và những thứ lau mặt, không thấy đâu hết. Khi băng tải đã dừng và nhận thấy mình là người cuối cùng còn đứng đợi lấy hành lý, cô mệt mỏi bước tới quầy kiểm soát, điền vào những biểu mẫu cần thiết. Người nhân viên sau quầy, một phụ nữ trung niên có mái tóc thưa, màu nâu nhạt và vẻ mặt lo âu, nói: - Bảo đảm sẽ có người mang đến tận nơi cô ở. Ngay khi cái túi xách được đưa đến đây, chúng tôi sẽ chuyển đến cho cô ngay tức khắc, nhé? Tiếng "nhé?" phát âm theo giọng Canada khiến cô bật cười. Cô đã ở đây rồi. Cô đã đến Whitehorse, chặng dừng đầu tiên trên chuyến phiêu lưu đến vùng hoang dã. Bây giờ chỉ có vấn đề này mới quan trọng. Cô ký tờ biểu mẫu, cảm ơn người phụ nữ rồi đi ra ngoài, đứng trước phi cảng để tìm xe. Đứng trên vỉa hè, nhìn ra quãng trống rộng mênh mông quanh phi trường, Charity bỗng đâm lo. Nếu có tắc xi đợi khách, thì chắc họ đã đón hành khách đi hết rồi, trong cái thành phố nhỏ chưa đầy hai mươi ngàn dân này, chắc không có tắc xi thường xuyên. Thế nhưng, cô thấy có chiếc tắc xi đậu bên hè đường, đây là một chiếc Buick cũ ít ra cũng mười năm, ống bô đã rỉ sét và nước sơn xanh đã tróc nhiều nơi. - Thưa, cô đi xe chứ? - Người tài xế lên tiếng mời, anh ta nhìn qua cánh cửa phía bên chỗ khách ngồi hỏi. Mũi anh ta lớn, hơi khoằm, da ngăm ngăm, tóc đen thẳng. Ở Manhattan, anh ta có thể là người Puerto Rico, Pakistan, Jamaica hay dân của hàng chục quốc gia khác. Nhưng ở đây chắc anh ta là dân da đỏ. Ở đây người ta gọi họ là dân của Nước Đầu Tiên. Người da đỏ thật sự đầu tiên của tôi. Cô không nín cười được. - Tôi trọ tại khách sạn River View. Anh cho tôi đến đấy được chứ? - Được. Mời vào - Anh ta không giúp đưa hành lý của cô lên xe, mà cũng không mở cửa xe. Charity mở cửa xe, đưa cái túi xách bằng vải bạt màu đen vào, rồi leo lên ngồi ở ghế sau. Cô nhăn mặt vì một cái lò xo chích qua lớp da màu xanh bọc ghế ngồi, đâm vào sau mông cô. Cô nhích người tránh sang chỗ khác, mong sao chiếc quần đen đẹp đừng rách. Cô không đem theo nhiều quần đi đường. - Khách sạn nằm ở ngã tư đường Số một và... - Tin tôi đi, thưa cô, tôi biết khách sạn ở đâu rồi. Chiếc xe rồ máy chạy khỏi phi trường, kính cửa xe hạ xuống để gió lạnh tháng Năm thổi vào lùa mái tóc vàng thẳng ra sau vai cô. Sáng nay cô đã kẹp mái tóc dài, buộc sơ sài thành một bím nhỏ, gọn gàng, chỉ để vài sợi lưa thưa xõa quanh mặt cho hợp thời trang thôi. Nhưng kim găm kẹp tóc đã chích vào phía sau đầu cô khi ngồi trên máy bay chật chội, khiến cô thấy khó chịu, nên cô đã tháo kim ra, để cho tóc xoã xuống. Khi chiếc xe ọp ẹp chạy vào phố Whitehorse, cô trông như thể đã nếm mùi gió Chinook, tiếng lóng của miền Bắc dùng để chỉ ngọn gió lớn mang hơi nóng từ dãy núi đá đến. Người tài xế có đôi vai vạm vỡ mặc cái sơ mi bằng vải len đã sơn và chiếc quần jeans mòn vẹt, anh ta thường tình mang cái túi xách của cô vào tiền sảnh khách sạn, trong khi cô lục trong cái ví nhỏ hiệu Kate Spades, để tìm tiền Canada mà cô đã đổi ở Vancouver. Cô nhận thấy cái túi xách quá nhỏ khi dùng đi xa như thế này. Ước gì cô mang theo cái to hơn cái này. Cái to hơn chắc sẽ đựng luôn cả cái túi xách đồ trang điểm và bản chải răng hiện đang bị thất lạc. Charity trả tiền cho người tài xế, rồi nhìn chiếc Buick cũ rích chạy đi, sau đó cô đưa mắt nhìn quanh. Whitehorse là thủ phủ của bang Yukon, một thành phố nhỏ, so với Manhattan chẳng nghĩa lý gì. Qua sách vở cô đã đọc về nơi này, thì thành phố được xây dựng trong thời gian xảy ra phong trào đi tìm vàng ở Klondike, hàng chục ngàn người đi tìm vàng đáp tàu thủy đến Skagway, Alaska, rồi trèo qua những ngọn đèo vượt núi đến đầu nguồn của sông Yukon. Ở khu vực thuc thành phố, có nhiều ngồi nhà xưa cũ, nguyên thủy, mặt tiền xuống cấp, xây cất từ cuối thập niên một ngàn tám trăm, vẫn còn nằm hai bên đường phố, trông như nhà cửa trong bộ phim do John Wayne đóng, đường sá chật hẹp, những lối đi vào các cửa hàng đều lót ván y như cảnh tượng vào thời ấy. Đứng trên Đường Thứ Nhất, bên kia đường là con sông Yukon lớn rộng, Charity nghĩ đến bao nhiêu năm qua cô đã mong muốn được đến đây, cô nghẹn ngào vì cảm xúc. Cô đã nói với Jeremy cô muốn đi phiêu lưu, cô đã nói với đồng nghiệp và bạn bè như thế, nhưng chỉ có bố cô và các chị em cô mới biết rằng việc đi đến Yukon là giấc mơ suốt đời. Khi còn tấm bé, Charity đã say sưa nghe kể chuyện về miền Bắc. Suốt nhiều năm qua, cô thường xem lại hàng chục lần bộ phim đen trắng có nhan đề Sergeant Preston of the Yukon (Trung sĩ Preston ở Yukon). Cô đọc thơ của Robert Service cho đến khi thuộc lòng, và khóc khi đọc truyện viết về cảnh hoang dã của Jack London. Tại sao những truyện đặc biệt này trong lịch sử làm cho Charity xúc động sâu sắc đến thế, cô không thể nói được. Có người mơ đến thăm tháp Eiffel, có người mơ xem Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Charity muốn thấy những ngọn núi đỉnh phủ tuyết và những cánh rừng xanh tươi ở miền Bắc. Và sau nhiều năm chờ đợi, cuối cùng cô đến đây. Charity cười, trở về với thực tại trước mặt sau khi đăng ký lấy phòng khách sạn, cô sẽ tìm tiệm thuốc tây mua bàn chải răng, rồi ngủ một giấc cho lại sức. Trước khi đến nơi ở Dawson City, cô phải đi hơn 300 dặm nữa. Ở một nơi hẻo lánh như bang Yukon này, đoạn đường như thế là rất xa. Cô hơi lo về chiếc xe cô đã thuê, chiếc SUV. Cô đã sống ở Manhattan lâu năm rồi. Cô hiếm khi lái xe, mà lái một chiếc lớn như chiếc Explorer thì chưa bao giờ cô lái. Tuy nhiên, nếu may mắn thì ngày mai thế nào cô cũng đến đấy. Charity không thể đợi lâu được. - Chào mừng cô đến Dawson City, thưa cô Sinclair - Người nhân viên địa ốc chào cô, ông ta tên là Boomer Smith, thân hình thấp, đầu hói, nặng nề và nụ cươì hình như nở mãi trên môi. Bài viết đăng trên Nhật báo Phố Wall ký tên là Smith Realty và sau đó cô tìm ra được công ty qua mạng Internet. Sáng hôm qua, hãng máy bay đã tìm ra cái túi xách thứ hai của cô, đem đến khách sạn cho cô, và sau khi đã nhận chiếc xe thuê, cô gọi đến cho văn phòng của công ty tại mt trạm bán xăng nằm trên xa lộ Klondike, một trong số hai hay ba trạm trên cả một đoạn đường dài 335 dặm! Cô và Smith vạch kế hoạch sẽ gặp nhau tại văn phòng của ông ta ở thành phố Dawson khi cô đến vào xế chiều ngày hôm sau, nhưng chiếc Ford Explorer bị trục trặc ở bình phun nhiên liệu tại một nơi có tên Pelly Crossing, một địa điểm rộng trên đường, và cô phải mất mấy giờ để cho chuyên viên của cửa hàng Selkirk, cửa hàng vừa bán xăng, vừa là quán bar, vừa bán thực phẩm, đến điều chỉnh lại. Khi Charity đến Dawson thì trời mưa, lưng cô đau nhừ và hoa cả mắt. Trời đã tối và lạnh, cô chỉ muốn tìm chỗ để ngủ một giấc. Cô mua một lát bánh Pizza ở nhà hàng có tên là Grubstake, rồi đăng ký lấy phòng ở khách sạn Eldorado. Mãi cho đến sáng hôm sau cô mới thực sự đi xem thành phố. - Sao, cô nghĩ về Dawson city như thế nào? - Câu hỏi của Boomer khiến cô nhớ cảnh thành phố khi cô nhìn qua cửa sổ phòng khách sạn khi mới vào phòng: thành phố kỷ nguyên đi tìm vàng giống như hình ảnh các thành phố đi tìm vàng trong các sách viết về miền Tây có bìa mỏng. Những con đường bùn lầy và vỉa hè cao lên với hai dãy nhà kiểu miền Tây cổ, sườn nhà bằng gỗ, mặt tiền lụp xụp, có lối đi vào lát gỗ gồ ghề. Thành phố gần giống Whitehorse, nhưng nhỏ hơn, và cái gì ở đây trông cũng xưa cũ hơn, như thể Dawson cương quyết duy trì như thế chứ không chịu thay đổi. Quả vậy, thành phố trông như thế cách đây 100 năm về trước, và khi nghĩ như vậy, Charity cười. - Đúng đây là một thành phố - Cô đáp - Tôi chưa bao giờ đến thành phố nào mà đường phố còn là đường đất như thế này. - Chúng tôi muốn duy trì hình ảnh xưa cổ. Thành phố này rất đặc biệtt, đầy di tích lịch sử. Đây là hình ảnh của Dawson vào thời đi tìm vàng ở Klondike và chúng tôi cố bảo toàn di tích lịch sử ấy. Ông mời cô vào ngồi ở bàn làm việc bằng gỗ sồi, trên bàn đồ đạc ngổn ngang, Charity ngồi vào cái ghế có lưng dựa thẳng, hơi ọp ẹp. Giống như khắp nơi trong thành phố, văn phòng xây cất theo kiểu của thập niên một ngàn tám trăm, tường áp ván gỗ sồi, thảm trải nhà có hình cong cong, và đèn dầu hoả treo rải rác trong phòng để trang hoàng. Họ thông qua công việc giấy tờ cần thiết. - Như tôi đã nói qua điện thoại với cô rồi, trang thiết bị và bàn ghế chỉ có sơ sài thôi. Thú thật với cô là tôi không biết chúng có còn ở đấy không. - Vâng, ông có nói rồi. - Tốt, thế thì tôi nghĩ là chúng ta đã bàn giao xong. Bà Foote sẽ có mặt ở đây trong vài phút nữa thôi. Tôi đã phái người đến thay chỗ của bà ấy vào hôm qua rồi, ngay sau khi cô gọi tới báo cho tôi biết hôm nay cô đến. Bà Maude không có điện thoại. - Tôi hiểu rồi - Cô thực sự bắt đầu công việc rồi đấy. Đến Dawson chẳng khác nào trở lại thời gian một trăm năm về trước, và rõ ràng có một số người ở đây vẫn sống cuộc sống như thời ấy. - A, bà ấy đến rồi. Chuông cửa reo xong là Maude Foote đẩy cửa bước vào và Charity đứng dậy chào bà ta. Bà ta già hơn Charity tưởng, có lẽ vào quãng trên 70 một ít và nhờ thân hình hộ pháp nên mặt bà ta ít nhăn nheo. Bà ta thấp hơn Charity một phân, mà cô cao gần một mét bảy, nhưng bà ta đi lưng vẫn còn thẳng và hai vai vẫn còn ngang. - Chắc cô là Charity Sinclair. - Đúng - Charity cười, chìa tay bắt, cô thích thái độ thẳng thắn tự nhiên của bà - Rất sung sướng được gặp bà, bà Foote. - Gọi Maude là đủ rồi. Mọi người ở đây đều gọi tôi như thế đã 50 năm nay - Maude nhìn lên nhìn xuống người cô, chú ý cái quần jeans người mẫu và cái sơ mi vải bông tay dài có cổ bằng vải carô đỏ - Con gái thành phố như cô từ New York đến Dawson này làm gì? Charity nhún vai như thể cô không biết trả lời sao. Mà thực vậy, cô thấy rất khó trả lời. nhưng cô vẫn đáp: - Chuyện này dông dài lắm, nói cho đúng là tôi muốn thay đổi không khí. Tôi muốn rời khỏi thành phố, sống một cuộc sống khác lạ. - Khác lạ! Tốt thôi, nhưng cô không phải là người đầu tiên đến đây tìm vàng, và chắc không phải là người cuối cùng. Boomer Smith đã giới thiệu Maude Foote là người có thể giúp cô trong bước đầu làm công việc khai mỏ. Maude đã khai thác mỏ ở Suối Ngựa Chết, mỏ này đã được khai thác từ 40 năm nay, và bà sống trên một mảnh đất riêng ở cuối con đường chạy qua vùng đất Charity vừa mua. - Lý do tôi đến đây ra sao thì cũng sự đã rồi - Charity nói - Nghĩa là tôi đã đến đây rồi. Tôi định khai thác vàng nơi khu đất tôi vừa mua. Vậy bà có chịu giúp tôi không? Cặp mắt màu xanh nhạt nhìn mái tóc vàng để thẳng của Charity, cô chải mái tóc ra sau gáyht:10px;'>
- Có thể họ là những người đứng đằng sau các vụ phá hoại này. Datatron chỉ có 7 nhân viên, anh là giám đốc công ty. Có lẽ họ cho anh là người tổ chức vụ tống tiền một triệu đô này. - Làm sao anh thuyết phục họ tin là anh không dính líu đến vụ này? Anh cau mày suy nghĩ rồi đáp: - Cứ tin anh đi. Anh có cách làm cho họ tin - Nói thì nói, nhưng mặt anh vẫn hiện lên vẻ lo lắng. - Em hy vọng anh kiếm người hộ vệ hay sao đấy. - Có lẽ anh nên kiếm người làm vệ sĩ, nhưng anh không thích thế. Anh thích được tự do, cảnh hoang dã là lãnh địa của anh. Anh tin chắc nếu có gì xảy đến cho anh, anh đủ sức tự vệ được. Anh nghĩ không cần phải lo xa như thế làm gì. Khi tập đoàn Wild Card biết chúng ta muốn ngồi vào bàn thương lượng, anh nghĩ họ sẽ không quấy rầy công ty của anh nữa. Ít ra cũng không cho đến khi họ nghe chúng ta nói gì. - Anh có biết chắc người nào không? - Biết chứ. Anh không có nhiều kẻ thù – Ít ra anh cũng tin như thế. từ khi anh dấn thân vào nghề kinh doanh đến nay đã lâu năm rồi. Charity kéo ghế anh thường ngồi khi ăn sáng. - Tại sao anh không ngồi, rồi em mang thức ăn đến cho anh ăn? Anh ngồi xuống ghế, cô đi múc thức ăn vào dĩa cho anh và cho cô. Khi bánh mì Pháp đã vàng, cô lấy cho vào giỏ, mang hết thức ăn đến bàn, rồi ngồi xuống bên cạnh anh. Thức ăn ngon, anh không ngờ anh thấy đói như thế. Tâm trí anh quay cuồng với những chuyện xảy ra trong ngày, nhưng anh cảm thấy không muốn nói đến. Charity hình như cảm thông với tâm trạng của anh. Đây là điểm mà anh thích nhất ở cô, họ có thể ngồi yên lặng bên nhau mà không thấy khó chịu chút nào hết. khi ăn xong, cô thổi tắt đèn cầy ở giữa bàn rồi đi rữa bát đĩa, nhất quyết không chịu để anh giúp. Anh ngồi yên nhìn cô, lòng phân vân không biết anh có thuyết phục được cô ở lại đêm nay hay cô cương quyết ra về. Cô tráng dĩa rồi cho vào máy rửa. xong, cô đến phía sau ghế anh ngồi, thoa bóp cổ và thoa vai cho anh. - Anh cảm thấy như thế nào? Hai tay cô mềm mại, ấm áp vì nước tráng dĩa cô vừa dùng xong. Anh cảm thấy cặp vú cà nhẹ lên lưng anh, lửa dục lại bừng bừng trong anh. - Hai bàn tay em tuyệt quá – Hai bàn tay tuyệt rồi mà thân hình nhỏ nhắn, rắn chắc, lại còn tuyệt hơn nữa. Ở dưới bàn, anh cứng như đá, máu chảy rần rần trong huyết quản. Mẹ kiếp, anh muốn cô, và nếu cô cứ sờ anh như thế này, chắc anh bế cô vào giường thôi. Anh cảm thấy môi cô áp vào gáy anh, anh rùng mình. - Call, em nhớ anh – Cô dịu dàng nói. Anh cần lời khích lệ như thế thôi. Anh bèn xô ghế đứng dậy, kéo cô vào lòng. - Lạy Chúa, anh cũng nhớ em. Anh hôn cô dữ dội, nụ hôn say sưa, thưởng thức sự mềm mại của đôi môi cô. Cô toát mùi xà phòng và hoa, anh thưởng thức hương vị rượu vang đỏ đậm. Hai tay anh thoa lên chiếc áo thun, ôm kín bầu vú, hai bầu vú rắn như táo, mềm như đào. Charity thốt lên ư ử và dục tình dâng tràn trong người anh. Đẩy chân đèn cầy sang một bên, anh để cô ngồi lên bàn rồi anh ngồi vào giữa hai chân cô. Chiếc áo thun được kéo lên. Trời đất ơi, dưới áo cô không mặc gì hết. Lửa dục hừng hực, anh cũng bật ra tiếng rên Quỳ xuống trước mặt cô, anh vuốt hai tay lên hông, nắn nót, vuốt ve để thưởng thức vẻ mịn màng, rắn rỏi của da thịt cô. Charity ngửa người ra sau. Chống hai khuỷ tay lên bàn trong khi anh dang hai chân cô ra thật rộng rồi hôn lên đầu gối cô, hôn lên phía trong hai đùi cô, hôn lần lên - C...Call...! Giọng cô thốt ra như có ý nghi hoặc. Chuyện như thế này quá mới mẻ đối với cô, anh nghĩ, lòng cảm thấy khoan khoái, sự khoan khoái của giới mày râu. Anh đẩy cô nằm ngửa xuống bàn rồi kéo áo thun lên khỏi ngực, mút hai núm vú. Cô rên, còn anh hôn lần xuống, hôn rốn, xuống hông, hôn lần xuống - Ôi... ôi, lạy Chúa - cô cảm thấy hai tay cô nắm tóc anh rồi bỗng cô lôi đầu anh đi, nhưng anh nắm chặt hông cô, giữ cho cô nằm yên - Hãy yên - Anh thì thào nói Anh là người tình kiên nhẫn. Trong quá khứ, anh đã tự hào về điều này, và bây giờ, anh sử dụng sự kiên nhẫn, dịu dàng với cô, hôn lên vú cô lại, lấy đầu lưỡi ngoáy vào lỗ rốn cô, rồi trở lại mục tiêu chính của mình Lần này cô không chống anh. Cô tin tưởng anh và anh dùng lòng tin đó để làm cô hưởng khoái lạc. Bụng cô run run, hai tay cô lại bấu vào tóc anh, nhưng lần này tay cô để yên, không giật đầu anh. Anh cảm thấy bắp thịt nơi đùi cô co thắt, cảm thấy cô không nẩy người lên trên bàn, anh biết cô gần buông thả Anh tiếp tục làm thế cho đến khi cô cực khoái. Anh nhìn cô kinh ngạc, anh thấy cô có cái gì của con người sơ khai, ích kỷ. Anh tiếp tục công việc của mình để đưa cô đến điểm cực khoái Khi anh đỡ cô ra khỏi bàn rồi đẩy nhẹ cô đứng cúi người xuống, cô lảo đảo và gập người lại. Anh nắm hông cô, áp vào người anh Đây là lần cực khoái ác liệt nhất trong đời anh. Sau đó anh đứng yên ôm sát cô vào ngực mình, hai tay quàng quanh bụng cô Charity quay lui nhìn anh. Và bỗng cô oà khóc