CHƯƠNG 23

    
ôi hốt hoảng bật dậy. Rachel ngồi sau tay lái chiếc xe bán tải đang phóng nhanh. Tôi nằm co quắp trên sàn xe bên phía ghế hành khách. Tôi lết lên ghế và thấy xe chúng tôi đang lao vào một đoạn đường cao tốc vùng nông thôn hiu quạnh. Đằng sau chúng tôi không có gì ngoài con đường vắng lặng.
  “Làm thế nào cô vào được?” tôi hỏi. “Tôi đã không khóa cửa xe à?”
  Cô không nhìn tôi. “Anh đã khóa rồi. Có một đoạn dây thép nặng trên thùng xe. Tôi làm một cái móc rồi kéo khóa từ bên trong khung cửa ra.”
  “Chúng ta đang ở đâu đây?”
  “Gần Caryville. Theo các biển báo, hình như đường I-75 chạy qua đây.”
  Tôi lắc đầu xua đuổi tàn dư của giấc mơ Jerusalem khỏi đầu óc. Tôi đã bất tỉnh mất bao lâu? “Đội SWAT đâu rồi?”
  “Đang lùng chúng ta, tôi chắc thế.”
  Tôi nghĩ chắc Rachel đã tiết lộ đích đến của chúng tôi cho NSA. Nếu thế tại sao cô lại chở tôi qua đường vắng? Cô đang quay trở về Frozen Head chăng?
  “Tôi biết anh đang nghĩ gì,” cô nói. “Nhưng anh nhầm rồi. Chắc chắn có kẻ khác đã biết về công viên Frozen Head. Có thể anh đã từng nói với ai ở Trinity về nó. Ravi Nara chẳng hạn? Trước khi các anh bắt đầu ghét nhau.”
  “Không. Cô là người duy nhất còn sống biết về cái hang đó. Ít nhất là về mối liên hệ của nó với tôi.”
  Tôi hạ kính xuống, nhoài người liếc nhìn bầu trời. Không có gì cả, ít nhất là trong khoảng không gian nhìn thấy giữa hai hàng cây dọc con đường nhựa hẹp. Có lý gì người của Geli Bauer không xông đến nếu chúng biết tôi đang ở đâu? Tôi không thể nghĩ ra một lý do nào cả. Geli sẽ tra khảo thay vì theo dõi để nhanh chóng có được mọi thứ ả muốn ở tôi kia.
  “Nếu cô không giúp bọn chúng, tại sao cô còn đi theo tôi?”
  Rachel nhìn tôi, mắt cô tràn ngập nỗi buồn. “Tôi thậm chí chẳng muốn trả lời anh câu ấy.”
  Tôi muốn tin cô, nhưng thế chẳng hóa ra tôi ngờ nghệch lắm sao. “Coi nào... nếu cô không nói với chúng về Frozen Head thì chúng không thể đón lõng ta ở đó như thế được.”
  “Anh đã quên gì đó,” cô khăng khăng. “Chắc chắn là thế”
  “Không. Cha tôi và anh tôi đã chết. Bọn NSA phải có khả năng đọc được ý nghĩ của tôi mới biết được...”
  Người tôi đông cứng lại, miệng há hốc. Phát hiện này khiến tôi choáng váng như bị đánh một cú vào đầu.
  “David, anh làm sao thế?”
  “Bọn chúng đã làm được chuyện đó,” tôi lẩm nhẩm. “Lạy Chúa.”
  “Đã làm cái gì?”
  “Trinity. Chúng đã có được một nguyên mẫu và đang vận hành...”
  “Làm sao anh biết?”
  Tôi đặt một bàn tay run rẩy lên trán. Ở nơi nào đó trên nước Mỹ, một ảnh não của tôi do Siêu MRI quét đã được nạp vào máy tính Trinity. Và mẫu thần kinh ấy bây giờ đang tồn tại - ít nhất là đến một mức độ nào đó - với tư cách David Tennant. Tôi có cảm giác như những kẻ săn lùng tôi đã phát hiện ra tôi có người anh em sinh đôi, một người anh em ma quái có chung trí nhớ với tôi và sẵn sàng phản bội tôi khi có yêu cầu. Cái cảm giác bị cưỡng bức thật tuyệt đối. Trí óc của tôi là nơi ẩn náu thâm nghiêm nhất của tôi khỏi thế giới bên ngoài. Tôi cảm thấy bị cưỡng bức một cách bí hiểm, bị tước đoạt mất sự riêng tư.
  Bọn chúng còn đón lõng tôi ở đâu nữa? tôi tự hỏi.
  “David, anh đừng làm thinh với tôi, “ cô khẩn nài. “Hãy nói với tôi đi.”
  “Bọn chúng đã có trí nhớ của tôi, Rachel ạ. Chúng đã có tôi, được nạp vào máy tính của chúng. Nhờ đó chúng biết đường đợi tôi ở Frozen Head. Chúng sẽ không phải săn đuổi ta nữa. Chúng biết những việc tôi sẽ làm cả trước khi tôi thực hiện.”
  “Không thể thế được.”
  “Có đấy. Đó chính là những gì chúng thực hiện trong suốt hai năm nay. Tôi biết chúng quá rõ. Tôi biết Peter Godin. Và tôi biết đó là sự thật.”
  Cô giảm tốc để vào cua. “Có nghĩa anh cho rằng Fielding đã đúng? Họ đã và đang làm dự án máy tính này ở một nơi nào đó từ bấy nay?”
  “Đúng thế. Trong khi tôi và Fielding xoay xở để vạch ra tác dụng ngoại ý của MRI thì chúng chế ra cái đồ chết tiệt ấy ở một nơi bí mật.” Tôi đập tay lên bảng đồng hồ. “Đó là lý do chúng cho một số đội nghỉ trong thời gian tạm ngưng.”
  “Anh đang nói về chuyện gì vậy?”
  “Sau khi chúng tôi ngừng dự án, chúng bảo một số nhóm kỹ sư được nghỉ phép. Có những lúc trong tòa nhà chỉ còn lại mấy người của bộ khung. Sự vắng mặt lộ liễu nhất là nhóm Giao diện, do một cậu có tên là Zach Levin đứng đầu.”
  “Nhóm Giao diện là cái gì?”
  “Đó là nhóm có trách nhiệm tìm cách giao tiếp với những mẫu thần kinh sau khi chúng được nạp vào máy thành công. Cô có nhớ những điều tôi nói khi ở trong giảng đường không? Nếu anh tải một bộ não người vào máy tính, anh thật sự có được gì? Một con người mù, câm điếc, liệt, sợ hãi đến chết. Một nửa cuộc chiến là để làm cho bộ não ấy có mắt, tai và giọng nói. Đó là công việc của nhóm Giao diện. Vì dự án đang bị ngưng nên nhóm này có cớ để vắng mặt. Nhưng bây giờ thì tôi biết rồi. Trời, giá mà có Fielding ở đây.”
  Rachel liếc nhìn tôi. “Nhưng nếu họ đã đến gần thành công như vậy thì giết Fielding để làm gì? Nếu Godin thật sự làm được Trinity, thì còn ai thèm quan tâm đến những tác dụng phụ hay cái gì khác nữa?”
  “Cô nói đúng đấy. Nếu chúng thực sự làm được điều ấy, thì Godin sẽ hầu như trở nên bất khả xâm phạm. Chúng tôi không có đủ thông tin. Có lẽ...” Hai tay tôi giá lạnh. “Ôi trời!”
  “Cái gì thế?”
  “Tôi biết tại sao chúng giết Fielding.”
  “Tại sao?”
  “Có thể chúng làm được rồi.”
  “Anh muốn nói gì?”
  “Hôm qua, John Skow tuyên bố rằng gã không có ý định thay thế Fielding. Tôi nghĩ gã điên. Nhưng bây giờ tôi hiểu rồi. Nếu chúng có một máy tính nguyên mẫu và cho hoạt động thì Fielding không chết.”
  Rachel bối rối quay sang tôi. “Điều đó có nghĩa là gì?”
  “Tôi muốn nói chúng có thể nạp mẫu thần kinh của Fielding theo như cách đã nạp tôi vào máy tính. Chúng sẽ có một trí tuệ Andrew Fielding dưới các đầu ngón tay của mình. Ông ấy có thể giải các bài toán còn lại cho chúng!”
  Cô lái một lúc không nói năng gì. “OK, tạm thời cứ cho rằng điều ấy có thể đi. Nhưng tại sao Fielding lại giúp những người đã giết ông ấy?”
  Lòng tôi tràn ngập cảm giác ngưỡng mộ đến hãi sợ. Peter Godin nhẫn tâm hơn tôi từng tưởng tượng. “Mẫu thần kinh của Fielding sẽ giúp chúng bởi vì nó không biết ông ấy đã bị giết. Việc tải vào máy đã được thực hiện từ sáu tháng trước, khi Fielding được Siêu MRI scan. Nó không nhớ gì kể từ lúc đó. Nó thậm chí không biết việc Fielding cưới Lu Li.”
  “David, chuyện ấy không thể xảy ra được.”
  “Chắc chắn là được. Chẳng qua chúng ta ngẫu nhiên đứng quá gần một bước đột phá trong khoa học. Phản ứng phân rã nguyên tử. Tìm ra bản đồ gien người. Nhân bản vô tính cừu.”
  “Những cái anh vừa nói hoàn toàn không giống với chuyện này. Giải phóng trí tuệ ra khỏi thân xác con người ư?”
  Tôi ngẫm nghĩ điều này. “Cô nói đúng. Chuyện này lớn hơn nhiều bởi vì nó cho chúng ta khả năng đạt được những bước tiến theo cấp số nhân. Hay nói đúng hơn, không phải chúng ta. Mà là tất cả những gì chúng ta gọi là dạng mới của ý thức mà Trinity sẽ phát triển thành. Và nó sẽ phát triển rất nhanh chóng.”
  “Anh đâu biết chắc họ đã làm được hay chưa.”
  “Ít nhất chúng đã đi được một đoạn đường. Có thể chúng đã có một bản thô và cho hoạt động. Có thể chúng đã tiếp cận được trí nhớ của tôi - rút ra những hình ảnh chẳng hạn - nhưng chưa thực sự vận hành nguyên mẫu đó như một chức năng trí tuệ. Trí nhớ người là lĩnh vực chuyên môn của Ravi Nara, và người ta đã có những tiến bộ ngoạn mục trong lĩnh vực này từ trước. Chỉ có điều là ta không cách gì biết được.”
  Rachel chạm vào tay tôi. “Nếu anh đúng, thì bọn họ biết gì về những việc chúng ta đang làm hiện giờ?”
  “Tôi hy vọng là chúng không biết gì cả. Dù bằng cách bí ẩn nào đi chăng nữa, chúng cũng không thể đọc được ý nghĩ của tôi. Có thể chúng có được trí nhớ của tôi từ lúc nhỏ cho đến cách đây sáu tháng, khi tôi bị Siêu MRI quét qua. Nhưng còn tiến trình suy nghĩ của tôi, còn những suy luận của tôi, nhân cách của tôi - những thứ đó sẽ chiếm toàn bộ chức năng của máy tính. Và nếu chúng có cả cái đó...”
  “Cái gì?”
  “Tổng thống sẽ không quan tâm chuyện gì xảy đến với hai bác sĩ quèn. Đất nước chấp nhận thêm nhiều thương vong để xây một tòa nhà chọc trời, hoặc một cây cầu. Tôi với cô là cái giá không đáng kể để trả cho ưu tiên chiến lược mà Trinity sẽ mang đến. Nếu Trinity thật sự thành công thì chúng ta phải chết.”
  Cô chỉ qua kính chắn gió. “Kia là Caryville. Đường I-75. Chúng ta sẽ đi theo hướng Bắc hay Nam?”
  “Đỗ lại.”
  Cô từ từ giảm tốc, đánh tay lái và dừng ngay bên lề đường, chỉ cách con dốc về hướng Bắc một đoạn ngắn.
  “Tôi đang cố gắng thoát khỏi bản thân mình,” tôi nói to ý nghĩ của mình. “Để làm điều đó, chúng ta phải lựa chọn hoàn toàn ngẫu nhiên... Nhưng lựa chọn của tôi có thể ngẫu nhiên như thế nào? Tôi nghĩ chúng ta sẽ tung đồng xu xem sấp ngửa mỗi khi đến những ngã tư thế này.”
  Rachel lắc đầu. “Họ không có bản scan não của tôi. Họ không thể đoán được tôi sắp làm gì. Từ giờ tôi sẽ là người lựa chọn.”
  Cô nhìn thấy vẻ nghi ngờ trong mắt tôi. “Anh vẫn chưa tin tôi phải không?”
  “Không phải thế. Nhưng bây giờ Geli Bauer đã biết mọi thứ cần biết về cô. Ả còn biết cả những điều cô không còn nhớ nữa.”
  Môi Rachel mím lại thành một vạch trắng. “Tôi ghét ả. Tôi ghét ả, mà tôi còn chưa biết ả là ai kia.”
  “Tôi biết. Nhưng ghét ả không cứu nổi chúng ta.”
  “Sao chúng ta không lặn đi đâu đó? Trả tiền mặt ở một nhà nghỉ không tên trong một thành phố không tên chẳng hạn. Nhét chiếc xe tải này sau hàng rào rồi đi ngủ liền lấy ba ngày. Nước Mỹ quá rộng mà. Ngay cả với NSA.”
  “Cô đã bao giờ xem phim America’s Most Wanted chưa? Hằng tuần cảnh sát bắt hàng lô tội phạm lẩn trốn như cách cô vừa đề nghị đấy. Ti vi làm cho nước Mỹ chật hẹp hơn cô tưởng nhiều.”
  Tôi ngả lưng vào ghế và cố để bản năng ngự trị. Xe con và xe tải cứ xuôi ngược chạy qua, cái thì chậm rãi, cái thì làm xe chúng tôi rung cả lên vì gió mà nó tạo ra. Tôi ngồi đó, và tình hình cứ dần dần tự sáng tỏ.
  Ba ngày nữa, chúng tôi có thể có cơ hội gặp tổng thống. Vấn đề là chúng tôi phải cố sống sót để nói được với ông ấy. Những điều kỳ quặc đã dài lại càng dài thêm. Ngay cả khi gặp được Matthews, chúng tôi còn phải thuyết phục ông tin rằng tôi nói thật còn tất cả những người dính líu đến Dự án Trinity đều nói dối. Để làm được điều đó, tôi cần những chứng cớ vững chắc. Mà tôi thì không có. Lựa chọn khác - ra trước công luận - sẽ chỉ làm tổng thống tin rằng tôi là một kẻ loạn óc như mọi người ở Trinity vẫn nói, và chia rẽ người duy nhất có thể cứu chúng tôi. Ba ngày...
  “Chúng ta còn phải ngồi đây bao lâu nữa?”
  “Cho tôi một phút.”
  Lẩn tránh không phải là giải pháp. Chạy trốn cũng vậy. Những giải pháp thông thường không ăn thua. Chúng tôi phải dùng một cách thật độc đáo khiến không ai trên thế giới này có thể đoán ra. Nhưng cách nào?
  Khi chăm chú nhìn luồng xe đang đến qua kính chắn gió, tôi nhận ra rằng tôi và Rachel ngồi đây chỉ vì một lý do duy nhất: những giấc mơ của tôi. Những giấc mơ của tôi đã đưa chúng tôi đến với nhau. Không có những giấc mơ ấy, cả hai chúng tôi có thể đã bị bắn chết ở nhà tôi rồi. Thế mà tôi không hiểu được gì thêm về chúng hơn cái ngày đầu tiên tôi bước chân vào phòng khám của Rachel.
  Hàng tháng trôi qua, những giấc mơ cũng tiến triển theo, giống như một thông điệp dai dẳng được gửi từ một nguồn vô tuyến điện xa xôi nào. Ban đầu, những hình ảnh khó hiểu khiến tôi bối rối, thậm chí hoảng loạn. Nhưng cùng với thời gian - và đặc biệt ba tuần gần đây, trong tôi bắt đầu kết tụ một niềm tin rằng có điều gì đó quan trọng đang được thông báo cho tôi. Tất nhiên các bệnh nhân tâm thần phân liệt cũng cảm thấy một niềm tin tương tự. Giữa tôi và họ có điểm gì khác nhau?
  Tôi nhắm mắt và cố gắng xóa đi những ý nghĩ trong đầu, nhưng lại phản tác dụng. Tôi bỗng thấy hiện lên một thành phố trên đồi được bao bọc bởi những bức tường thành đá vàng rực dưới nắng. Giữa bức thành là chiếc cổng lớn.
  Cửa Đông, một giọng thì thầm trong đầu tôi. Jerusalem.
  Tôi chưa bao giờ thấy một hình ảnh như vậy khi đang tỉnh thức. Tôi mở mắt và thấy Rachel đang căng mắt nhìn bảng đồng hồ. Tôi lại nhắm mắt nhưng hình ảnh kia đã biến mất như dư ảnh của bóng đèn flash.
  “David? Mắt anh làm sao thế?”
  “Không sao đâu.”
  Tôi dụi mắt và cố hình dung điều vừa xảy đến. Trước đây tôi đã từng có cảm giác bị kéo đến một nơi nhất định nào đó. Thuở còn đôi mươi, tôi đi du lịch rất nhiều và trong khi bị lôi cuốn bởi niềm đam mê xê dịch thời sinh viên, đôi lúc đã có một điều gì đó sâu sắc hơn kéo tôi ra khỏi hành trình đã chọn.
  Trong thời gian đi thăm Đại học Oxford, một buổi sáng tôi bị đánh thức bởi cảm giác cần đến Stonehenge - không phải để nhìn thấy nó, mà để có mặt giữa những tầng sa thạch. Người bạn đường của tôi nói không việc gì phải vội vàng; những tảng đá đã nằm đó cả năm ngàn năm nay và chắc chắn có thể đợi thêm ít ngày nữa. Nhưng tôi vẫn thuê một chiếc xe, lái về hướng Nam đến đồng bằng Salisbury. Khi màn đêm buông xuống, tôi một mình đến gần vòng cung cổ và làm cái điều mà du khách ngày nay không ai làm được nữa: bước giữa các tảng đá dưới ánh trăng và nằm lên bàn thờ tế thần linh. Tôi không phải người say mê tìm hiểu về Thời đại Mới theo kiểu amateur, mà là một sinh viên y khoa Đại học Virginia đang chờ mong một sự nghiệp ổn định. Nhưng đó không phải lần duy nhất xảy ra chuyện như vậy. Tôi bị lôi kéo đến Chichén Itzá cũng theo cách ấy. Và trên đường chạy xe đến Grand Canyon, tôi đã thay đổi lộ trình và cắm trại ở Chaco Canyon, New Mehico một tuần lễ. Ở Hy Lạp, tôi lại đến Delphi thay vì Athens. Trong tất cả những hoàn cảnh ấy, tôi luôn cảm thấy một sự thôi thúc bên ngoài, mặc dầu vẫn có tiếng gọi nào đó gọi tôi tới một nơi nhất định.
  Điều tôi cảm thấy bây giờ hoàn toàn khác, một sự thôi thúc bên trong giục giã tôi phải đi đến Jerusalem, bất chấp hậu quả. Việc thành phố này thờ ba tôn giáo là không thích hợp. Tôi không có điểm gì chung với hàng triệu người hành hương thành kính đến miền Đất Thiêng theo kế hoạch này. Tôi chỉ cảm thấy đây là thành phố ẩn chứa những câu trả lời cho tôi, những câu trả lời mà tôi không thể tìm thấy ở nơi nào khác.
  “Chúng ta đi đâu đây?” Rachel cáu kỉnh hỏi.
  “Israel,” tôi đáp.
  “Cái gì?”
  “Jerusalem.”
  “David...”
  “Đó là bởi...”
  “Đừng nói nữa. Bởi vì anh đang bị hoang tưởng, đúng không?”
  “Đúng.”
  Cô nhoài người tới nâng cằm tôi lên, rồi nhìn sâu vào mắt tôi. “David, người ta đang tìm cách giết chúng ta. Chính phủ đang tìm cách giết chúng ta. Anh bị chứng hoang tưởng do những nguyên nhân mà chúng ta chưa biết, nhưng chứng bệnh này có thể đã gây tổn thương cho não bộ của anh. Thế mà anh lại định dùng những hình ảnh hoang tưởng này để dẫn dắt chúng ta tìm ra con đường tự cứu mình sao?”
  “Kẻ nào cố giữ mạng mình sẽ mất mạng.”
  “Cái gì?”
  Tôi lật ngửa bàn tay. “Tôi không nói điều này sẽ cứu chúng ta. Ý tôi là nếu tôi đang bị săn đuổi và có nguy cơ bị giết, thì thà rằng điều đó xảy ra trong lúc tôi đang đi tìm ý nghĩa một điều gì đó mà tôi tin là có ý nghĩa còn hơn.”
  “Anh thật sự tin rằng những hoang tưởng của anh có ý nghĩa?”
  “Phải.”
  “Tại sao?”
  “Tôi không thể giải thích một cách logic. Đó chỉ là một điều tôi biết. Giống như một con chim bay về hướng Nam vậy.”
  Cô thở dài như một người mẹ mệt mỏi nói chuyện với đứa con. “Cố lên, được không, cố gắng giải thích đi.”
  Tôi nhắm mắt tìm từ ngữ để giải thích điều không thể giải thích. “Tôi có cảm giác mình được chọn.”
  “Chọn để làm gì?”
  “Tôi không chắc.”
  “Ai chọn?”
  “Chúa.”
  “Chúa?”
  “Phải.”
  Cô hít sâu và đan tay đặt lên đùi. Rõ ràng cô đang phải đấu tranh để giữ được bình tĩnh. “Tôi nghĩ đã đến lúc anh phải nói cho tôi biết mấy hoang tưởng gần đây nhất là về cái gì? Anh vẫn còn mơ thấy anh là Jesus à?”
  “Phải.”
  “Những hình ảnh ấy khác với hình ảnh trước ở chỗ nào? Tại sao anh lại giấu tôi?”
  Thế là cuối cùng chúng tôi đã đi đến lằn ranh giữa sự tỉnh táo và mất trí. Tôi thấy mừng vì chúng tôi đang ngồi trong xe tải chạy trên xa lộ chứ không phải tại phòng khám của Rachel. Cô không thể gọi ai đến để yêu cầu tôi cam kết. “Bởi vì tôi không còn tin chúng là những hoang tưởng. Hay những giấc mơ. Tôi nghĩ chúng là ký ức.”
  Cô chán nản thở phì ra. “Ký ức ư? Trời ơi, David! Có gì xảy ra trong những giấc mơ ấy?”
  “Tôi đang sống lại một đoạn đời của Jesus. Người đi đến Jerusalem. Những trải nghiệm của Người ở đó. Tôi nghe thấy những giọng nói. Giọng nói của chính tôi... của các môn đồ. Rachel ạ, những gì tôi hình dung trong đầu còn thực hơn cảnh tôi đang nhìn thấy xung quanh. Các sự kiện diễn ra rất nhanh. Tôi sắp thấy cảnh đóng đinh lên thập tự giá rồi.”
  Cô lắc đầu không tin. “Làm thế nào anh có cái ký ức hai ngàn năm, thứ chỉ đi vào trí óc anh sáu tháng gần đây thôi?”
  “Tôi không biết.”
  “Những giấc mơ này thôi thúc anh đến Israel à?”
  Tôi không nghĩ mình cảm thấy thôi thúc như lúc trước, nhưng đúng là thế. Những gì tôi coi là nỗi lo lắng chung chung thật ra là cảm giác cưỡng bách đang lớn dần, hối tôi đi đến nơi diễn ra giấc mơ.
  “Đến Đất Thánh,” tôi nói. “Phải.”
  “Có phải anh sợ rằng mình sẽ chết trong đời thực nếu không đến đó trước khi mơ về cảnh Chúa bị đóng đinh lên thánh giá không?”
  “Có thể. Chủ yếu tôi có cảm giác là nếu tôi không sớm đến đó, tôi sẽ bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu những giấc mơ cố gắng nói với tôi điều gì.”
  Rachel nhìn chăm chăm luồng xe đang đến, đầu lắc tới lắc lui. Rồi cô đột ngột quay sang tôi, đôi mắt cô mở to, rực sáng.
  “Anh có biết hôm nay là ngày mấy không?”
  “Không.”
  “Còn chưa đầy một tuần nữa là đến lễ Phục sinh.”
  Tôi chớp mắt. “Thì sao?”
  “Chúng ta đang đến gần ngày Jesus chết và phục sinh theo truyền thống. Không phải trong những giấc mơ của anh, mà cả trong thế giới thực.”
  “Cô muốn nói hai cái đó có liên hệ với nhau?”
  “Tất nhiên. Bằng cách nào đó, lễ phục sinh đến gần là duyên cớ cho những giấc mơ của anh, cho nỗi lo âu này. Anh giống như những người nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế khi bước sang thiên niên kỷ mới. Anh không thấy sao? Tất cả chỉ là bộ phận của một hệ thống ảo ảnh.”
  Tôi lắc đầu mỉm cười. “Cô sai rồi. Nhưng cô nói đúng về những ngày lễ. Chúng có thể rất quan trọng.”
  Rachel nhìn tôi như nhìn một kẻ đang trêu chọc cô một cách tinh vi. “Còn cuộc gặp tổng thống thì thế nào?”
  “Chúng ta sẽ gặp sau khi trở về. Thêm một vài ngày thì có gì khác đâu? Nhất là nó lại giữ gìn tính mạng cho chúng ta.”
  Cô nhắm mắt và nói nhẹ nhàng. “Anh đã bao giờ nói cho Andrew Fielding biết về những hoang tưởng của anh chưa?”
  “Rồi.”
  “Ông ấy bảo sao?”
  “Ông ấy bảo tôi hãy chú ý đến chúng. Fielding luôn luôn nói rằng khi cố gắng thực hiện Trinity là chúng tôi đang bước theo những dấu chân của Chúa. Ông ấy không biết mình đã đúng biết bao.”
  “Tuyệt. Quan điểm thật giống nhau.” Rachel đặt tay lên vô lăng như thể đang chạy trên đường, nhưng cô cho xe dừng lại. “Anh có ý định đi theo những hoang tưởng của anh đến Israel thật sao?”
  “Phải.”
  “Và anh thừa nhận những hoang tưởng ấy có thể là hậu quả tổn thương não bộ?”
  “Không phải tổn thương não bộ như cô nghĩ đâu.” Tôi nghĩ đến sự phấn khích của Fielding khi ông diễn giải thuyết ý thức của mình. “Mà là những nhiễu loạn đối với quá trình lượng tử trong não tôi.”
  Rachel siết chặt vô lăng đến nỗi các khớp ngón tay của cô trắng bệch ra. “Anh cứ như kẻ quyết định đến Ai Cập tìm ý nghĩa cuộc đời sau khi mơ thấy mình là Pharaoh vậy.”
  “Tôi nghĩ tôi là thế đấy. Tôi biết chuyện đó nghe điên rồ thế nào. Vấn đề là, chúng ta không có lựa chọn nào khác. Nếu cách nói này làm cho cô cảm thấy dễ chịu hơn, thì chúng ta ra đi bởi vì chúng ta cần làm một điều gì đó mà có lẽ máy tính Trinity không thể tiên đoán.”
  “Nó không thể tiên đoán anh sẽ sang Israel sao?”
  “Không. Chính việc quét não bằng Siêu MRI đã gây ra những giấc mơ của tôi. Mẫu thần kinh của tôi không có ký ức về những giấc mơ diễn ra sau đó. Ngay cả trong bệnh án của tôi ở chỗ cô cũng không nhắc đến Jerusalem, vì tôi đã thôi đến khám trước khi thành phố ấy trở thành tâm điểm trong những giấc mơ của tôi.”
  Rachel trông có vẻ đăm chiêu. “Đến Israel không giống như đến Paris, anh hiểu không. Đất nước ấy chiến tranh liên miên. Tôi đã từng đến đó. Họ đặc biệt chú ý đến những người vào ra nước họ. Hãng hàng không Al El kiểm tra an ninh nhiều gấp bốn lần các hãng hàng không khác. Và chúng ta đang bị chính phủ Mỹ săn đuổi. Ngay khi chúng ta tìm cách đặt vé máy bay, họ đã đón lõng chúng ta ở sân bay rồi.”
  “Cô nói đúng. Chúng ta cần hộ chiếu giả.”
  Cô cười cay đắng. “Anh nói cứ như là chúng ta cần mua ít bánh mì và sữa trên đường về nhà vậy.”
  “Tôi còn mười tám ngàn đô la. Phải có cách kiếm ra hộ chiếu giả với số tiền ấy.”
  “Hộ chiếu giả không cho chúng ta vào Israel dễ dàng thế đâu. Họ chạm trán với bọn khủng bố hằng ngày đấy.”
  “Bị bỏ tù ở Israel còn dễ chịu hơn bị giết ở đây.”
  Rachel ngả người ra ghế thở dài. “Anh nói đúng.”
  “Tôi định đến New York. Với mười tám ngàn đô la, tôi có thể kiếm được một hộ chiếu giả ở đó. Tôi biết điều này.”
  “Còn tôi thì sao?”
  “Cô có thể đi. Cô cũng có thể không đi. Tùy cô.”
  Cô gật đầu như thể đang chờ đợi câu đó. “Tôi biết. Nếu tôi không đi thì sao?”
  Tôi nghĩ đến Geli Bauer. “Cô muốn tôi phải nói dối cô ư?”
  Rachel sang số, cho xe chạy lên dốc về hướng Bắc, rồi tăng tốc.
  “Đi New York phải không?” tôi hỏi.
  “Không.”
  “Vậy thì đi đâu?”
  Cô nhìn tôi, mặt bớt cảnh giác hơn bao giờ hết. “Anh muốn tôi đi với anh không?”
  Tôi muốn chứ. Hơn nữa, tôi có cảm giác cô đề nghị đi cùng tôi. “Tôi muốn cô đi với tôi, Rachel ạ. Vì rất nhiều lý do.”
  Cô cười khô khan. “Thế là tốt, vì anh không thể xoay xở được nếu không có tôi. Việc anh ngất trên phố cho thấy anh không hề khỏe. Nếu tôi để anh một mình trên xe này thì bây giờ anh chết rồi.”
  “Tôi biết mà. Cô có đi không?”
  Cô vượt một chiếc xe bồn rồi nhẹ nhàng quay vào làn phải. “Nếu anh muốn đi Israel, thì chúng ta phải tới Washington D.C. trước.”
  Tôi cứng người trên ghế. Bao nhiêu nghi ngờ về cô lại quay trở lại khiến tôi nôn nao.“Tại sao lại là Washington?”
  “Vì ở đó tôi quen một người có thể giúp chúng ta việc này.”
  “Ai?”
  Tôi muốn dò xem có sự lừa dối trong mắt cô không, nhưng cô vẫn chăm chú nhìn đường. “Tôi đã điều trị cho nhiều phụ nữ khi còn hành nghề ở New York. Thực ra hầu hết là phụ nữ.”
  “Rồi sao?”
  “Một số họ có vấn đề với chồng.”
  “Và?”
  “Đôi khi tòa án cho phép những người chồng đến thăm con họ, mặc dầu đã có những chứng cớ lạm dụng thể chất. Một số bà vợ sợ điều có thể xảy ra đến nỗi chỉ còn cách bỏ trốn.”
  Tôi cảm thấy lòng bàn tay ngứa ran. “Cô đang nói về trường hợp giám hộ. Bắc cóc ngay chính con của họ.”
  Cô gật đầu. “Trốn tránh cảnh sát không phải là khó nếu anh chỉ có một mình. Nhưng nếu có trẻ con thì thật gay go. Anh phải đưa đón nó đến trường, chăm sóc y tế, đại loại thế.” Cô liếc nhìn tôi, nét mặt căng thẳng. “Những người phụ nữ ấy có một mạng lưới. Như một hệ thống đường sắt ngầm. Chuyện này cần có tài xoay xở.”
  “Danh tính khác?” tôi nói
  “Phải. Đối với trẻ con, nền móng của một căn cước mới là giấy khai sinh. Đối với người lớn, là thẻ an sinh xã hội và hộ chiếu. Tôi không biết nhiều chi tiết, nhưng tôi biết rằng người giúp đỡ những phụ nữ ấy ở Washington.”
  “Những phụ nữ ấy mua hộ chiếu giả ở Washington D.C. à?”
  Rachel lắc đầu. “Không phải hộ chiếu giả. Mà là hộ chiếu thật.”
  “Thật? Ý cô là sao?”
  Cô liếc nhìn tôi, miễm cưỡng tiết lộ điều cô biết. “Có một phụ nữ làm việc trong cơ quan cấp hộ chiếu ở Washington D.C. Mấy năm trước cô ấy có vấn đề với chồng. Cô ấy rất đồng tình với nghề nghiệp này. Tôi không biết cô ấy là ai, nhưng tôi biết một người mà tôi có thể gọi. Một bệnh nhân cũ.”
  “Nghề nghiệp này,” tôi nói. “Nó vẫn tiếp tục à?”
  “Phải. Tôi đã gửi một phụ nữ từ Chapel Hill đến chỗ họ. Vợ của một bác sĩ.”
  “Ồ.”
  “Tôi chỉ thấy có một vấn đề nghiêm trọng,” Rachel nói.
  “Vấn đề gì?”
  “Anh là đàn ông. Tôi không biết liệu họ có sẵn lòng giúp anh không.”