PHẦN BA
CHƯƠNG 19
Forsan et haec olim meminise invabit.


Một mai giông bão tan rồi
Chuyện xưa nhắc lại bồi hồi có khi.


- Virgil, Aeneid, Quyển II

     hứ Tư trời bắt đầu đổ mưa. Thời tiết đúng kiểu London, ẩm ướt và xám xịt. Thành phố lạnh lùng, đầy những gương mặt nhợt nhạt dưới bóng dù đen, mùi áo quần mãi không khô và cả tiếng mưa rơi đều đều đập vào cửa sổ văn phòng của Strike mỗi đêm.
Mưa ở Cornwall rất khác. Strike còn nhớ những cơn mưa quất vào ô cửa phòng hắn ở nhà mợ Joan cậu Ted. Hắn từng ở với cậu mợ mấy tháng, học trường làng ở St Mawes. Căn nhà nhỏ lúc nào cũng thơm mùi hoa và bánh nướng. Những kỷ niệm thời thơ ấu tự dưng ùa về khi hắn sắp đi thăm Lucy.
Chiều thứ Sáu. Mưa vẫn rơi rộn ràng trên bệ cửa sổ. Robin đang gói con búp bê lính nhảy dù cho thằng Jack. Ở góc bàn đối diện Strike viết một tấm séc, điền vào số tiền bằng lương tuần của Robin trừ đi khoản hoa hồng của Giải pháp Tạm thời. Lát nữa Robin sẽ đi dự phỏng vấn xin việc “nghiêm túc” (cuộc phỏng vấn thứ ba trong tuần đó). Hôm nay cô mặc complet đen, tóc búi cao, trông rất gọn gàng chỉnh tề.
“Xong rồi,” cả hai cùng lên tiếng. Robin đẩy món quà xinh xắn gói giấy in hình những chiếc tàu vũ trụ bé tí về bên kia bàn. Strike chìa tấm séc ra.
“Cảm ơn cô,” Strike nói, cầm lấy món quá. “Tôi không biết gói quà.”
“Hi vọng nó sẽ thích,” Robin vừa nói vừa nhét tấm séc vào túi xách.
“Vâng, chúc cô đi phỏng vấn may mắn. Cô có thích việc đó không?”
“Việc khá tốt. Bộ phận nhân sự của một công ty tư vấn truyền thông bên phía Tây thành phố,” cô đáp, chẳng có vẻ gì là nhiệt tình. “Anh đi ăn tiệc vui nhé. Hẹn thứ Hai gặp lại.”
Trời vẫn mưa dai dẳng, chuyện đi bộ hành xác ra phố Denmark chỉ để hút thuốc cũng trở nên khó nhọc hơn. Strike đứng dưới mái hiên nhô ra chỉ vừa đủ che mưa. Hắn ngẫm nghĩ có nên bỏ thuốc và tập luyện trở lại. Sức khỏe của hắn hình như cũng đang đội nón ra đi, theo chân tiền nong và nơi ăn chốn ở ấm cúng. Điện thoại bỗng đổ chuông.
“Báo cho anh biết là vụ anh cho manh mối có kết quả ngon lành,” Giọng Eric Wardle hể hả. Strike nghe cả tiếng máy xe và người nói chuyện ở đầu dây bên kia.
“Nhanh nhẹn đấy,” Strike bình luận.
“Ừ, tụi tôi nói là làm liền.”
“Vậy việc của tôi cũng xong luôn chứ?”
“Thì tôi gọi cũng là vì chuyện đó. Hôm nay thì hơi trễ. Thứ Hai tôi sẽ đem qua cho anh vậy.”
“Sớm hơn được không? Tôi sẽ nán lại đợi.”
Wardle cười, hơi móc máy.
“Anh tính công theo giờ mà đúng không? Sao không dây ra cho nhiều?”
“Tối nay đem qua thì tốt hơn. Nếu anh đem qua tối nay, lần sau có vụ gì anh sẽ được biết trước hết.”
Wardle im lặng trong giây lát, Strike nghe tiếng đàn ông trong xe Wardle rủa:
“Cái mặt thằng Fearney chết tiệt…”
“Được rồi,” Wardle trả lời. “Lát nữa tôi sẽ đem qua. Có khi bảy giờ mới qua được. Anh chờ được không?”
“Chắc chắn được,” Strike đáp.
Ba tiếng sau hồ sơ được mang đến, khi hắn vừa ăn cá tẩm bột và khoai tây chiên trong hộp xốp để trên đùi vừa xem tin tức London buổi tối trên TV. Người chuyển phát bấm chuông, Strike ký nhận một bưu kiện khá to gởi từ Sở cảnh sát London. Hắn mở ra, bên trong là một kẹp hồ sơ dày màu xám đựng đầy các bản sao. Strike mang hết về bàn của Robin vùi đầu nghiền ngẫm.
Hồ sơ gồm có lời khai của những người gặp Lula vào đêm cuối cùng trong đời cô, kết quả AND thu được trong căn hộ, bản sao sổ trực bảo vệ ở tòa nhà số 18, Kentigern Gardens; đơn thuốc rối loạn lưỡng cực của Lula, báo cáo khám nghiệm tử thi, y bạ của năm trước đó, danh sách các cuộc gọi vào máy di động và cố định và bản tóm tắt các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của cô người mẫu. Ngoài ra có thêm một đĩa DVD, trên mặt đĩa Wardle ghi nguệch ngoạcCamera an ninh – 2 người bỏ chạy.
Ổ đĩa DVD trên chiếc máy tính cũ mèm của Strike đã bị hỏng từ khi mới mua. Hắn thảy cái đĩa vào túi áo khoác treo trên cửa gương rồi trở về bàn tiếp tục nghiền ngẫm hồ sơ, bên cạnh để sẵn cuốn sổ ghi chép.
Màn đêm buông xuống bên ngoài, ánh sáng vàng óng từ chiếc đèn để bàn đổ tràn lên mỗi trang giấy. Strike miệt mài đọc từ đầu đến kết luận cuối cùng. Giữa những lời khai đã được chuốt gọn, các mốc thời gian tỉ mỉ và mớ bản sao nhãn lọ thuốc trong tủ nhà Landry, Strike tìm kiếm sự thật hắn ngửi thấy sau những lời nói dối của Tansy Bestigui.
Khám nghiệm tử thi cho thấy Lula chết do va chạm với mặt đường, bị gãy cổ và xuất huyết nội. Phần trên cánh tay bị bầm. Khi ngã xuống cô chỉ mang một chiếc giày. Ảnh chụp tử thi cho thấy đúng như trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com đã nhận xét, Lula có thay áo sau khi về nhà. Tử thi mặc áo đính kim sa và quần âu chứ không phải bộ đầm trong hình chụp cô ta lúc mới về đến nhà.
Strike đọc đến mấy bản lời khai không nhất quán của Tansy; lời khai đầu tiên chỉ nói chuyện đi từ phòng ngủ vào nhà vệ sinh; lời khai thứ hai thêm vào chuyện mở cửa sổ. Trong cả hai lần khai bà ta đều nói Freddie nằm trên giường. Cảnh sát có tìm thấy nửa tép cocaine trên thành bồn tắm và một túi xốp đựng cocaine giấu bên trong hộp băng vệ sinh trong tủ đồ ngay trên bồn rửa mặt.
Freddie khai là khi Landry ngã xuống thì ông ta đang ngủ, sau đó bị tiếng la hét của bà vợ đánh thức bèn chạy ngay vào phòng khách. Ông ta chỉ kịp thấy Tansy chạy qua, trên người mặc mỗi đồ lót. Bình hoa hồng dành cho Macc mà viên cảnh sát hậu đậu đã vô ý đánh vỡ đúng là quà của ông ta mừng Macc mới đến, cũng là để tự giới thiệu. Ông ta đúng là có muốn làm quen với nghệ sĩ nhạc rap này, có nghĩ tới chuyện mời Macc vào một vai trong bộ phim hành động gay cấn sắp tới. Ông ta phản ứng hơi quá về vụ bình hoa chẳng qua cũng là vì quá sốc trước cái chết của Landry. Ban đầu ông ta tin lời bà vợ khi bà ta nói có nghe thấy tiếng cãi nhau trên lầu. Sau đó, mặc dầu có phần lưỡng lự, ông ta cũng chấp nhận quan điểm của cảnh sát là lời khai của Tansy chịu ảnh hưởng bởi cocaine. Thói chơi thuốc của bà vợ làm cho cuộc sống của hai người rất căng thẳng. Ông ta thừa nhận với cảnh sát là ông có biết việc bà vợ thường xuyên dùng chất kích thích, nhưng không biết trong nhà sẵn có thứ đó.
Sau đó Bestigui nói thêm rằng ông ta và Landry chưa bao giờ vào thăm nhà nhau, ngay cả lần gặp ở nhà của Dickie Carbury (hình như sau đó cảnh sát mới biết vụ này vì Freddie được lấy lời khai tới hai lần) cũng không làm hai bên thân thiết gì hơn. “Cô ấy chủ yếu nói chuyện với những người khách trẻ tuổi, còn tôi thì phần lớn thời gian nói chuyện với Dickie, ngang tuổi tôi.” Lời khai của Bestigui trơn tuồn tuột, không có chỗ nào khúc mắc.
Strike đọc tiếp phần mô tả sự việc bên trong căn hộ nhà Bestigui rồi viết thêm mấy câu vào sổ. Hắn đặc biệt quan tâm tới nửa tép cocaine trên thành bồn tắm, và khoảng thời gian mấy giây sau khi Tansy thấy Lula ngã xuống bên ngoài cửa sổ. Ở đây cái cần có là sơ đồ căn hộ của Bestigui (không có sơ đồ hay bản vẽ gì đính kèm hồ sơ), nhưng Strike cứ nghĩ mãi về một chi tiết không thay đổi trong cả hai lời khai của Tansy: bà ta luôn khẳng định lúc sự việc xảy ra ông chồng vẫn còn đang ngủ. Hắn nhớ lại cách Tansy lấy tay vờ vuốt tóc để che mặt khi hắn cố hỏi chi tiết này. Xét một cách toàn diện, mặc cho cảnh sát đã kết luận, Strike cho rằng vị trí chính xác của hai vợ chồng nhà Bestigui khi Lula Landry ngã xuống vẫn chưa thể xác định rõ.
Hắn đọc tiếp hồ sơ. Lời khai của Evan Duffield gần khớp với những gì Wardle kể lại. Duffield thừa nhận là có ghì cánh tay bạn gái để giữ cô ở lại Uzi. Nhưng Lula vùng ra được và bỏ về; ngay sau đó hắn có đuổi theo. Chỉ có một câu nhắc tới mặt nạ chó sói, viết theo đúng ngôn ngữ khách quan không cảm xúc của viên cảnh sát phỏng vấn Duffield: “Tôi có thói quen mang mặt nạ đầu chó sói khi muốn tránh sự chú ý của giới săn ảnh.” Lời khai ngắn gọn của tài xế cũng khớp với diễn tiến Duffield kể. Ban đầu anh lái xe chở hắn tới Kentigern Gardens, rồi sau về phố d’Arblay, thả hắn xuống đó và đánh xe đi. Rõ là cảnh sát viết sẵn lời khai cho anh ta ký nên rất ngắn gọn, chỉ tường thuật sự việc mà không thể hiện thái độ căm ghét Duffield như Wardle có kể.
Thêm một vài lời khai khác làm chứng cho Duffield: từ người đàn bà nói có thấy hắn đi lên lầu để gặp tay buôn thuốc và từ chính Whycliff, tay buôn thuốc. Strike nhớ lại đoạn Wardle nói là cũng có khả năng Whycliff bao che cho Duffield. Nếu vậy, biết đâu bà ở dưới lầu cũng bị mua chuộc theo? Những người khai có thấy Duffield đi lang thang trên phố London đêm hôm đó thực ra chỉ có thể khẳng định là có trông thấy một người đàn ông đội mũ hóa trang chó sói.
Strike châm điếu thuốc rồi đọc lại lời khai của Duffield. Hắn ta vốn nổi tiếng nóng nảy và có thừa nhận là đã cố dùng vũ lực để ép Lula ở lại. Chỗ bầm tím trên cánh tay Lula chắc hẳn từ đây mà ra. Tuy nhiên, nếu đúng là tay này có chơi thuốc ở nhà Whycliff thì rất ít khả năng hắn đủ tỉnh táo để đột nhập vào tòa nhà số 18 Kentigern Gardens rồi nổi điên lên tới mức giết người. Strike biết quá rõ hành vi của những con nghiện heroin; hắn đã thấy khá nhiều hồi ở nhà hoang với mẹ. Khi dùng heroin người ta trở nên thụ động, dễ bị sai khiến, hoàn toàn trái ngược với màn hung hăng la hét thường thấy ở người nghiện rượu hoặc trạng thái hoang tưởng giậm giật khi vừa chơi cocaine. Strike biết hết thảy các thể loại nghiệp ngập, trong quân đội cũng có mà ngoài đời cũng có. Hắn thấy kinh tởm khi báo chí mạnh tay tô vẽ thói nghiện ngập của Duffield. Heroin không có gì hay ho cả. Mẹ hắn chết thảm trên tấm nệm dơ dáy ở góc phòng sau khi chơi thuốc, mãi sáu tiếng đồng hồ sau mới có người phát hiện ra.
Hắn đứng dậy, bước tới mở cửa sổ lấm tấm mưa tạt, bên ngoài tối đen. Tiếng bass từ dưới quán bar vọng lên to hơn nữa. Vẫn hút thuốc, hắn nhìn về phố Charing Cross lấp lánh ánh đèn xe và những vũng nước đọng. Nơi đó người ta đi chơi tối thứ Sáu, lảo đảo băng qua cuối phố Denmark, tay cầm dù nghiêng ngả, cười nói rộn ràng trong tiếng xe cộ. Strike tự hỏi không biết đến bao giờ hắn mới lại đi uống bia tối thứ Sáu với bạn? Khái niệm đó giờ đây thuộc về một thế giới khác, một phần đời đã lùi hẳn về sau. Giai đoạn dở dở ương ương mà hắn đang sống, gần như chỉ giao thiệp với mỗi Robin, rõ ràng không thể kéo dài mãi được. Nhưng hắn vẫn chưa sẵn sàng để bắt đầu lại. Hắn đã mất đi cuộc sống trong quân đội, mất cả Charlotte và một nửa cái chân. Hắn thấy mình cần phải tự làm quen với chính con người mới này, trước khi sẵn sàng đón nhận thái độ ngạc nhiên và thương hại của người khác. Đầu lọc thuốc lá màu cam rơi xuống con phố tối om, tắt ngúm trong rãnh nước đọng. Strike kéo cửa sổ xuống, trở về bàn và kéo tập hồ sơ về phía mình.
Lời khai của Derrick Wilson không có gì mới lạ. Hồ sơ không hề nhắc tới Kieran Kolovas-Jones hay mảnh giấy màu xanh mà anh ta có nói tới. Strike giở tiếp đến phần lời khai của hai cô gái ở cùng Lula trong buổi chiều cuối cùng, Ciara Porter và Bryony Radford.
Chuyên viên trang điểm nhớ lại là Lula rất vui vẻ và phấn khích về chuyện Deeby Macc sắp dọn đến. Nhưng Porter lại nói rằng hôm đó trông Landry “không giống cô ta thường ngày”, có vẻ “buồn và lo lắng”, nhưng khi hỏi thì không nói gì. Lời khai của Porter có một chi tiết lạ, chưa có ai nhắc đến. Người mẫu này nói rằng chiều hôm đó Landry tự dưng nói rất cụ thể về ý định “để lại hết” cho anh trai. Ciara không khai rõ Lula nói vậy trong hoàn cảnh nào; nhưng đọc qua thì có cảm giác như hôm đó Lula đang nghĩ quẩn.
Strike tự hỏi tại sao Bristow lại không nhắc đến chuyện Lula để lại hết tài sản cho anh ta. Đương nhiên Bristow đã có sẵn một mớ tài sản từ ông già. Có lẽ vì vậy mà một đống tiền nữa với anh ta cũng không có gì đáng nói, khác hẳn với Strike, trước nay chưa từng được thừa kế một xu teng.
Strike bắt đầu ngáp, hắn đốt một điếu thuốc nữa cho tỉnh ngủ và đọc lời khai của mẹ Lula. Theo như lời phu nhân Yvette Bristow, hôm đó bà vẫn còn khá mệt và chưa tỉnh táo hẳn vì mới vừa phẫu thuật, nhưng khẳng định rằng cô con gái “hoàn toàn vui vẻ” khi ghé thăm bà buổi sáng hôm đó. Lula không có biểu hiện gì khác thường, chỉ lo lắng cho tình trạng sức khỏe và khả năng hồi phục của bà. Strike đọc thấy trong lời khai của phu nhân Bristow một thái độ kiên quyết phủ nhận sự thật, nhưng cũng có thể là do cách viết cụt ngủn, không có cảm giác gì của viên cảnh sát lấy lời khai. Chỉ có một mình phu nhân Bristow cho là Lula chết do tai nạn, chắc sơ ý trượt chân ngã từ ban công xuống mặt đường đóng băng đêm đó.
Strike đọc lướt qua lời khai của Bristow, hoàn toàn khớp với những gì ông ta đã kể. Sau đó là lời khai của Tony Landry, cậu của Lula và John. Ông ta khai có đến thăm phu nhân Yvette Bristow sáng hôm đó, có gặp Lula và thấy Lula có vẻ “bình thường”. Sau đó ông ta lái xe xuống Oxford để dự hội nghị quốc tế về luật gia đình, đêm đó ở lại khách sạn Malmaison. Lời khai của Tony đi kèm với mấy dòng bình luận không rõ ràng về những cuộc điện thoại nào đó. Strike mở phần bản sao danh sách cuộc gọi xem có giải thích gì không.
Trong một tuần ngay trước khi sự việc xảy ra, Lula hầu như không hề đụng tới điện thoại để bàn. Ngày hôm trước khi cô ta chết thì hoàn toàn không dùng. Tuy nhiên hôm đó cô ta lại gọi hơn sáu mươi cuộc bằng điện thoại di động. Cuộc gọi đầu tiên lúc 9 giờ 15 phút sáng là gọi cho Evan Duffield; cuộc thứ hai lúc 9 giờ 35 phút cho Ciara Porter. Mấy tiếng sau đó không gọi cho ai cả, rồi từ 1 giờ 21 phút buổi chiều cô ta liên tục gọi cho hai số, cứ hết số này đến số kia. Số thứ nhất là Duffield, số thứ hai, theo như mấy chữ nguệch ngoạc bên cạnh dòng ghi lại cuộc gọi đầu tiên, là Tony Landry. Cô ta liên tục gọi cho hai người này. Thỉnh thoảng nghỉ hai mươi phút, rồi gọi trở lại, chắc chỉ bấm nút “redial” trên điện thoại. Lula hẳn đã gọi điện khi ở trong căn hộ có mặt cả Bryony Radford và Ciara Porter, mặc dù lời khai của cả hai đều không nhắc gì đến chuyện Lula liên tục dùng điện thoại.
Strike quay ngược lại phần lời khai của Tony Landry, trong đó không hề giải thích tại sao cháu gái lại muốn liên lạc với ông ta đến vậy. Ông ta khai là đã tắt điện thoại khi dự hội nghị, mãi sau đó mới thấy những cuộc gọi nhỡ buổi chiều. Ông ta không biết tại sao Lula gọi, và cũng không gọi lại vì khi ông ta thấy cuộc gọi nhỡ thì Lula cũng đã thôi không gọi nữa. Ông ta đoán (đúng y) là khi đó Lula đang ở hộp đêm.
Strike ngáp liên tục; hắn nghĩ tới chuyện đi pha cà phê nhưng không đứng dậy nổi. Đã rất muốn ngủ nhưng theo thói quen hắn vẫn muốn làm cho xong việc. Hắn lật đến phần bản sao sổ trực, ghi lại những người ra vào tòa nhà số 18 ngay hôm trước khi Lula Landry chết. Cuốn sổ cho thấy Wilson cũng không ghi chép kỹ lưỡng gì. Như Wilson đã nói với Strike, sổ không ghi lại những lần ra vào của chủ nhân các căn hộ, vậy nên trong sổ không nhắc gì đến Landry và hai vợ chồng Bestigui. Dòng đầu tiên là nhân viên bưu chính, tới lúc 9 giờ 10 phút sáng; sau đó lúc 9 giờ 22 phút là Giao bình hoa, nhà số 2, và cuối cùng lúc 9 giờ 50 phút là nhân viên bảo trì từ Securibell. Wilson không hề ghi nhân viên bảo trì đi khỏi lúc mấy giờ.
Ngoài những người đó ra thì đúng như Wilson nói, hôm đó khá yên tĩnh. Ciara Porter đến lúc 12 giờ 50; Bryony Radford lúc 1 giờ 20. Radford ra về lúc 4 giờ 40, có ký trong sổ khi ra về. Sau đó là mấy người mang đồ ăn cho nhà Bestigui lúc 7 giờ. Ciara đi ra cùng với Lula lúc 7 giờ 15 và người mang đồ ăn ra về lúc 9 giờ 15.
Strike khá bực mình vì cảnh sát chỉ photocopy lại mỗi một trang trong sổ, trang của ngày trước khi Landry chết. Vậy mà hắn đã hi vọng là biết đâu tìm ra được tên họ đầy đủ của Rochelle ở đó.
Gần nửa đêm, Strike đọc tới phần báo cáo các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của Landry. Có vẻ như cảnh sát muốn tìm những email cho thấy tâm trạng trầm cảm hay manh mối về ý định tự tử, nhưng không tìm thấy gì cả. Strike đọc tất cả những email Landry gửi và nhận trong hai tuần trước khi cô ta chết.
Nghe có vẻ vô lý nhưng chính vô số hình ảnh lưu giữ sắc đẹp lạ thường của Lula khiến Strie có cảm giác cô người mẫu dường như không phải là người thật. Cô ta xuất hiện ở khắp mọi nơi, những đường nét dần trở nên trừu tượng và chung chung, cho dù gương mặt ấy vẫn đẹp không lẫn vào đâu được.
Giờ đây, giữa giấy trắng mực đen, giữa những dòng chữ thỉnh thoảng mắc lỗi chính tả, giữa những chuyện đùa và biệt danh mà chỉ người trong cuộc mới hiểu, bóng ma Lula dường như dần dần hiện ra trước mắt Strike, ngay trong văn phòng tối om. Email của Lula cho thấy điều mà những bức ảnh không thể nào làm được: Strike nhận ra, bằng cảm xúc chứ không phải lý trí, rằng trong đêm hôm đó, trên đường phố London phủ tuyết, đã có một con người thật sự, sống động, từng khóc từng cười; cô ngã xuống mặt đường và chết đi, cơ thể bầm dập tan nát. Hắn hi vọng sẽ thấy được bóng dáng thấp thoáng của tên sát nhân trong hồ sơ, nhưng thay vào đó, hắn chỉ thấy Lula hiện ra, nhìn hắn chằm chằm, như kiểu nhìn của những nạn nhân bị bạo hành, giữa đống tàn tích của một cuộc đời dang dở.
Hắn cũng hiểu được tại sao John Bristow khăng khăng là em gái ông ta không hề nghĩ đến cái chết. Người con gái từng gõ những dòng này hẳn là một người bạn nhiệt tình, quảng giao. Cô ta hơi bốc đồng, bận rộn nhưng lạc quan; say mê công việc và như Bristow có nói, rất phấn khích về chuyến công tác đến Morocco.
Phần lớn email gởi cho nhà thiết ké Guy Somé. Không có gì đáng lưu tâm, ngoại trừ giọng điệu gần gũi, vui vẻ nhẹ nhàng và một lần nhắc đến người bạn đặc biệt:
Geegee ơi, làm cho Rochelle một kiểu gì đó nha? Gần sinh nhật nó rồi. Tốn bao nhiêu em chịu hết. Làm cái gì dễ thương chút (đừng chơi ác nha). Ngày 21 tháng Hai được hông? Iu cưng nhiều. Cuckoo.
Strike nhớ trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com có viết rằng Lula yêu mến Guy Somé như “một người anh trai”. Lời khai của Guy Somé trong hồ sơ cảnh sát cũng là lời khai ngắn nhất. Tuần trước ông ta ở Nhật Bản, vừa mới bay về ngay trong đêm Lula chết, Strike biết rằng nhà Somé rất gần Kentigern Gardens, nhưng có vẻ như cảnh sát không có nghi vấn gì khi ông ta khai là đi ngủ ngay khi vừa từ sân bay về. Strike để ý thấy nếu đi từ phố Charles đến Kentigern Gardens thì ngược chiều hẳn với camera an ninh đặt trên phố Alderbrook.
Strike đóng tập hồ sơ. Hắn đi lại trong văn phòng, nhọc nhằn cởi quần áo ngoài, tháo chân giả và mở giường xếp ra. Giờ hắn chẳng thể nghĩ gì hơn, chỉ thấy mệt mỏi kiệt sức. Hắn chìm ngay vào giấc ngủ, giữa tiếng xe cộ rì rào, tiếng mưa lộp độp bên ngoài và hơi thở không ngừng nghỉ của thành phố.