Đất Tây Hộ bên Tàu, có người Trìng Vĩnh ỷ cha mẹ có chút của cải, nên tuy hắn còn trẻ mà đã ham cờ bạc rượu chè, ưa rong chơi hơn là làm việc. Cha mẹ răn dạy nhiều lần mà chẳng được, hắn vẫn chứng nào tật ấy. Tới khi song thân lần lượt cưỡi hạc quy tiên, hắn hết chỗ nương tựa, mới cuống cuồng lo lập thân. Tính tới tính lui, hắn không biết làm gì để sống bây giờ. Muốn làm thầy thì chữ không đủ. Tính xoay làm thợ thì chẳng cò chuyên môn. Cũng muốn đi buôn nhưng buôn nhỏ thì hắn chê là vất vả ít lời, mà buôn lớn thì không đủ vốn. Thật là nan giải. Hắn bèn đến vấn kế mấy tên sâu rượu và đệ tử của thần đổ bác. Trong bọn có một tên râu rậm cười ngất rồi bảo Trình Vĩnh: - Cái chuyện đó dễ ợt mà anh phải băn khoăn lo lắng, trông tức cười quá. Mất chầu rượu cho cả bọn thì ta mách nước cho. Chịu không? Mấy tên khác khoái trí hoan nghênh ầm ĩ. Trình Vĩng cũng sốt sắng đáp: - Chịu chớ! Nói đi, nói đi! Tên râu rậm chậm rãi hỏi Vĩnh: - Hiện giờ anh có số vốn là bao nhiêu? - Tôi thì chẳng có đồng nào. Còn về của cải cha mẹ để lại, thì tiền mặt không có, nhưng có ba đám ruộng và một căn nhà. - Vậy cũng tạm đủ với cái nghề ta sẽ chỉ cho anh. Gần đây có một bến đò, khách qua lại đông lắm, thường không có chỗ trọ. Vậy anh hãy bán ruộng và nhà đi tới đó mà mở tiệm ngủ ắt phải sống được. Ta xem ra chỉ có nghề đó hợp với khả năng anh thôi. Mọi người đều khen là phải. Thế là ít lâu sau, Trình Vĩnh bán hết ruộng nhà đem tiền lên mở nhà ngủ nơi bờ sông. Vốn lười lại quen chạy dông nên hắn bực bội lắm vì cứ phải cầm chân ở nhà lo hết khách nọ đến khách kia. Cuối cùng, hắn mướn một người tài phú tên là Trương Vạn trông nom thế cho hắn, để được rảnh rang. Hắn bắt tài phú lập sổ sách phân minh ghi tên họ khách trọ cùng các khoản tiền thâu xuất của nhà ngủ, mà muốn khuếch trương tất nhiên cần có thêm vốn. Để giải quyết vấn đề này, hắn ngấp nghé mấy cô gái nhà giàu tính lấy làm vợ, nhưng chẳng ai chịu cả. Đối với hắn lẽ sống chỉ thu gọn vào có một chữ: “tiền”, phải, tiền thật nhiều, bất cứ bằng cách nào cũng được. Một khi đã có định kiến như vậy, dĩ nhiên là hắn rình cơ hội để thực hiện ý muốn. Và cơ hội ấy đã đến cho hắn. Chiều hôm đó Vĩnh trở về tiệm ngủ sau khi rượu đã xoàng xoàng. Lúc đi ngang qua dãy phòng trọ, hắn bỗng đứng phắt lại, miệng lẩm bẩm: - Hình như mìng vừa nghe thấy tiếng khua bạc lanh canh ở đâu đây. Hắn lắng tai nghe một lát rồi nhẹ nhàng tiến đến căn phòng cuối, ghé mắt vào khe mắt dòm vô. Trên chiếc giường gỗ kê ở góc nphòng, một ông thầy chùa, quần áo nâu sồng, đang kiểm lại một túi bạc đầy. Trình Vĩng lẩm bẩm: “chà lắm bạc quá. Phen này ta giàu to rồi”. Đoạn hắn lùi lại rồi bước mạnh tới, đẩy cửa vô phòng nhà sư và lớn tiếng nói: - Nhà chùa đem bạc đi đâu mà lắm thế. Thầy tên chi, ở đâu tới vậy? - A di đà Phật, tôi là Tiểu Giang Long vâng lệnh sư thầy của tôi đem một trăm lượng bạc của thập phương cúng giàng về xây chùa mới. - Sao thầy không đi thẳng lại ghé đây làm chi? - Gần tết nên đò không chịu đi xa thành ra phải đi từng chặng ngắn, biết sao bây giờ. Mai tôi lại ra đón đò khác đi tiếp. - Thầy đi như vầy… một mình hay là còn ai nữa? - Không, tôi đi có một mình thôi. Sư thầy tôi đã về trước rồi. Trình Vĩnh mắt long lanh nhìn túi bạc, miệng giả bộ nói với nhà chùa: - Thầy nên coi chừng. May tôi là chủ trọ biết thầy lắm bạc thì không sao, chớ kẻ khác dòm thấy có thể động lòng tham tìm cách hại thầy để cướp đó. Vậy thầy nên đề phòng rủi ro, chớ để ai biết thầy có bạc nhé. Cửa phòng này không có chốt cài bên trong nhưng thầy cứ yên tâm vì khi đã biết thầy có bạc thì tôi có bổn phận trông nom cho thầy. Sãi Giang Long nghe vậy vội vã thu hết bạc vào túi vải rồi giấu xuống gầm giường miệng không ngớt cám ơn Trình vĩnh. Tên chủ trọ khoác tay đáp: “Có chi mà ơn với huệ” rồi hắn mỉm cười lui ra. Rời phòng Sài Giang Long, Trình Vĩnh đi ra phía trước tiệm ngủ kiếm tài phú Trương Vạn và hỏi rằng: - Tối nay được mấy khách trọ? - Chỉ có một mạng thôi là ông thầy chùa. - Uûa có ba người đến bữa qua đi rồi sao? - Đi từ sáng nay rồi. - Thiệt sao. Trương Vạn mở tủ lấy cuốn nhật ký lật trang ghi bữa nay và nói với chủ: - Ông coi tôi có vô sổ đàng hoàng, đâu dám làm điều bậy bạ. Trình Vĩnh mắt nhìn xuống sổ miệng đọc: - Ngày hai sáu tháng mười hai, ba khác đến một đàn ông là Nguyễn Tạo, hai đàn bà là Vương thị và Phan thị. Ngày hai bảy tháng chạp sáng ba khách nữa qua đi, chiều một khách đến là Sãi Giang Long. Thâu vô tiền trọ… Trình Vĩnh đọc đến đây gập sổ vào và nói: - Lời ghi rành mạch đầy đủ, sổ sách lại đóng tốt thế này, để cả mấy chục năm cũng chưa hư. Anh thiệt là cẩn thận và hơi kỹ quá đó. Thôi được lắm rồi. Trương Vạn thấy chủ khen cười đáp: - Đã không sổ sách thì thôi, chớ đã làm thì phải cho đàng hoàng chớ, chẳng những để m nạn, chuột Nhứt kêu chuột Tứ lại gần dặn nhỏ một hồi. Chuột Tứ vâng lệnh lên đường đến phủ Thừa tướng. Tới nơi thì trời đã sáng tỏ mặt người, nó đi vô hậu dinh núp một chỗ ngắm Thừa tướng rồi thừa lúc Thừa tướng đi ra công đường chuột Tứ lắc mình biến y hệt Thừa tướng rồi vô phòng kéo ghế ngồi đàng hoàng. Nói về Vương Thừa tướng ra tới công đường ngắm Thi Tú tài và chuột Ngũ một hồi lâu rồi truyền: - Đem tên này ra đánh một trăm côn cho ta.Nó là thứ giả. Vừa nói Thừa tướng vừa lấy tay trỏ Thi Tú tài. Lính hầu dạ rân vật chồng Hạ Liễn ra đất rồi thẳng tay đánh đập tơi bời. Thi Tú tài kêu oan và than khóc vang trời. Thừa tướng lại tống giam cả hai vô ngục rồi ông trở về hậu dinh. Vừa bước về phòng, Thừa tướng đứng sững lại. Ông dụi mắt tưởng mình nằm mơ. Không mà! Rõ ràng có một người mặt mũi quần áo giống hệt mình đang ngồi chình ình trên ghế ở giữa phòng. Vương Thừa tướng thét lính hầu: - Bây đâu, vô bắt tên kia cho ta. Thừa tướng giả (là chuột yêu thứ tư hoá ra) cũng hô lính hầu trói vương Thừa tướng lại. Lính hầu nghe quan la chạy rần rần vô phòng. Chuột yêu thấy nguy vội nhẩy xuống đất chạy đến ôm lấy Vương Thừa tướng quay tít mầy vòng. Đến lúac chuột yêu buông Thừa tướng ra thì lính chịu không biết ai thiệt, giả nữa. Người nọ hô lính bắt người kia. Lính gương mắt ếch nhìn hai Thừa tướng, một thiệt một giả, đang giằng co nhau cãi lẫy om sòm. Viên thơ lại lắc đầu bảo đám lính: - Tụi bây đứng canh chừng đây, để ta làm biểu dâng lên Hoàng Thượng quyết định. Vua Nhơn Tôn tiếp được biểu lấy làm lạ cho đòi cả hai Thừa tướng tới trước bệ rồng để phán xét: Con chuột yêu liền hà khí khiến không thể phân biệt đâu là giả, đâu là thiệt. Vua đành truyền tống giam cả vào Thông Thiên lao chờ đến canh ba coi cho rõ. (Vua Nhơn Tôn vốn là xích Khước Đại tiên trên Thượng giới, được Ngọc Hoàng Thượng Đế sai xuống trần gian trị vì thiên hạ, cho nên cứ đến nửa đêm vào giờ tý là hào quang chói loà giúp nhà vua coi biết ai thiệt ai giả). Chuột Tư biết vậy cả sợ, liền thổi khí bay về núi cầu cứu. Chuột Cả liền sai ngay chuột Ba xuống giải nguy. Chuột Ba bay ngay xuống Hoàng thành thì trời vừa hừng sáng. Nó hoá phép biến thành vua Nhơn Tôn rồi điềm nhiên bước ra ung điện, ngự trên ngai vàng. Văn võ bá quan vội tung hô vạn tuế. Vua Nhơn Tôn còn đang mặc áo ở hậu cung nghe tiếng hô vạn tuế lấy làm lạ vô cùng toan gọi quan hầu vô hỏi xẩy có quan Thái giám vô tâu rằng: - Ngoài điện có một người giống hệt Hoàng Thượng từ dung mạo đến lễ phục đại trào, hiện ngự trên ngai. Xin Hoàng Thượng chỉ dạy. Vua Nhơn Tông lật đật chạy ra, tiến đến trước ngai vàng. Chuột Tư vẫn nghiễm nhiên ngồi. Vua Nhơn Tôn điềm tĩnh ngồi xuống bên cạn chuột yr6u. Được cái ngai cũng rộng nên hai người ngồi vừa. Các quan hoảng hồi vội kèo nhau vô trình Quốc mẫu. Mẹ vua cả kính theo các quan ra Càn Chánh Điện tra xét, thì thấy quả nhiên hai người giống nhau như tạc. Quốc mẫu bảo các quan văn võ: - Các khanh khá bình tĩnh, chớ có lo sợ thái quá. Ta đã có cách. Nói đoạn mẹ vua tiến đến trước mặt hai “vua” và nói lớn: - Hai ngươi hãy xoè tay ra cho ta coi. Ai có chữ Sơn Hà Xã Tắc trong lòng bàn tay, người ấy chính là vua Nhơn Tôn. Các quan xúm lại, tay trái vua Nhơn Tôn có chữ Sơn Hà còn tay mặt có hai chữ Xã Tắc thiệt. Chuột yêu không có! Quốc mẫu ra lệnh hạ ngục chuột yêu ngay tức khắc và cấm ngặt không cho ai ra khỏi ngục. Chuột Ba bị giam liền thổi khí về núi báo nguy. Chuột Nhì hạ sơn xuống cứu em. Nó biến hệt thành quốc mẫu ngồi ngay vào ngai và ra lệnh cho quan Thái giám phải thả chuột Ba ra. Quan thái giám lắc đầu bảo lính: - Mới có mấy ngày mà loạn quá xá. Bữa nọ hai Thừa Tướng, bữa qua hai vua, bữa nay lại hai Quốc Mẫu nữa. Ngặt một điều là không biết bà nào là giả, bà nào thiệt chớ. Mộ bà cứ hô giam vua giả lại, một bà lại nằng nặc đòi thả. Cái này lại phải nhờ Hoàng thượng coi giùm mới xong. Vua cũng chịu thua luôn, đứng ngồi không yên, ăn mất ngon, ngủ mất yên. Hôm sau, Vua cho triệu Bao Công về trào gấp. Nhận được lệnh, Bao Công đi suốt ba đêm ngày mới về tới kinh đô. Sau khi vào bệ kiến vua Nhơn Tôn, nhận chỉ thị xong, Bao Công lưu về tư dinh nghĩ phương cách tra ra sự thật. Bữa sau ông chọn hai bốn người lính khoẻ mạnh sai bầy mười sau móm tra tấn dưới thềm rôi cho áp giải hai Tú tài, hai Thừa tướng, hai Quốc Mẫu và hai vua giả. Bao Công xét hỏi một lúc cũng không tra ra manh mối gì, ông liền ra lệnh tống giam tất cả bảy người, hẹn sáng mai sẽ dùng cực hình tra tấn, tất sẽ rõ gian ngay. Bốn chuột yêu thất kinh vội thổi khí viện yêu cả xuống cứu. Con Yêu Cả được tin cấp báo liền bay về phủ Bao Công đi lễ tại miễu Thần Hoàng nên vắng nhà. Chuột Cả liền hoá phép biến thành Bao Công rồi vô ngồi chễm chệ trên ghế bành phủ da cọp. Bao Công đi về thấy vậy cười lớn, rồi điểm mặt Bao Công giả mà quát rằng: - Đứa nào mà loạn phép vậy, dám cả gan giả dạng ra ta để làm điều ám muội. Lính đâu bắt nó cho ta. Bọn lính dạ ran ào vô toan bắt chuột yêu. Chuột cả liền chạy đến ôm Bao Công quay tít một hồi. Đến lúc hia người buông nhau ra thì không còn biết ai thiệt ai giả nữa. Lính chịu chết không dám bắt ai cả. Bao Công thiệt cả giận hô lính đóng tất cả cửa dinh lại, cấm không cho ai vô nữa. Bọn lính bảo nhau: - Thứ thiệt hay giả vậy mầy? - Giả thiệt giả chi mình không rõ nhưng lệnh chả ra cũng không có mắc mỏ thiệt hại chi. Viên cai già gật đầu nói:
http://eTruyen.com
Đã xem 437017 lần.
http://eTruyen.com
Nguồn: vietmessenger.com
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003