Vào hồi ba giờ đêm, sư đoàn của đại tá Đê-ép sau khi hành quân trên chặng đường hai trăm ki-lô-mét đã đến địa điểm quy định-bờ phía bắc con sông Mư-scô-va-và không hề nghỉ ngơi bắt tay ngay vào công việc phòng ngự, đào đất đóng băng cứng như sắt. Lúc này mọi người đều biết mục đích việc chiếm lĩnh dải bờ sông này, trở ngại cuối cùng của địch trên đường tới Xta-lin-grát. Tiếng ì ầm rên rỉ của trận đánh ở xa luôn luôn vọng tới phía trước mặt, rộ to lên vào lúc bốn giờ sáng. Bầu trời ở phía Nam hơi sáng lên, một dải màu hồng bị bóng đêm ép sát xuống chân trời và trong những khoảnh khắc lặng đi ngắn ngủi ở phía đó, nơi đang có một cái gì vô hình, chưa rõ rệt nhích lại gần, nghe rõ trên khắp bờ sông, tiếng xẻng bập chan chát vào nền đất cứng như đá, tiếng choòng lịch kịch, tiếng hô khẩu lệnh, tiếng ngựa hí. Hai tiểu đoàn bộ binh, ba khẩu đội thụoc trung đoàn pháo và một tiểu đoàn chống tăng độc lập được điều qua sông trên chiếc cầu duy nhất nối liền một làng sang bờ sông bên này, đào công sự ở đây và chốt lại ở phía trước lực lượng chính của sư đoàn. Bị kích động trước công việc mới mẻ, chốc chốc mọi người lại văng tục, nhìn về phía chân trời rực cháy, sau đó quay nhìn lại bờ phía Bắc, những ngôi nhà lấm chấm trên đồi, chiếc cầu gỗ trên đó người ta đang kéo những khẩu pháo đến muộn của trung đoàn pháo sang sông. Còn con sông Mư-scô-va ngăn đôi làng này, nằm ở phía dưới, ánh lên màu xanh dưới trời sao. Từ trên những bờ cao con sông bụi tuyết cuốn mù mịt, cơn gió thốc thổi là là mặt đất, xoắn xuýt, lướt trên mặt băng, cuốn xung quanh những cọc mố cầu đóng trên băng. Khẩu đội pháo của trung úy Đrô-dơ-đốp-xki được đặt ở vị trí bắn trực tiếp, phía sau đội cảnh giới chiến đấu. Anh em đào công sự ngay trên bờ sông và sau ba giờ lao động mệt bã người, các khẩu pháo đã được đặt sâu xuống lòng đất đến một cán xẻng rưỡi. Trung úy Cu-dơ-nét-xốp người nóng bừng, đẫm mồ hôi, thoạt đầu cũng cảm thấy hăng say trước công việc gấp rút, như tất cả mọi người. Nghe tiếng súng ì ầm nhỏ dần vì khoảng cách ở phía khoảng trời rực sáng ai cũng hiểu rằng trận đánh đang nhích lại gần, nhất định sẽ lan tới đây và nếu như không đào công sự, không được đất che đỡ thì sẽ phơi mình trên bờ sông tuyết phủ. Nhưng xẻng không bập được xuống đất lạnh cứng, chỉ có những nhát choòng thật mạnh mới khoan được những cái lỗ, gặm từng tí đất, làm tung những mảnh vụn cứng như đá lửa. Cơn gió thốc là là thổi khắp bờ sông, hình bóng các chiến sĩ pháo binh và anh em bộ binh ở bên cạnh động đậy trong màn sương trắng đục; những lá chắn thẫm đen của các khẩu pháo rải rác giữa họ. Đêm càng khuya, băng giá tăng thêm đến mức khó thở, không thể trò chuyện được: mọi người vừa khụt khịt vừa thở, sương giá thoắt bám một lớp dày trên những khuôn mặt đẫm mồ hôi, băng đọng trên mi mắt nếu ai ngừng tay làm việc trong giây phút. Khát nước ghê gớm, anh em vốc những nắm tuyết cứng, bẩn vì lẫn đất vụn trên bờ công ự để nhai; chất nước nhạt nhẽo làm lạnh cuống họng, lạo xạo trong hàm răng. Người đẫm mồ hôi, trung úy Cu-dơ-nét-xốp liên tục nện choòng xuống đất, anh không thể nào dừng lại để lấy lại hơi sức được. Cái ớn lạnh bò ngoằn ngoèo trên thân mình ẩm ướt, dưới chiếc áo va rơi dính chặt vào lưng. Cũng như mọi người, Cu-dơ-nét-xốp nhai tuyết nhưng miệng anh khô khốc và anh bị ám ảnh bởi ý nghĩ không dứt về thứ nước giếng trong vắt, thơm thơm mà anh muốn vục cả cằm vào xô uống cho mát. -Đồng chí nhai quá nhiều tuyết rồi đấy, trung úy-Tri-bi-xốp rụt rè nhắc nhở, bác vụng về dùng xẻng xúc đất do choòng của Cu-dơ-nét-xốp đào lên.-Phải làm sao để ngực đừng bị lạnh. Tuyết chỉ đánh lừa mình thôi. Được độc có cái mẽ ngoài!… -Việc quái gì!-Cu-dơ-nét-xốp thở phào và gọi:-U-kha-nốp! Thượng sĩ U-kha-nốp không mặc áo choàng, chỉ vận có chiếc áo bông, vừa hắng giọng vừa đào những rãnh nhỏ cùng với trắc thủ Nết-trai-ép, nghe gọi, vứt cái choòng xuống, nhảy ngay tới vị trí đặt pháo hãy còn nông, -Công việc thế nào, đồng chí trung úy? Cánh mình có dễ dàng chui vào lòng đất không? Anh thở hổn hển, nóng bừng vì làm việc, mồ hôi toát ra nồng nặc, khuôn mặt ẩm ướt bóng nhẫy. -Có lẽ không tồi lắm,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên-cử ai ra sông đi… Tìm hố nước trên băng. Và đem hai cặp lồng nước về đây. -Ý hay đấy,-U-kha-nốp, đồng ý, đưa tay lau mồ hôi trên má.-Chứ không có thì lũ quỷ chúng nó nốc hết tuyết xung quanh công sự. Sẽ chẳng biết lấy gì mà ngụy trang… Nào có chàng trai nông thôn nào thạo cái món tìm hố nước trên băng không nào? Tri-bi-xốp, anh đi được không? Xuống dưới sông, mang theo chiếc choòng nhỏ! -Được, được tôi đi được… Chứ ở sát bên sông thế này mà lại không có nước uống à? Tôi đi ngay, rồi mọi người sẽ được uống thỏa thuê, đồng chí trung úy ạ,-Tri-bi-xốp cất tiếng nói dồn dập như hát và mọi người đều thấy ở bác vẻ sốt sắng đặc biệt. -Tại sao lại là Tri-bi-xốp? Bác ta còn chưa phới sang bên kia đâu!-Có người nói, cười hềnh hệch vẻ ngờ vực.-Bác ấy biết phương hướng rõ đấy chứ? -Ê-mi-li-a, cậu nói nhảm rồi! Nghĩ vớ vẩn! -Không, tôi đã nói: người ta chỉ nghe rõ mệnh lệnh lúc ở hậu phương thôi! Tuy vậy Tri-bi-xốp vẫn cầm lấy cái choòng nhỏ, leo lên bờ lũy, lặng lẽ đi tập tễnh đến chỗ khẩu pháo để lấy cặp lồng. -Lão nông dân này láu tôm láu cá lắm,-lại có tiếng cười hềnh hệch.-Ngốn như hùm beo, làm như mèo mửa! -Tại sao anh lại công kích bác ấy? Anh không muốn uống nước à? Hay là Tri-bi-xốp đã quyến rũ mất vợ của anh? Bác ấy là nông dân cần cù, hiền như đất. Thế mà anh cứ tru tréo lên! -Thôi đi, anh em! U-kha-nốp quát lên.-Không được động đến Tri-bi-xốp! Còn cậu, Ru-bin, tốt hơn là cậu hãy lo trông nom ngựa, việc đó liên quan đến cậu nhiều hơn. Không được nghỉ hút thuốc! Cậu hãy đào đất đi, nếu không chúng ta sẽ bị đè bẹp gí ở đây như những con rệp! Hay tôi còn phải nhắc lại, hả? Mọi người lại bắt tay đào đắp công sự, tiếng xẻng rít ken két, tiếng choòng đập thình thịch đơn điệu vào nền đất cứng. Cu-dơ-nét-xốp nhặt cái choòng của mình ở đất lên nhưng lại buông nó ra rồi leo lên lũy đất nhìn về phía đám cháy rực sáng ở phía bên trái những ngôi nhà thưa thớt, đen sẫm của ngôi làng hoang vắng đông cứng trong bóng đêm xanh mờ -Lại đây U-kha-nốp,-Cu-dơ-nét-xốp nói.-Cậu có nghe thấy gì không? -Gì thế trung úy? -Cậu nghe xem… Phía trời rực sáng bỗng im lìm kỳ lạ, như chết lặng đi, từ đó không thấy vẳng lại một tiếng ồn, tiếng súng nào cả. Trong cảnh im lìm khó hiểu đó càng nghe rõ và nổi bật hơn tiếng xẻng, tiếng choòng ở phía đằng trước, tiếng nói xa xa của anh em bộ binh trong đội cảnh giới chiến đấu, tiếng ô tô, pháo binh rồ máy trên những điểm cao phía sau, ở bờ sông bên kia, nơi sư đoàn phòng ngự. -Hình như lắng dịu đi,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên.-Hoặc là ta đã chặn được quân địch lại hoặc là bọn Đức đã đột phá được… -Còn về phía bên phải?…-U-kha-nốp hỏi.-Cũng có cái gì ấy. Xa xa ở phía chân trời, mé bên phải chỗ rực sáng, ngay sát trên các mái nhà trong làng ở bờ phía Nam, một quầng sáng thứ hai xuyên lên trời và những tin sáng đo đỏ lặng lẽ bùng lên, tỏa ra như những vòng tròn sáng, trườn vào những đám mây bay là là phía dưới. Nhưng cả ở phía đó cũng im lìm nặng trĩu. -Giống như tên lửa,-Cu-dơ-nét-xốp nói. -Giống lắm,-U-kha-nốp đồng tình.-Như thể chúng đã đột phá được. Bên mé phải ấy. Ngay trước mắt bọn mình. Chúng ráng hết sức lao tới Xta-lin-grát, hả trung úy? Thế là rõ rồi. Chúng muốn cứu đồng bọn thoát khỏi vòng vây. Để rồi lại dang rộng cánh. -Có lẽ thế. Có người nói ở sau lưng, giọng ngạc nhiên vui vẻ: -Anh em ơi, sao im lìm thế nhỉ? Hình như bọn Đức đã rút chạy. Trời sáng rực thế mà lại im lìm! Có lẽ chúng đã nghĩ lại, không định phá vây nữa chăng? Cậu có hiểu không hả? -“Chúng đã rút chạy”, nói dễ nghe gớm… -Láo toét! Có lẽ bọn tướng tá Hít-le đã suy nghĩ nát óc và chúng quyết định: đã đến lúc phải hủy bỏ lệnh cũ! -Này chúng sẽ cho cậu “nát óc” đến nỗi không còn một chiếc khuy áo đâu!-Một giọng nói hằn học móc máy kết luận.-Đến cái khuy quần cũng chả còn đâu! -Làm đi, anh em ơi, đào đất đi, dùng cả răng mà giũi đất!… Na… ào!… Cu-dơ-nét-xốp và U-kha-nốp im lặng nghe mọi người trò chuyện ở sau lưng, tiếng thở phì phò; trong cái im lặng mênh mông bao trùm khắp bầu trời phương Nam nghe rõ tiếng choòng sắc nhọn nện choang choang vào đất rắn như sắt. U-kha-nốp trầm ngâm hỏi như có ý dò đoán: -Chúng còn xa không nhỉ? Thế nào, trung úy? Một giờ? Hai giờ? Hả? -Ai mà biết được!-Cu-dơ-nét-xốp đáp và bẻ cổ áo choàng xuống cái cổ ướt đẫm: chưa hết ớn lạnh, nó vẫn ấp vào lưng anh một tấm mạng nhện lạnh ngắt, mồm anh vẫn khô và nóng như trước.-Cần phải đào công sự như điên! Đằng nào chả thế! Một giờ hay hai giờ nữa thì cũng thế thôi! Họ lại im lặng. Sự im lặng dường như cảm thấy được, lan nhanh trên thảo nguyên và từ phía hai khoảng trời rực sáng trong đêm tối đen ngòm len lách tới khẩu đội một cách gở lạ. Tiếng nói của anh em chiến sĩ ở các vị trí đặt pháo bắt đầu mất hứng thú, đứt quãng rồi lặng đi. Sự im lặng đè nặng lên mọi người… -Có lẽ… còn một việc nữa…-U-kha-nốp nhìn Cu-dơ-nét-xốp, cài lại khuy áo bông.-Lẽ ra còn một việc nữa phải làm: xé xác anh chàng chuẩn úy với cấp dưỡng ra. Cơm nước đâu? Một anh em pháo thủ nào thử tụt lại sau một ngày đêm xem-người ta sẽ đưa ngay ra tòa án binh xét xử như một tên đào ngũ! Ấy thế mà bọn cấp dưỡng và ông chuẩn úy ấy vẫn cứ nhởn nhơ như không.-Rồi U-kha-nốp lắc lư người trên đôi chân vòng kiềng, đi tới chỗ mặt bằng để pháo, ở đó trong bóng tối các chiến sĩ vừa khụt khịt, thở dốc, vừa dùng choòng giũi đất và ném đất vụn lên bờ công sự. -Công việc của người lính cũng như cái bánh xe ấy anh em ạ, không đầu, không cuối!-Tiếng U-kha-nốp vang lên ở bên dưới.-Quay bánh xe đi anh em, ta sẽ tới thiên đàng đấy! -Tri-bi-xốp đâu? Tri-bi-xốp đã mang nước về chưa?-Cu-dơ-nét-xốp hỏi, mệt mỏi vì miệng khô khốc, kinh sợ nghĩ rằng rồi lại phải nuốt thứ tuyết nhạt nhẽo, làm cho cổ họng lạnh toát một cách khó chịu. -Hay là thằng cha tù binh ấy vù về hậu phương rồi?-Anh coi ngựa Ru-bin từ dưới lòng chiếc hố thốt lên một cách cay độc.-Lão ấy chuồn về đằng sau và ném cặp lồng xuống rìa đường. Chú còn gì nữa! Cậu làm sao mà thở phì phò thế Xec-gu-nen-cốp? Lại muốn khóc hả? -Này đồ ngốc, đừng có nói điêu!-Chiến sĩ coi ngựa Xec-gu-nen-cốp bực tức gào lên, hình như chưa quên và vẫn chưa thể tha thứ cho hành động độc ác của Ru-bin lúc anh ta được gọi tới để bắn chết con ngựa bị quỵ trên đường hành quân. -Ru-bin,-Cu-dơ-nét-xốp thốt lên nghiêm khắc,-Phải suy nghĩ trước khi nói. Anh nói toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu. -Ôi, tôi phát chán anh rồi đấy, Ru-bin ạ!-U-kha-nốp lên tiếng bằng một giọng không hứa hẹn điều gì tốt lành.-Tôi báo trước: tôi chán ngấy rồi! Cu-dơ-nét-xốp rút bao tay ra, đưa tay chộp lấy một nắm tuyết sắc như thủy tinh vụn, đưa vào mồm nhai lạo xạo rồi nuốt. Trong giây lát anh tưởng như đỡ khát, cảm thấy toàn thân như tỉnh táo dễ chịu hơn, -Nào!-anh nói.-Đào thêm một cán xẻng nữa… Rồi anh nhảy từ trên bờ công sự xuống mặt bằng để pháo, vớ lấy cái choòng dùng hết sức thọc mũi choòng xuống đất, mạnh đến nỗi đầu anh rung lên, máu dồn lên thái dương. Cu-dơ-nét-xốp bập choòng hết lần này đến lần khác, đứng choãi chân ra để khi vung choòng lên không bị lảo đảo vì mệt mỏi. Năm phút sau cơn khát trước đây, bị nắm tuyết đánh lừa, lại bắt đầu thiêu đốt anh và anh nghĩ: “Tri-bi-xốp… Nhanh lên đi Tri-bi-xốp… Bác ấy làm gì ở đằng ấy nhỉ? Giá có nước ngay bây giờ… Mình làm sao thế nhỉ? Miễn sao đừng ốm?”. Qua tiếng xẻng chan chát anh nghe thấy mẩu chuyện rời rạc về người chuẩn úy, về chuyện nhà bếp nhưng chỉ mới nghe đến thức ăn, tới mùi thơm của món cháo kê anh đã thấy lợm giọng. Vào quãng bốn giờ sáng thì xe nhà bếp tới, lúc ấy toàn tiểu đoàn đã kiệt sức trên những mặt bằng để pháo nhưng cũng đã đào được những hầm đất trong bờ sông dốc đứng. Xe nhà bếp dừng lại ở gần nơi đặt pháo của trung đội hai. Chiếc xe nhô lên như một vết đen thẫm trên nền tuyết trắng, tỏa mùi thơm ngào ngạt, ống thông gió đỏ rực, nóng hổi. Không tụt khỏi ghế ngồi, chuẩn úy Xcô-rích gào lên một cách hú họa: “Có ai đấy không?”-Nhưng không thấy trả lời bèn nhảy xuống đất và người sĩ quan đầu tiên mà anh gặp tại các vị trí hỏa lực này là trung úy Đa-vla-chi-an. Liếc nhìn hai khoảng sáng lờm cờm đang lan rộng ở chân trời, chuẩn úy hỏi bằng giọng trịch thượng liến thoắng: -Đại đội trưởng đâu, đồng chí trung úy?… Tôi cần gặp Đrô-dơ-đốp-xki. Ở đâu? -Hãy nghe đây… chuẩn úy-Đa-vla-chi-an bắt đầu nói, thậm chí hơi líu lưỡi vì phẫn nộ.-Sao anh không biết xấu hổ hả? Các anh làm sao thế, điên rồ cả rồi à? Từ bấy đến giờ các anh ở đâu? Tại sao lại chậm trễ thế? -Xấu hồ gì mới được chứ?-Xcô-rích hầm hầm đáp lại có ý công kích một cách ngạo mạn vì từ lâu anh ta đã hiểu rằng vị trí vững chắc của mình không phụ thuộc vào các trung đội trưởng mặc dầu họ mang quân hàm trung úy.-Vì sao mà xấu hổ nào? Kho hàng tụt lại tận đâu ấy.. Rồi lại còn phải đi lĩnh các khẩu phần, và rượu… Không phải chỉ có mình đồng chí chiến đấu đâu, trung úy! Nghe mà tức cười. Cứ làm như người ta là quân tốt đen không bằng! Xcô-rích nguyên là một khẩu đội trưởng, người duy nhất trong tiểu đoàn đã được thưởng huy chương “Vì lòng dũng cảm” quý giá đối với người lính, hồi năm ngoái trong các trận chiến đấu ở gần Mát-xcơ-va và do phần thưởng đó cũng như do mẽ ngoài hấp dẫn, anh đã được đề bạt lên làm chuẩn úy và rất hài lòng nhận trách nhiệm này. Cố nhiên anh đã sinh ra để làm nhiệm vụ của người chuẩn úy. Trong thâm tâm anh coi mình cao hơn các trung đội trưởng, đặc biệt là anh chàng Đa-vla-chi-an xanh lướt, mũi nhọn và gầy gò này, viên trung úy nhãi nhép chưa ngửi mùi thuốc súng trong quãng đời còn ngắn ngủi của mình, chỉ cần hắt hơi một cái cũng đủ xẻ anh ta ra làm đôi. Đáp lại sự phẫn nộ của anh ta, chuẩn úy chỉ cười khẩy. Tay trung úy nhãi nhép này chả có gì đáng chú ý, hoàn toàn không xứng đáng, thế mà cũng lên mặt ta đây, làm như ngực mình đầy huân chương, có nhiều quyền hành lắm đấy… Với lại không ai trong khẩu đội có quyền trách móc Xcô-rích điều gì vì anh có thể làm như vô tình phanh áo choàng ra, phô trương tấm huy chương, rút chiếc bật lửa ra không phải từ túi quần mà từ túi ngực trên áo khoác. Chỉ có đối với Đrô-dơ-đốp-xki, đại đội trưởng, Xcô-rích mới tỏ ra kính cẩn đặc biệt và hơi e dè. -Chả lẽ anh không xấu hổ à, chuẩn úy!-Đa-vla-chi-an nhắc lại, hơi bối rối vì cái giọng trâng tráo và nụ cười ngạo mạn của Xcô-rích.-Anh cười gì như tay hề ở rạp xiếc thế? Thế mà còn cười được! Anh thấy mình đúng à? Anh có thể dềnh dàng suốt ngày đêm ở hậu phương ư? Lúc này ở gần trung đội của Đa-vla-chi-an không có một pháo thủ nào cả ngoài người chiến sĩ gác là trắc thủ Ca-xư-mốp. Như để kiểm tra, Ca-xư-mốp đã đi mấy vòng trong bóng tối xung quanh xe nhà bếp ấm áp, sực nức mùi thức ăn ngào ngạt, xuất hiện bất ngờ tại các vị trí đặt pháo này cùng với người cấp dưỡng ngồi nấp ở trên xe như người có lỗi. Và đột nhiên, anh điên cuồng rít lên, lên đạn lách cách, chĩa khẩu súng các-bin vào người cấp dưỡng: -Đi đi! Cút!… Không phải là bếp của chúng tôi! Đây không thể là bếp của chúng tôi được! Mày là ma quỷ! Và chuẩn úy cũng là ma quỷ! Đi đi! Mày là quân Đức chứ không phải một người Xô-viết! Mọi người không có đến một mảnh bánh mì để cho vào bụng!… Mày ngủ ở đâu, đồ khốn kiếp! Cả tiểu đoàn đói mềm!… Tao giết mày!… -chính phủ!-Đa-vla-chi-an hét lên giọng the thé.-Anh làm gì thế? -Tôi sẽ bắn chết đồ khốn này!…