7.9. Nếu truớc đó không nhốt con gấu bắc cực vào chuồng, thì làm thế nào để dễ động binh với việt nam?Liên xô, con gấu Bắc Cực, ngay từ thập kỷ 60 đã bố trí nhiều quân đội ven biên giới Trung-Xô và biên giới Trung quốc-Mông Cổ. Kể cả quân đội phái tới Mông Cổ thì tổng số lên tới một triệu. Số tên lửa nhằm vào Trung quốc, tương đương 1/3 số tên lửa của toàn Liên xô. Liên xô hình thành thế bao vây chiến lược đối với Trung quốc, sân sau của Trung quốc trở thành phạm vi thế lực của Liên xô, an toàn quốc gia bị uy hiếp nghiêm trọng. ° (°Lưu ý: Đây là cách nói của Trung quốc - Biên tập)Đặng Tiểu Bình lúc đó vừa chiến thắng phái “phàm là”, nắm quyền quyết sách tối cao của Trung quốc, vốn mong muốn từ đó về sau sẽ tập trung toàn bộ sức lực vào xây dựng hiện đại hóa. Công việc này không thể kéo dài nữa. Nhưng trong tình hình bị Liên xô bao vây ba mặt, làm sao có thể yên tâm xây dựng? Đặng không thể không một mặt bố trí tiến trình hiện đại hóa, một mặt nghĩ cách làm thế nào để nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng, để hạn chế dã tâm bành trướng của nó với Trung quốc. Các nước bạn trong thế giới thứ ba không giúp đỡ được bao nhiêu. Nhưng chính vào lúc đó, Mỹ đã có hành vi chủ động. Oasinhtơn không muốn thấy thế lực của người Nga bành trướng quá đáng ở châu Á, cảm thấy trước sự uy hiếp của Liên xô, lợi ích chung của hai nước Mỹ-Trung tăng lên, nên đã thỏa hiệp với Trung quốc trên vấn đề Đài Loan là vấn đề vốn gây trở ngại cho sự bình thường hóa giữa hai nước, đã tiếp nhận ba điều kiện, đó là rút quân khỏi Đài Loan, đoạn giao và xoá bỏ điều ước tương trợ. Trong tình hình đó, Đặng đã đi một bước quan trọng trong chiến lược ngoại giao: Nhận lời mời bình thường hóa của Tổng thống Ca tơ vào đầu năm 1979, với tư cách người lãnh đạo cao nhất của Trung quốc, bay qua Thái Bình Dương, tiến hành cuộc đi thăm chính thức đầu tiên tới nước Mỹ.Rất nhiều nhà quan sát chú ý, trong thời gian thăm Mỹ, Đặng đã ra sức đóng vai một phần tử thân Mỹ. Chỉ vì để tìm đến sự hợp tác cần thiết về kinh tế và kỹ thuật cho công cuộc hiện đại hóa của Trung quốc, nên đương nhiên cần phải làm như vậy. Càng quan trọng hơn là mượn việc nhấn mạnh lợi ích chung giữa Mỹ và Trung quốc để cho con gấu Bắc Cực thấy. Trong cuộc hội đàm chính thức với Ca-tơ, Đặng nhấn mạnh việc Mỹ, Trung quốc và ấn Độ cần phối hợp hành động để ngăn cản sự bành trướng của Liên xô nhưng có điều bảo lưu quan trọng cho rằng không cần thiết phải xây dựng liên minh chính thức. Song, trong các trường hợp công khai, tư thế chống Liên xô mà Đặng biểu lộ ra, là chưa từng có từ thời “cách mạng văn hóa” đến lúc đó.Khi tiếp xúc với giới báo chí, Đặng kêu gọi Mỹ, Trung quốc, Nhật Bản, Tây Âu và các nước khác trên thế giới liên hiệp lại để cùng chống chủ nghĩa bá quyền Liên xô. Ông nói: Chúng tôi cho rằng nguy cơ chiến tranh đến từ phía Liên xô, sự uy hiếp đến hòa bình, an toàn và ổn định trên thế giới đến từ phía Liên xô. Chúng ta có thể làm thế này: Liên xô hành động ở đâu, chúng ta sẽ ngăn trở ở đó, phá hoại, đập tan mọi hành động của Liên xô ở bất cứ nơi nào...Có người nói, những lời nói chống Liên xô của Đặng trong những ngày ở Mỹ hầu như cũng gay gắt như những lời công kích Liên xô trong thời kỳ “cách mạng văn hóa”. Tại sao như vậy? Trong khi trả lời tuần báo “Thời Đại”, Đặng Tiểu Bình trả lời như sau: “Cần phải nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng”. Trước khi rời Mỹ, Đặng để lại lời nói cuối cùng: “Muốn trói được con gấu Bắc Cực, biện pháp duy nhất của chúng ta là đoàn kết lại”. Báo Sự thật Liên xô trong khi chỉ trích chuyến đi thăm Mỹ của Đặng, đã viết: “Đó là một tuần lễ du thuyết tung hỏa mù phản động chống Liên xô”. Trên thực tế, trên đường ghé Nhật Bản của Đặng, ông cũng vẫn nhấn mạnh chủ đề đó.Mọi người còn chú ý thấy rằng, 10 ngày sau chuyến đi gió lốc đó của Đặng, bộ đội biên phòng Trung quốc ở khu vực biên giới Quảng Tây, Vân Nam đã mở đầu cuộc phản kích tự vệ dạy bài học cho Việt Nam. ° (° Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập)Dư luận phương Tây cho rằng, chuyến đi thăm vùng Thái Bình Dương đó của Đặng là sự trinh sát hỏa lực đối với Mỹ, Nhật. Đúng như vậy, nếu trước đó không nhốt con gấu Bắc Cực vào chuồng thì làm thế nào để dễ động binh chống Việt Nam? Việt Nam có điều ước bảo đảm an toàn với Liên xô. Để củng cố chuồng gấu, trong suốt năm 1979, hai nước Trung-Mỹ trong khi tăng cường hợp tác kinh tế văn hóa, cũng bắt đầu hợp tác quân sự. Thí dụ, hải quân Mỹ thăm Trung quốc hai bên trao đổi đoàn đại biểu quân sự, Mỹ bán vũ khí cho Trung quốc. Giữa năm 1979, mời bộ trưởng quốc phòng Mỹ sang thăm Trung quốc, mở đầu sự hợp tác quân sự Trung-Mỹ. Trung quốc và Mỹ cùng nhau giám sát việc thử hạt nhân của Liên xô, trao đổi tin tình báo về áganitxtăng và Việt Nam.7.10. Đặng định ngày đi thăm mỹ vào mồng một đầu năm âm lịchTrung-Mỹ đối địch hơn hai mươi năm, trở ngại chủ yếu không ngoài hai điều: Sự khác biệt về chế độ xã hội và vấn đề vị trí của Đài Loan. đối với Trung quốc, điều thứ nhất là chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, điều thứ hai là yêu nước hay bán nước, đều là những vấn đề rất nhạy cảm.Nếu cộng thêm những điều kiện quốc tế, thì hướng phát triển của quan hệ Trung-Mỹ sẽ được quyết định bởi ba nhân tố:Một là, do so sánh lực lượng chính trị trong nội bộ Trung quốc, quyết sách chính trị đối với chủ nghĩa tư bản sẽ như thế nào. Sẽ một mực phê phán, phủ định, hay sẽ chủ trương học tập bắt chước. Điểm này tuy không trực tiếp nhưng lại quyết định về căn bản xu thế chung của quan hệ Trung-Mỹ.Hai là, hai bên Trung-Mỹ có thái độ thế nào với vấn đề Đài Loan, nếu hai bên có thể thông cảm lẫn nhau ở mức cao, thì sẽ trực tiếp quyết định con đường phát triển của quan hệ Trung-Mỹ.Ba là, nhân tố bên ngoài là quan hệ Trung-Xô. Theo chiến lược ngoại giao truyền thống của Trung quốc, chỉ nên có một kẻ thù chủ yếu, không thể cùng một lúc chống lại cả hai kẻ thù. Nếu Trung-Xô tăng thêm căng thẳng thì sẽ trực tiếp thúc đẩy Trung-Mỹ xích lại gần nhau. Đương nhiên, nếu Trung-Xô hòa hoãn thì cũng không có nghĩa là sẽ làm cho quan hệ Trung-Mỹ tụt xuống mức thấp nhất.Ba nhân tố trên chi phối lẫn nhau. Đầu những năm 70, nguy cơ ở biên giới phía Bắc tăng lên, Mao Trạch Đông đã chuyển chiến lược chống cả hai siêu cường nghiêng nhiều sang chống Liên xô. So với Liên xô, sự uy hiếp của Mỹ từ bên kia Thái Bình Dương rõ ràng là nhỏ hơn nhiều. Năm 1972, với sự đánh giá “Việc Đài Loan là nhỏ, việc thế giới là lớn”, Mao đã bắt tay hoà đàm với Níchxơn. Mao cố ý kết thành đồng minh chiến lược ngầm với Mỹ để chống lại sự uy hiếp của con gấu Bắc Cực. Song, sự bình thường hoá quan hệ Trung- Mỹ không phải đã thuận lợi. Oasinhtơn không dễ dàng từ bỏ chiếc “hàng không mẫu hạm không thể bị đánh chìm” trên Thái Bình Dương, lần nữa không chịu nhượng bộ về vấn đề Đài Loan. Còn Trung quốc, trong điều kiện còn theo đuổi đường lối trong cách mạng văn hoá, cũng khó có thể đi cùng với Mỹ, tên đầu sỏ của chủ nghĩa tư bản.Tất cả những điều đó đều trông vào tài xoay chuyển của Đặng Tiểu Bình. Đặng ôm ấp kế hoạch làm bốn hiện đại hoá, mục tiêu của bốn hiện đại hóa phải tiến tới bằng hai bánh xe: Một là, cải cách thể chế cũ để giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất; hai là, kết thúc trạng thái đóng cửa lâu dài trong đối ngoại, mở cửa với các nước, nhất là các nước phát triển trên thế giới, để giành được tri thức khoa học kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại Đặng biết rằng mở cửa sang phương Tây, trước hết phải qua Mỹ. Mỹ là nước đứng đầu các nước phát triển phương Tây, lại là nước có trình độ hiện đại hóa cao nhất. Trước kia, Trung quốc hoàn toàn ngăn cách với toàn bộ thế giới phương Tây, trước hết là vì ngăn cách với Mỹ. Nay muốn thông sang phương Tây thì trước hết phải mở cửa sang Mỹ.Nhưng Đặng cũng bị ràng buộc bởi nhiều nhân tố, không thể không thận trọng suy xét thời thế. Năm 1977, Vanxơ đến thăm Trung quốc, đàm phán việc bình thường hóa với Đặng, Đặng tỏ ra cố ý lảng tránh, làm như không muốn đề cập vấn đề Đài Loan. Sau đó, Nhà trắng ra thông cáo nói rằng lần hội đàm đó có tiến triển, người lãnh đạo Trung quốc tỏ ra có sự linh hoạt trong điều kiện bình thường hóa. Đặng thậm chí lại phản bác điều đó. Hành động ấy khiến phía Mỹ cảm thấy kinh ngạc, nhưng thực tế không có gì khó giải thích. Bởi vì lúc đó, Đặng mới được phục chức không lâu, cơ sở chính trị còn mỏng yếu, không thể không e ngại trước vấn đề nhạy cảm là quan hệ Trung- Mỹ. Tháng 5.1978, Bredinxki lại đến thăm, tình hình diễn ra hoàn toàn khác. Lúc đó, quyền lực của Đặng đã tăng lên rõ rệt, ông tỏ ý Trung quốc đồng ý đàm phán vấn đề bình thường hóa.Sau đó, sự xấu đi trong quan hệ Trung-Xô lại trở thành liều thuốc kích thích tốt... Quan hệ Trung-Xô không còn đất để hòa hoãn nữa. Mỹ thấy Liên xô bành trướng ở Nam Á, cũng có phản ứng tích cực trở lại, liền tiếp nhận ba điều kiện rút quân khỏi Đài Loan, đoạn giao và hủy bỏ điều ước với Đài Loan, chỉ bảo lưu quyền bán vũ khí cho Đài Loan. Liên kết với Mỹ để chống Nga đó cũng là ý của Mao lúc còn sống, Đặng không bỏ lỡ thời cơ, thúc đẩy tiến trình đó. 1.1.1979, Trung-Mỹ chính thức lập quan hệ ngoại giao, hoàn thành cuộc đàm phán kéo dài 8 năm. Tiến trình này hội nhập với sự chuyển biến của Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ ba, khóa 11, đánh dấu sự bắt đầu của một thời đại mới.Tiếp ngay sau dó, Đặng bắt đầu cuộc đi thăm chính thức nước Mỹ đầu tiên của người lãnh đạo tối cao của Trung quốc trong vòng 30 năm lại đây. Ngoài việc củng cố và phát triển tình hữu nghị Trung-Mỹ đã hình thành, chuyến đi này của Đặng còn có ba sứ mạng: Liên hiệp với Mỹ cùng ngăn chặn Liên Xô để giảm nhẹ sức ép ở biên giới Trung-Xô; đưa việc giải quyết vấn đề Đài Loan, hoàn thành thống nhất Tổ quốc vào chương trình làm việc cụ thể, tìm kiếm sự hợp tác kinh tế kỹ thuật cho chương trình hiện đại hóa vừa phát động.Đặng định ngày lên đường đi thăm Mỹ vào mồng một đầu năm âm lịch. Hôm đó, mọi người đều bận đón năm mới, mong đón điềm lành đầu năm. Đặng chọn ngày đó để bay qua đại dương kết bạn đầu năm, khiến Ca-tơ rất cảm động. Trong lời chào mừng vào hôm sau, Ca-tơ nói: “Thưa ngài phó thủ tướng, hôm qua là đầu năm theo lịch cũ, là ngày Tết của các ngài, là ngày lễ truyền thống để nhân dân Trung quốc bắt đầu một lịch trình mới. Tôi nghe nói, trong dịp đầu năm này, mọi thần linh từ thiện của các ngài đều mở hết các cửa. Đó là lúc dẹp bỏ mọi xích mích trong gia đình, là lúc đi thăm bạn bè thân thích. Đối với hai nước chúng ta, hôm nay là giờ khắc đoàn tụ và bắt đầu một lịch trình mới. Hôm nay là giờ khắc hòa giải, là giờ khắc mở lại cánh cửa từ lâu đã bị đóng kín”.Trong bữa tiệc lớn ở Oasingtơn, Đặng đọc lời phát biểu: “Hai nước chúng ta trong 30 năm qua đã ở vào trạng thái ngăn cách và đối lập, nay tình hình không bình thường đó đã qua rồi”. Đặng nồng nhiệt bắt tay Ca-tơ trước mặt các nhà báo và phấn khởi nói: “Nay nhân dân hai nước đang bắt tay nhau”.Ngoài việc liên hiệp ngầm với nhau để chống Liên xô, người lãnh đạo hai nước còn ký một loạt hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật và giao lưu văn hóa. Nội dung bao gồm: cùng đặt lãnh sự, cùng phái lưu học sinh, hợp tác trong lĩnh vực khai thác nguồn năng lượng, vật lý năng lượng cao và kỹ thuật không gian. Ca tơ nói, những hiệp nghị đó đại biểu cho “một trào lưu mới không thể đảo ngược” trong quan hệ Trung-Mỹ. Còn Đặng thì nói, những cái đó “mới chỉ là bắt đầu, mà chưa phải là kết thúc”, sau này “còn nhiều con đường và lĩnh vực hợp tác giữa hai bên đang chờ đợi chúng ta khai thác”.Sự bất đồng chỉ có hai điểm. Nhật ký của Ca tơ viết: Đặng cực lực phản đối kế hoạch cử các giáo sĩ nước ngoài đến Trung quốc truyền giáo, nhưng ông ta đồng ý trên nguyên tắc việc cơ quan truyền thông Mỹ đặt phân xã ở Trung quốc. Đặng không tán thành việc bán vũ khí cho Đài Loan, ông ta yêu cầu từ sang năm Ca tơ cần có thái độ thận trọng trong việc bán vũ khí cho Đài Loan, còn hy vọng Mỹ và Nhật thúc giục Đài Loan đàm phán với Trung quốc.Trong 8 ngày ở Mỹ, Đặng dùng một nửa thời gian để đi thăm 3 thành phố trung tâm công nghiệp lớn của Mỹ là átlanta, Seatlle và Huxtân. Sự sắp xếp chương trình đó tạo cơ sở cho việc triển khai hợp tác kinh tế sau này. Ông đặc biệt lưu ý đến kỹ thuật cao và thành tựu hiện đại của Mỹ, nhiều lần nói rằng ở Mỹ có rất nhiều điều để Trung quốc học tập. Đó không phải là lời nói khách khí hoặc khiêm tốn. Ở Seatlle, Đặng nói một câu kết luận: “Chặng cuối cùng trong hành trình của tôi là thành phố được các bạn gọi là “cánh cửa lớn thông sang phương Đông”. Điều này khiến chúng tôi ý thức rõ rằng, hai nước chúng ta là hàng xóm cách một dải nước. Thái Bình Dương không nên là trở ngại giữa hai nước chúng ta, mà nên là sợi dây liên hệ giữa chúng ta”.Trong 8 ngày, Đặng hội đàm không mệt mỏi với Tổng thống và các quan chức Mỹ, hội kiến với hàng trăm nghị viên, thống đốc bang, thị trưởng và các nhân vật nổi tiếng trong giới kinh doanh và giới giáo dục, đồng thời còn nói chuyện với mấy ngàn người, trả lời hết tốp nhà báo này đến tốp nhà báo khác. Hơn 2.000 nhà báo đi theo để phỏng vấn, đưa tin; thời gian cao điểm của ba mạng lưới truyền hình Mỹ đều biến thành “thời gian Đặng Tiểu Bình”. Dư luận thế giới phổ biến cho rằng, sự tiếp đãi long trọng và hoan nghênh chưa từng có đối với Đặng Tiểu Bình, là điều chưa thấy của lịch sử ngoại giao ở Mỹ. Ký giả của Tân Hoa Xã bình luận: Trong lịch sử ngoại giao giữa Trung quốc với nước ngoài “lập trưởng của Trung quốc đối với công việc quốc tế và quan hệ Trung-Mỹ được công chúng Mỹ hiểu sâu sắc một cách trực tiếp bằng phương thức hữu hiệu đó, là điều trước nay chưa từng có”.Cơn lốc về Đặng Tiểu Bình cuốn lên tại Mỹ đã thúc đẩy quan hệ Trung-Mỹ lên tới đỉnh cao chưa từng có. Nhưng có người vì vậy có cảm giác sai lầm rằng Trung quốc cầu cạnh Mỹ, coi thường Trung quốc, thậm chí cho rằng, vì chiến lược chống Liên xô, Trung quốc đã nuốt trôi vấn đề Đài Loan. Đặng thấy cần thiết phải hạ bớt cơn sốt.Sự thực, các nhân tố ràng buộc cũng đang thay đổi. Trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979, Liên xô có thái độ kiềm chế. Điều đó có nghĩa rằng tình hình căng thẳng Trung-Xô có phần dịu đi. Và trong giai đoạn cầm quyền về sau của Ca-tơ, Mỹ đã ban bố “luật về quan hệ với Đài Loan”, tiếp đó, trong cương lĩnh tranh cử của Rigân, lại có một số lời lẽ khiến người ta không yên tâm. Đồng thời, ở trong nước, mặt trận chống Hoa Quốc Phong có sự rạn nứt, đường lối cải cách của Đặng chịu sức ép lớn. Do đó, trong năm thứ hai sau khi thăm Mỹ, Đặng bắt đầu hạ thấp giọng về quan hệ Trung-Mỹ. Một số năm sau, phía Trung quốc không ngừng đưa ra kháng nghị với Mỹ về vấn đề Đài Loan, và nước Mỹ trả miếng lại bằng vấn đề nhân quyền và chế độ “tối huệ quốc”. Hai bên không ngừng tranh cãi, nhưng việc hợp tác kinh tế kỹ thuật vẫn được tiến hành theo hiệp định.7.11 Tháng 5.1989, Đặng Tiểu Bình 86 tuổi hội kiến với Goócbachốp 59 tuổi, không phải ở một nơi nào thuộc Liên xô, mà ở bắc kinh của Trung quốcSự đối lập Trung-Xô có hai nguyên nhân, một là, sự bất đồng về hình thái ý thức xã hội, tranh luận xem ai là Mác-Lênin chính thống, hai là, tranh chấp về biên giới đã tồn tại từ lâu: Thời nước Nga Sa hoàng đã chiếm mất hơn 150 vạn km vuông lãnh thổ Trung quốc; trong thập kỷ 60, Liên xô lại dàn một triệu quân trên biên giới Trung-Xô. Đặng Tiểu Bình đã từng là một chiến sĩ chống Liên xô xuất sắc ông đã từng đối diện đọ sức với Khơrútsốp, được Khơrútsốp gọi là “anh chàng thấp bé rất khó đối phó”. Năm 1974, tại diễn đàn liên hiệp quốc, Đặng đã công bố trước thế giới lập trưởng của Trung quốc: So sánh với Mỹ “về mặt ức hiếp các nước khác, thì siêu cường quốc mang nhãn hiệu xã hội chủ nghĩa còn hung ác hơn”.Liên xô trở thành kẻ thù chủ yếu đối với Trung quốc, còn nguy hiểm hơn Mỹ, không phải vì hình thái “xét lại” và chế độ xã hội, mà vì Liên xô có sự uy hiếp hiện thực đối với sự an toàn của Trung quốc lớn hơn Mỹ rất nhiều. Sự tranh luận về hình thái ý thức xã hội, nói về phía Trung quốc, thuần tuý là sản phẩm của “cách mạng văn hóa”. Người Trung quốc xoá bỏ thành kiến với “chủ nghĩa xét lại” dễ hơn xóa bỏ lòng nghi ngờ với “chủ nghĩa tư bản”. Cuối thập kỷ 70, Trung quốc kết thúc “cách mạng văn hóa” bắt đầu dẹp bỏ rối loạn, trở lại đúng đắn thì hình tượng kẻ thù của “xét lại Liên xô” cũng tự động tiêu tan. Đó có thể coi là một cơ hội để hai nước bắt đầu tiếp xúc và đối thoại. Không ngờ, lúc đó Brêgiơnép lại tăng thêm hai trở ngại mới: ủng hộ Việt Nam xâm nhập Campuchia° (° Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập) và trực tiếp tiến công ápganitxtăng, hình thành thế bao vây hình chữ “C” đối với Trung quốc.Trong tình hình không có hy vọng hòa hoãn với Liên xô, Đặng không thể không kế thừa chiến lược quốc tế của những năm cuối đời Mao Trạch Đông: Liên hiệp với Mỹ để cùng ngăn chặn dã tâm bành trướng của Liên xô. Phương pháp này quả nhiên đem lại hiệu quả. Qua việc Đặng sang thăm Mỹ đầu năm 1979, Liên xô giữ thái độ im lạng khi Trung quốc dạy bài học cho Việt Nam ° (° Đây là viết theo quan điểm sai lầm của tác giả cuốn sách này - Biên tập) nên đã không làm cho sự việc phát triển thành xung đột trực tiếp Trung-Xô. Đặng tuy nổi tiếng là có thái độ cứng rắn với Liên xô, nhưng cũng như Lưu Thiếu Kỳ, ông luôn cho rằng giữ hòa bình với Liên xô là rất quan trọng. Công cuộc hiện đại hóa vừa phát động, điểm căn bản trong chiến lược của Đặng đối với Liên xô là làm hòa dịu tình hình căng thẳng, phòng chiến tranh nổ ra. Trung quốc không có nhu cầu hội nghị, tôi đã dùng lý lẽ trình bày quan điểm của mình, dù họ có dấu tranh tàn khốc với tôi thế nào tôi vẫn kiên quyết chấp hành đường lối đúng đắn của chủ nghĩa Mác, đã đúng đắn thì phải giữ vững”. Giữ vững đường lối đúng đắn thì tại sao lại mất chức? Đặng trả lời: “Cách mạng đâu có thể thuận buồm xuôi gió được?” Mọi người mới hiểu tại sao ông bị dồn dập dả kích mà vẫn thản nhiên như vậy.Thị sát ở Nam Thôn không tới 10 ngày, Trung ương lâm thời lại lệnh cho Đặng vác ba lô trở về Ninh Đô, nơi đóng trụ sở của tỉnh ủy Giang Tây. Nghe nói, vì Nam Thôn thuộc Vĩnh An là vùng biên khu, sợ xảy ra vấn đề. Những người chỉnh Đặng không phải sợ xảy ra vấn đề gì thì sẽ mất an toàn cho ông. Chỉ có một khả năng: họ sợ Đặng đem theo những cơ mật của Đảng chạy sang phía địch; hoặc sợ rằng ở xa trung ương, Đặng sẽ kích động quần chúng ở đây mưu phản.Mức độ tín nhiệm đã thấp như vậy, thì về Ninh Đô không thể dễ sống. Những người lãnh đạo tả khuynh muốn ông phải chịu một thử thách nghiêm khắc: Đến một ngọn núi trọc ở gần Ninh Đô làm nhiệm vụ khai hoang. Đặng không sợ gì việc cuốc đất khai hoang, thời còn ở nhà máy Renault tại Paris, ông đã rèn luyện được một thân thể cứng cáp. Nhưng thân thể dù có là thép là gang, ăn không no cũng không sống nổi. Trời muốn trao việc lớn cho người, thì trước hết phải thử thách, làm mệt tâm trí anh ta, làm mỏi xương cốt anh ta, bắt anh ta chịu đói khát. Đặng cứ lặng lẽ cuốc đất không ngừng.Chị Thái (tức Thái Xướng - Người dịch) thấy Đặng bị đói khát, lại phải cuốc đất, liền cho người đi mua hai cân thịt lợn, hai bó hành và một số ớt, rượu, làm ba món ăn, nấu một nồi cơm, chuẩn bị mời Đặng về ăn một bữa no nê. Đã mấy tháng, Đặng chưa hề thấy mùi rượu, biết vị thịt, nghe nói có món ăn ngon thì rất mừng rỡ. Nhưng ông lại sợ liên lụy đến bạn học cũ, khi đến, kéo xụp mũ xuống tới tận mắt. Anh phạm nhân cải tạo lao động đó nhân lúc giở nghỉ trưa vắng vẻ, đi lẻn lối cổng sau tỉnh ủy vào nhà Thái Xướng, ăn một bữa no nê. Khi từ biệt, chị Thái còn đùm cho một gói thức ăn, dặn dò Đặng phải chú ý giữ gìn thân thể, cố gắng kiên trì. Vì Lý Phú Xuân đi hội báo công tác ở Thụy Kim, đợi thời cơ sẽ phản ánh tình hình Đặng với lãnh đạo, để cho Đặng đỡ bị oan uổng.Phó chủ tịch quân ủy kiêm chủ nhiệm Tổng cục chính trị Hồng quân Vương Gia Tường cũng thuộc phái ở Liên Xô về nhưng ông tương đối tôn trọng thực tế, lại quý nhân tài. Khi được biết tình cảnh Đặng Tiểu Bình do Lý Phú Xuân nói lại, liền kêu lên: “Trung ương lâm thời không dùng Đặng Tiểu Bình, thật là thiên kiến, làm mai một nhân tài?”. Hiện nay đang đứng trước tình hình quân địch áp sát khu Xô viết, sao có thể để một nhân tài như Đặng Tiểu Bình đi khai hoang dược? Để cứu vớt nhân tài này, Vương Gia Tường nghĩ ra một biện pháp, ông lấy lý do là chánh văn phòng Tổng cục chính trị Dương Thượng Côn ra tiền tuyến, ở đây thiếu người, liền điều Đặng Tiểu Bình về làm quyền chánh văn phòng. Do Vương cố gắng thu xếp, Đặng mới kết thúc cuộc sống cải tạo lao động, trở lại thủ đô đỏ Thụy Kim.Đến cơ quan Tổng cục chính trị, Đặng vẫn chưa gỡ bỏ được chiếc mũ hữu khuynh trên đầu. Đặng không quan tâm đến vấn đề đó, nắm ngay cơ hội quý báu mà Vương Gia Tường đã tạo cho, đưa tờ báo Sao Đỏ (Hồng Tinh báo) nổi bật hẳn lên, còn đặt Mao Trạch Đông viết cho một bài. Do trách nhiệm làm chủ biên báo Sao Đỏ, nên sau thất bại của cuộc chống vây quét lần thứ năm, Đặng mới được theo Hồng quân trường chinh. Giả thử, nếu Đặng bị lưu lại khu Xô viết đấu tranh ở hậu địch, thì con đường đời của ông sẽ ra sao? Mao Trạch Đàm và Cổ Bá, những người cùng bị đánh đổ một lần với Đặng, là những nhân viên phải ở lại. Sau khi đại quân rút đi, hai sinh mạng trẻ tuổi đó đều bị vùi thây nơi rừng xanh núi biếc phương nam.Trường chinh bắt đầu có nghĩa là đường lối Vương Minh đã thất bại, Mao Trạch Đông bắt đầu có quyền phát ngôn. Dưới ảnh hưởng của Mao, tháng 1.1935, Đặng làm chánh văn phòng trung ương. Trong tư liệu lịch sử Đảng không có ghi chép nào về sự sửa sai với Đặng, nhưng khi ông tham gia Hội nghị Tuân Nghĩa với tư cách chánh văn phòng trung ương thì chiếc mũ hữu khuynh, chống Đảng rõ ràng đã bị thủ tiêu, mà không chỉ là thủ tiêu mà thôi. Hoạn nạn lần thứ nhất từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc mất đúng ba năm. Đặng nhớ lại, thời Hội nghị Tuân Nghĩa, ông ở cùng chỗ với Mao Trạch Đông. Hai nhân vật quyết định số mệnh của Trung quốc, cuối cùng đã gặp gỡ nhau trong lịch sử.Lão Tử nói: Trong họa có phúc, trong phúc có họa. Năm 30, Đặng bị chỉnh ở khu Xô viết Trung ương, đó là họa, không phải là phúc. Nhưng 40 năm sau, cái họa đó lại biến thành phúc. Ngày 4.8.1972, trong quyết định phục hồi Đặng Tiểu Bình, Mao viết: “Sai lầm mà đồng chí Đặng Tiểu Bình phạm phải là nghiêm trọng, nhưng cần phân biệt với Lưu Thiếu Kỳ: 1) Đồng chí ấy đã từng bị chỉnh ở khu Xô viết trung ương, là một trong bốn tội nhân Đặng, Mao, Tạ, Cổ mà lại là kẻ đứng đầu phái Mao. Còn những điểm 2), 3), 4) nữa. Mao Trạch Đông quyết định dùng lại Đặng Tiểu Bình, ngoài lý do “nhân tài hiếm có” còn có nguyên nhân quan trọng, là “kẻ đứng đầu phái Mao” nữa.Đương nhiên, đó là điều Đặng cũng không ngờ tới. Lịch sử đã chứng minh lôgích của Đặng: kiên trì chân lý, thì sẽ có lợi cho cách mạng và cho cả bản thân.1.3. Mưa rừng chưa tới, gió đã đầy đầu. Anh xem gió từ hướng nào thổi tới?Tác giả Truyện Đặng Tiểu Bình Man Phơranxơ cho rằng: “Cuộc đời chính trị của Đặng Tiểu Bình hoàn toàn được quyết định bởi việc giải quyết vấn đề Cao Cương - Nhiêu Thấu Thạch”.Bản thân Đặng cũng thừa nhận, ông biết rất rõ sự kiện Cao-nhiêu. Sau ngày dựng nước, ba người hầu như đồng thời được điều lên trung ương. Trước đó, Cao ở cục Đông Bắc, Nhiêu ở cục Hoa Đông, Đặng ở cục Tây Nam, đều phụ trách công tác đảng và chính quyền ở một địa phương. Nhìn bề ngoài, chức vụ của Cao và Đặng như nhau, dầu là bí thư thứ nhất của một cục địa phương. Nhưng trên thực tế, địa vị của Cao quan trọng hơn, vì vùng Đông Bắc nơi Cao phụ trách, xét về ba mặt đều có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với toàn quốc: ở đây tập trung nền công nghiệp chủ yếu của toàn quốc, là hậu phương của chiến tranh Triều Tiên, lại là chiếc cầu nối sang Liên xô. Bản thân Cao là bạn thân lâu năm của Xtalin, nắm quyền cao nhất ở Đông Tam tỉnh, được gọi là Thái thượng hoàng vùng Đông Bắc. Ngày 1.10.1952, khi Cao tiến hành duyệt binh ở đất thánh của mình, thì quần chúng hô “Cao Cương muôn năm” chứ không hô “Mao Trạch Đông muôn năm”? Không lâu sau, Cao bị điều về Bắc Kinh, được bổ nhiệm làm Phó chủ tịch nước và chủ nhiệm ủy ban kế hoạch Nhà nước.Là con người quen đề cao mình là người độc nhất vô nhị, Cao Cương căn bản không biết rằng lần “thăng cấp” này của Trung ương là tách ông ta khỏi quyền lực ở căn cứ địa. Tới Bắc Kinh, ông ta muốn mở rộng quyền lực thay thế vị trí của Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai, làm phó chủ tịch Đảng và thủ tướng chính phủ. Ông ta gieo rắc trong đảng thuyết “đảng của quân đội”, phân Đảng Cộng sản Trung quốc thành “Đảng của căn cứ địa và quân đội”, và “Đảng của khu trắng”, nói quả quyết: “Đảng là do quân đội sáng tạo ra” và tự xếp mình là nhân vật đại biểu của “đảng Quân đội”, cho rằng trung ương đảng và cơ quan lãnh đạo nhà nước hiện nay nằm trong tay “đảng của khu trắng” tức trong tay Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, do đó cần phải cải tổ trung ương. Để đạt tới mục đích đánh đổ Lưu và Chu, Cao đã tiến hành nhiều hoạt động “phi tổ chức”. Trước hết, ông ta được sự phối hợp của Nhiêu Thấu Thạch. Theo Đặng nói, Cao còn được sự ủng hộ của Lâm Bưu ở cục Trung Nam. Với cục Tây Nam, Cao dùng biện pháp lôi kéo, tìm gặp Đặng Tiểu Bình để đàm phán, nói Lưu Thiếu Kỳ chưa thành thục, muốn tranh thủ Đặng tiếp tay với ông ta để đánh đổ Lưu. Đặng cảnh giác nói địa vị của đồng chí Lưu Thiếu Kỳ ở trong đảng là do lịch sử đã hình thành, thay đổi một địa vị đã được hình thành trong lịch sử là không thích đáng. Cao còn tìm gặp Trần Vân để đàm phán. Cao nói: Cần lập mấy phó chủ tịch, tôi và đồng chí đều là phó chủ tịch (đảng - Người dịch). Đặng thấy vấn đề nghiêm trọng, lập tức báo cáo với chủ tịch Mao Trạch Đông về âm mưu quỷ kế của Cao Cương.Mao Trạch Đông nghe xong, hỏi lại Đặng: “Mưa rừng chưa tới, gió đã đầy lầu. Theo anh, gió từ hướng nào thổi tới?”Đương nhiên Đặng ủng hộ Lưu và Chu, nhưng ông suy nghĩ rồi trả lời rất khéo: “Ở địa vị mà mưu tính công việc thì là đúng phận sự; không ở địa vị mà lại muốn mưu tính công việc, thì là bệnh ham muốn quyền lực đang hoành hành!”.Ham muốn quyền lực là một vấn đề rất nhạy cảm. Một lời nói của Đặng đi đúng vào điểm quan trọng, đã làm rung động sợi thần kinh rất nhạy cảm của Mao Trạch Đông. Mao nghe xong, suy nghĩ, rồi bừng tỉnh: “Nếu cứ dung túng trong đảng sự tồn tại lòng ham muốn quyền lực, không ở địa vị mà lại muốn mưu tính công việc thì sẽ không có ngày nào yên ổn”.Rất nhanh chóng, trong đầu óc Mao hình thành khái niệm về hai Bộ tư lệnh. Trong hội nghị Bộ Chính trị ngày 3.12.1953, Mao nói: “Bắc Kinh có hai bộ tư lệnh, một là bộ tư lệnh do tôi đứng đầu, thổi gió dương, nổi lửa dương; một bộ tư lệnh nữa do người khác đứng đầu, thổi gió âm, nổi lửa âm, làm việc xấu”.Sau đó, triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa 7, vạch trần và phê phán Cao Cương, Nhiêu Thấu Thạch. Mao không tham gia hội nghị, hội nghị do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, thông qua “Nghị quyết về tăng cường đoàn kết trong đảng”. Sau hội nghị, Đặng Tiểu Bình phụ trách tổ chức các cuộc tọa đàm của Ban bí thư Trung ương bàn về vấn đề Cao - Nhiêu, tiếp tục vạch trần và đối chứng những hoạt động âm mưu chống đảng của họ. Cao Cương cự tuyệt giáo dục, trong một cuộc hội nghị, đã rút súng tự sát tại chỗ.Tháng 4.1954, Đặng Tiểu Bình tiếp nhận nhiệm vụ trưởng ban tổ chức Trung ương của Nhiêu Thấu Thạch, không ai có ý kiến dị nghị gì. Một năm sau, Đặng bước vào đội ngũ 17 người là ủy viên Bộ chính trị. Đồng thời được bổ sung vào Bộ chính trị lần này có Lâm Bưu (Điều này hình như mâu thuẫn với ý kiến cho rằng Lâm Bưu đã ủng hộ Cao Cương). Lại một năm sau, tại Đại hội tám, Đặng được bầu làm Tổng bí thư Ban bí thư trung ương, trở thành một trong 6 ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Thường vụ ra quyết định, ban bí thư phụ trách chấp hành. Đặng lãnh đạo cơ cấu quan trọng này suốt tới năm 1966. Đấu tranh đường lối trong đảng gay gắt như sóng to gió lớn, lần nào cũng có người chìm, người nổi. Trong thập kỷ 50, cuộc đấu tranh như thế trong Đảng xảy ra hai lần. Trong cuộc đấu tranh với liên minh chống đảng Cao - Nhiêu, Đặng lên liền ba cấp, tham gia vào trung tâm quyền lực tối cao. Lần thành công này chủ yếu là do ông quang minh chính đại, không tham gia âm mưu quỷ kế, không tham gia bè cánh nào, nên trước ông, Cao Cương không tìm được thị trường. Trong thập kỷ 80, khi ra nghị quyết về những vấn đề lịch sử, Đặng vẫn cho rằng cuộc đấu tranh chống Cao - Nhiêu là đúng. Nhưng lần khác, vào năm 1959 việc chống lại Bành Đức Hoài ở hội nghị Lư Sơn là sai. Trong hội nghị Lư Sơn, dưới sức ép mạnh mẽ của Mao Trạch Đông, những người dự họp chỉ có hai cách chọn lựa: hoặc là vứt bỏ nguyên tắc, thậm chí không tiếc nhân cách, đi ngược lại chân lý, đứng về phía Mao Trạch Đông, dùng mọi lời lẽ đả kích để vạch trần, phê phán, nguyền rủa hành vi chống đảng của Bành Đức Hoài; hoặc là, như Trương Văn Thiên, kiên trì chân lý, trọng nghĩa giữ lời, trở thành một thành viên trong tập đoàn chống đảng của Bành Đức Hoài. Đặng có may mắn thoát được cả hai số phận đáng thương đó, không phải vì lý do gì khác, mà chỉ vì trước hội nghị, ông đánh bóng bàn ngã gãy chân, không lên núi dự họp được. Trời đã giúp ông!1.4. Do trong tay Chu Ân Lai có được thanh bảo kiếm thượng phương của Mao Trạch Đông, nên Đặng Tiểu Bình mới thoát ra khỏi cách mạng văn hoá và được phục hồiNgày 20.10.1969, Kẻ số hai đi đường lối tư bản là Đặng Tiểu Bình bị Lâm Bưu dùng danh nghĩa sơ tán chiến lược, phát vãng đến một nơi hẻo lánh ở ngoại ô Nam Xương - Giang Tây, từ đó, ông đã trải qua ba năm bốn tháng trong cuộc sống ở chuồng bò. Đó là lần thứ hai ông bị đánh đổ.Ba năm bốn tháng là thời gian khá dài với một ông già đã 65 tuổi, huống chi ông lại không biết chắc lúc nào mình sẽ được giải phóng. Tính từ khi sang Pháp cầu học lúc 15 tuổi, ông đã hoạt động trên vũ đài chính trị Trung quốc chẵn nửa thế kỷ. Thế mà ngày nay, cách xa trung tâm chính trị, bị đày tới miền Giang Nam này, ông sẽ sống cuộc đời lưu đày không kỳ hạn như thế nào đây?Theo lời cô con gái út Mao Mao (Đặng Dung): “Trong thời gian ở Giang tây, cha tôi có một thói quen, mỗi buổi chiều trước lúc mặt trời lặn, bao giờ cũng đi bộ vòng quanh mảnh sân nhỏ. Ông bước rất nhanh, trầm tư không nói, cứ đi hết vòng này đến vòng khác... Tôi thường nhìn cha tôi, nhìn tinh thần ông lúc nào cũng chăm chú, trầm tĩnh nhìn những bước đi nhanh nhẹn và vững chắc của ông. Tôi nghĩ, trong từng bước chân đó, tư tưởng của ông, niềm tin của ông, ý chí của ông càng rõ ràng thêm theo từng bước chân càng trở nên kiên định hơn”. Mao Mao còn phản ánh việc cha cô dùng lao động và đọc sách để làm phong phú thêm cuộc sống, không bao giờ cảm thấy trống rỗng và do dự. Hàng ngày, buổi sáng tới nhà máy làm việc, buổi chiều nuôi gà trồng rau trong vườn, buổi tối đọc sách xem báo, mùa đông vẫn kiên trì tắm nước lạnh hàng ngày. Xem ra, Đặng Tiểu Bình không vì bị đánh đổ mà buồn nản, tiêu trầm.Niềm tin mà Mao Mao nói là nhân tố quan trọng. Sau khi có niềm tin, thì điều then chốt là biết chờ đợi, chờ đợi thời cơ thích hợp. Mà thời cơ thì nhất định sẽ có, bởi vì trên đời này không có bàn tiệc nào không có lúc tàn. Quy luật biện chứng này có tác dụng đối với bất kỳ ai. Và cuối cùng thời cơ đã đến.Ngày 13.9.1971, Lâm Bưu, kẻ ngoi lên nhờ đánh đổ các nguyên lão của nước Cộng hòa, trở thành người kế tục thân thiết của Mao Trạch Đông, đã vì âm mưu đoạt quyền bại lộ mà bị toi mạng. Tin tức làm nức lòng người đó, 50 ngày sau mới truyền đến tai Đặng Tiểu Bình. “Cha tôi tỏ ra vui mừng và xúc động”, Mao Mao nói: “Ông chỉ nói một câu: “Lâm Bưu không chết, lẽ trời không dung”.Kỳ thực, hoạt động nội tâm của Đặng Tiểu Bình lúc đó sao có thể dùng một câu nói để biểu đạt được. Trong các cuộc đấu tranh đường lối trong lịch sử đảng, ông luôn đứng về phía Mao Trạch Đông. Chỉ tới thập kỷ 60, Mao Trạch Đông phát giác những người lãnh đạo tuyến một như Đặng Tiểu Bình và Lưu Thiếu Kỳ không nghe theo lời ông, thực hiện sau lưng ông kiểu mèo trắng mèo đen, kích thích vật chất, căn bản không đề cập tới cương lĩnh, đấu tranh giai cấp tới mức khiến ông không còn điều khiển được tình hình nữa. Thế là Mao Trạch Đông dựa vào Lâm Bưu, phát động đại cách mạng văn hóa, đánh đổ cái gọi là bộ tư lệnh tư sản theo cách nhìn của ông. Lâm Bưu thì rất nghe lời Mao Trạch Đông, không lúc nào rời quyển Ngữ lục (tập sách trích dẫn lời Mao - Người dịch), luôn mồm hô muôn năm, tâng bốc Mao Trạch Đông tới mức còn cao hơn Các Mác, Lênin. Mao Trạch Đông sung sướng vì sự tâng bốc của Lâm Bưu, và không nghe nổi những lời can gián thẳng thắn của người khác. Kết quả ra sao? Kẻ thực sự ôm ấp mưu đồ xấu xa với ông lại chính là người bạn chiến đấu thân thiết luôn mồm nói trung thành vô hạn với ông. Bây giờ, bộ mặt lừa bịp của Lâm Bưu đã bị xé toang, rút cục ai trung ai gian, nhất định Mao Trạch Đông phải suy nghĩ và tỉnh ngộ. Thêm nữa, sau khi Lâm Bưu chết, người thực sự có tài trị quốc an bang bên cạnh Mao Trạch Đông chỉ có Chu Ân Lai là có thể tin cậy được. Chu Ân Lai là vị nguyên lão duy nhất trong đảng và chính quyền không bị đả đảo trong cách mạng văn hóa, ông muốn đảm đương gánh nặng thu xếp mọi rối loạn do cách mạng văn hóa gây ra, thì cần dựa vào ai? Đặng Tiểu Bình đã nhận rõ, cái chết của Lâm Bưu đối với vận mệnh chính trị của ông là một cơ hội hiếm có, ông không thể bỏ qua cơ hội này.Thế là, ngay chiều hôm đó, Đặng Tiểu Bình viết cho Mao Trạch Đông một bức thư dài hơn bốn ngàn chữ.Một là: ông vạch ra với Mao tội phản cách mạng của Lâm Bưu, Trần Bá Đạt mà ông được biết.Hai là: ông vô cùng khiêm tốn trình bày với Mao những khuyết điểm và sai lầm trong công tác của mình trước kia.Ba là: ông đề đạt với Mao nguyện vọng thiết tha của mình muốn tiếp tục công tác vì Tổ quốc và nhân dân. Vạch tội Lâm Bưu không chỉ là xuất phát từ lòng phẫn nộ, mà còn là sự biểu hiện thái độ chính trị. Mỗi lần đấu tranh lớn trong Đảng Cộng sản Trung quốc, đều cần dùng biện pháp đó để vạch rõ ranh giới.Tại sao lại còn phải tự phê bình? Dù Lâm Bưu xấu thế nào cũng không có nghĩa là mình không hề có khuyết điểm sai lầm. Việc đánh đổ Lưu - Đặng dù sao cũng do Mao đồng ý. Dù việc đó có sai nữa, cũng phải để cho Chủ tịch đảng có chỗ để xoay trở. Vả lại Đặng Tiểu Bình dự tính Mao không thể vì sự kiện Lâm Bưu mà cho qua vấn đề của Lưu - Đặng, vì Mao xưa nay không bao giờ bỏ qua vấn đề đường lối. Nhưng điều đó cũng không hề gì, vì ông biết Mao Trạch Đông có một đặc điểm: “Ai không nghe lời ông ta, ông ta sẽ chỉnh cho một trận, nhưng chỉnh tới mức độ nào, ông đều có suy xét”. Mao Trạch Đông không cho phép bất kỳ ai chống lại mình, đó là sự thực, nhưng ông cũng không chủ trương đánh cho người phạm sai lầm một đòn chết tươi. Đánh thì có đánh, nhưng sau mấy gậy, chỉ cần anh nhận sai lầm và xin sửa chữa, thì ông ta vẫn khoan dung giữ lại bên mình. Ở bên Mao Trạch Đông, phạm sai lầm cũng không sao, vấn đề then chốt là biết thừa nhận sai lầm của mình. Vì vậy, dù mình có sai hay không, việc khiêm tốn kiểm điểm là tuyệt đối cần thiết.Khi nói tới công tác của mình, lởi lẽ của Đặng rất uyển chuyển thiết tha: Ông đã hoàn toàn xa rời công tác, không tiếp xúc với xã hội năm năm rồi, tuy đã 68 tuổi nhưng thấy sức khỏe của mình còn tốt, còn có thể làm một số công việc cụ thể, như công tác điều tra nghiên cứu. Ông không có mong muốn gì khác, chỉ xin được làm một số việc cho đảng để bù đắp cho những thiếu sót đã qua. Và đó chỉ là lời cầu xin, còn được hay không, xin chờ chỉ thị của Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng.B Trung-Mỹ. Năm 1978, ba tháng trước khi sang Mỹ, Đặng đã đem tới Nhật tin tức về chủ trương cải cách mở cửa của Trung quốc. Trong thời gian thăm Nhật, hai bên Trung-Nhật đều tỏ ra rất có hứng thú với việc hợp tác kinh tế kỹ thuật Trung-Nhật. Nhật Bản hầu như đã chờ đợi từ lâu người khách hàng to lớn là Trung quốc. Điều đó rõ ràng là một kích thích với Mỹ. Lúc đó, việc bình thường hóa quan hệ Trung-Mỹ còn một chặng đường dài nữa. Mọi nước tư bản phát triển đều hy vọng đáp chuyến tàu đầu tiên tới thị trường rộng lớn của Trung quốc. Nước Mỹ sao có thể để cho đối thủ cạnh tranh ở Thái Bình Dương nhanh chân tới trước? Việc giao hảo với Nhật Bản khẳng định là một nước cờ quan trọng dể Trung quốc nầm quyền chủ động trong quan hệ tam giác Trung-Mỹ- Nhật và giải quyết quan hệ với Mỹ. Dù quan hệ giữa Trung quốc với Mỹ, thậm chí với tất cả phương Tây bế tắc, chỉ cần giữ được sự hợp tác với Nhật, thì Trung quốc vẫn có con đường ngỏ để học tập và nhập kỹ thuật của bên ngoài.Tính món nợ lịch sử, có lợi nhiều nhất cho Trung quốc, thì đứng đầu là Nhật Bản, rồi đến nước Nga Sa hoàng và sau đó là Liên xô. Song Nhật Bản từ sau đại chiến, không còn chiếm một tấc đất nào của Trung quốc nữa. Mà Liên xô thì nợ cũ chưa trả một chút gì, lại mắc thêm nợ mới, là tạo nên sự uy hiếp lớn nhất với Trung quốc. Giữa Nhật - Xô cũng có nợ với nhau, đó là 4 hòn đảo phía Bắc. Giữa Trung-Nhật, trên phương diện cùng đối phó với Liên xô cũng có sự cần thiết không kém giữa Trung - Mỹ. Nhật tuy không muốn đối địch với Liên xô, nhưng việc họ trở thành một đồng minh với Trung quốc trong mặt trận chung chống Liên xô vào giữa thập kỷ 80 về trước, là không thành vấn đề nữa. Năm 1978, khi Đặng thăm Nhật lần đầu trong nghi thức đón tiếp ở nhà khách quốc gia có 28 đại sứ các nước ở Nhật tham gia. Theo yêu cầuổc phía Trung quốc, Nhật không mời đại sứ Liên xô. Đặng lợi dụng diễn đàn Nhật Bản, giải thích về điều khoản chống bá quyền trong điều ước, ngoài việc tự ràng buộc đối với hai bên Trung-Nhật, còn gồm cả việc phản đối hành động bá quyền của bất kỳ nước nào. Trước nhà báo các nước, Đặng nhấn mạnh: “Chống chủ nghĩa bá quyền là hạt nhân của điều ước hữu hảo Trung-Nhật”. Ba tháng sau, để kiềm chế hành động bành trướng của Liên xô ở Nam Á, Đặng sang thăm Mỹ. Trên đường về, Đặng lại ghé thăm ngắn ngày tại Nhật Bản, nhấn mạnh một lần nữa với những người lãnh đạo Nhật về vấn đề chống bá quyền, và sau đó mới có cuộc phản kích tự vệ chống Việt Nam. Đặng hy vọng giữa hai nước Trung-Nhật đời đời con cháu sẽ hữu hảo với nhau, không chỉ trong thế kỷ 20 mà còn nghĩ tới mấy thế kỷ sau. Những điều kiện có lợi về mặt này không ít. Thí dụ, hai nước đều thuộc châu Á; là hàng xóm láng giềng cách nhau một dải nước; đều là giống da vàng, thuộc hệ thống văn hóa phương Đông, có hơn hai ngàn năm qua lại hữu hảo trong lịch sử. Đặng rất chú ý lợi dụng những tài sản nhân văn quý giá đó để phát triển quan hệ Trung-Nhật. Thí dụ, trong thời gian thăm Nhật, Đặng đã đặc biệt bố trí một chuyến đi thăm ngôi chùa ở thành phố Na ra và nhận lời cho phép một vị hòa thượng trụ trì ở đó về nước thăm gia đình. Sau đó, trong quá trình hợp tác giao lưu kinh tế giữa hai nước, Trung quốc một mặt áp dụng biện pháp hữu hiệu để ngăn hàng hóa Nhật ồ ạt tràn vào Trung quốc, mặt khác lại sẵn sàng đón kỹ thuật cao và vốn liếng của Nhật. Năm 1988, Nhật Bản cho Trung quốc vay 800 tỷ yên, Đặng kinh ngạc trước số tiền lớn đó và thân gửi lời cảm tạ tới Thủ tướng Nhật. Đây có thể là lần đầu tiên Đặng gửi lời cảm tạ tới một nguyên thủ nước ngoài.Quan hệ Trung-Nhật không phải là không có trở ngại, trở ngại tiềm tàng lớn nhất là chiến tranh Trung-Nhật đã gieo vào lòng nhân dân hai nước những dấu ấn sâu sắc. Nhân dân Trung quốc rất khó xoá đi tình cảm thù địch đối với hành động đốt phá giết người của “giặc Nhật”. Song, trở ngại đó nhờ Đặng xoay chuyển, lại trở thành nhân tố có lợi cho việc phát triển quan hệ Trung-Nhật. Trong thời gian thăm Nhật, khi hội kiến với Nhật Hoàng, các quan chức chính phủ Nhật rất sợ ông trực tiếp truy cứu trách nhiệm của Nhật Hoàng đối với chiến tranh. Đặng nắm được tâm lý đó, ông không làm như đối với Goócbachốp: kể hết mọi tội lỗi của Sa hoàng và Liên xô đối với Trung quốc, mà áp dụng một phương pháp có sức chinh phục hơn: Trong khi Nhật Hoàng chưa đề cập tới quá khứ thì ông đã nói trước một cách rất sảng khoái: “Hãy để những sự việc của quá khứ qua đi, chúng ta từ nay về sau nên nhìn về phía trước”. Phong độ không kể lại những hiềm khích cũ khiến tội nhân chiến tranh trước kia rất cảm động. Đặng lập tức chiếm ưu thế. Trong bài nói, Nhật Hoàng đã bất ngờ bỏ đoạn chuẩn bị sẵn, thay vào bằng việc nêu lên “những sự việc bất hạnh” nhằm biểu thị sự hối lỗi. Sau đó, trong lời chúc rượu, Thủ tướng Nhật cũng chủ động bổ sung vào bài chuẩn bị sẵn, tỏ ra lấy làm tiếc về chiến tranh xâm lược Trung quốc. Đó là hiệu quả mà Đặng muốn đạt tới. Chiến tranh xâm lược Trung quốc của Nhật đã đem lại tổn thất không thể nào lường hết cho Trung quốc, riêng về người Trung quốc đã mất mấy chục triệu. Sau chiến tranh, Trung quốc giữ tư thế không đòi Nhật bồi thường, ngày nay hai nước giao hảo, lại rất đại độ không nêu lại hiềm khích cũ. Như vậy, đã tạo nên cho Trung quốc một ưu thế về tình người. Người Trung quốc đã kết bạn với tội nhân chiến tranh cũ, trong tâm lý người Nhật có cảm giác hổ thẹn. Đặng biết rằng điều đó có lợi cho việc phát triển quan hệ hữu hảo Trung-Nhật: Ngày nay tuy Trung quốc cần có sự giúp đỡ của Nhật để thực hiện hiện đại hóa, nhưng trước kia Nhật Bản đã mắc một món nợ tình người đối với Trung quốc.Hãy để cho quá khứ qua đi, không có nghĩa là quên quá khứ. Đặng biết rằng muốn cho quan hệ hữu hảo Trung-Nhật được gìn giữ thì một điều kiện rất quan trọng là không được làm thay đổi sự thật lịch sử về việc Nhật Bản xâm lược Trung quốc. Cho nên, sau khi quan hệ hai nước được bình thường hóa, Đặng không quan tâm lắm tới những sự kiện như đảo Điếu Ngư, nhưng có tinh thần cảnh giác cao trước việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản. Trung quốc đã từng kháng nghi nghiêm chỉnh việc Bộ ging để gò bó người Hương Cảng, mà để người Hương Cảng yên tâm, và tiến lên để Đài Loan có thể tin tưởng: “Một quốc gia hai chế độ” và quy định bao nhiêu năm không thay đổi... không phải là lời nói tùy tiện hay một thủ đoạn, mà là để chấp hành thực sự, mong phía Đài Loan xóa bỏ được tâm lý thiếu tin tưởng.6.11. Mỗi khi nhắc tới “nhà đương cục” Đài Loan, bao giờ Đặng cũng nói thêm mấy chữ “và nhân sĩ các giới”Đầu thập kỷ 80 và trước đó, chính sách của đại lục với Đài Loan đều nhằm vào “nhà đương cục Đài Loan”, lấy Quốc dân đảng đang cầm quyền làm đối thủ. Điều đó khiến một số lực lượng chính trị khác ở Đài Loan và một số người Hoa ở nước ngoài có ý kiến. Những ý kiến đó được Đặng Tiểu Bình coi trọng. Do đó, năm 1984, khi thủ tướng chính phủ đọc bài nói trong buổi chiêu đãi quốc khánh, mỗi khi nhắc tới “nhà đương cục” Đài Loan, thì Đặng ngồi phía sau đều thêm vào mấy chữ “và nhân sĩ các giới”.Đây không phải là chuyện từ ngữ nói chung, mà có quan hệ tới vấn đề lớn của sách lược mặt trận thống nhất. “Ba mặt giao lưu giữa hai bờ eo biển” là sự tiếp cận nhau về kinh tế, văn hóa, chính trị. Liên lạc với “nhân sĩ các giới” ngoài các nhà đương cục là mở rộng phạm vi hoạt động trong lĩnh vực chính trị.Nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan có lập trường vừa chống cộng vừa phản đối Đài Loan độc lập. Về mặt phản đối Đài Loan độc lập, Quốc-Cộng có tiếng nói chung, nhưng lập trường chống cộng lại gây trở ngại cho hai bên. Do trong lịch sử, hai lần hợp tác, Quốc dân đảng đều cho là mình bị thua thiệt, bị lừa, bây giờ lại đề xuất hợp tác lần thứ ba, chỉ lấy Quốc dân đảng làm đối thủ đàm phán, thì họ rất khó tiếp thu. Nếu họ khăng khăng không chịu ngồi vào bàn đàm phán, thì làm thế nào? Chẳng lẽ dùng vũ lực cũng không được? Trong tình hình đó, muốn tránh dùng thủ đoạn vũ lực, chỉ có một biện pháp, là tìm tòi nước cờ linh hoạt trên bàn cờ chính trị, mà nước cờ linh hoạt về chính trị thì phải có quan hệ tam giác mới hình thành được Hai lần hợp tác trước kia, tuy đều miễn cưỡng, nhưng đều thực hiện được, vì lúc đó có kẻ thù chung trước mặt, lúc đầu là chính quyền quân phiệt, sau đó là quân xâm lược Nhật Bản. Ngày nay không có kẻ thù chung nào. Hương Cảng thu hồi tương đối thuận lợi, vì trước mặt là thực dân Anh, mà trong đàm phán Trung-Anh lại giữ vững nguyên tắc “ghế hai chân”. Vấn đề Đài Loan không có được điểm lợi ngoại giao đó. Như vậy, mọi lực lượng phải tìm ngay tại Đài Loan, mà tại Đài Loan có lực lượng có thể tìm được Thí dụ Đảng dân tiến luôn lo lắng cuộc hội đàm giữa hai bờ eo biển chỉ tiến hành giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản, mà yêu cầu hội đàm giữa hai chính phủ trước hết cần được ba chính đảng ở Đài Loan nhất trí đồng ý. Lý do là hiện nay Đài Loan đã là thể chế chính trị nghị viện, trừ phi quốc hội có quyết định, nếu không thì bất kỳ người nào, gồm cả tổng thống Lý Đăng Huy và “viện trưởng” Liêu Chiến, đều không có quyền thay mặt toàn thể nhân dân Đài Loan để trả lời chính sách với Đại lục. Đảng Dân tiến phản đối Quốc-Cộng đàm phán với nhau là sợ mình bị bỏ rơi. Điều đó chứng tỏ rằng Đài Loan không phải là một tấm thép, mà có mâu thuẫn có kẽ nứt. Có mâu thuẫn thì có thể lợi dụng. Lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa làm tan rã, đánh tỉa từng đối tượng một, đó chính là mưu lược mặt trận thống nhất kỳ diệu.Trong vấn đề thống nhất, Đảng Dân tiến còn giữ khoảng cách xa hơn Quốc dân đảng. Nhưng “nhân dân Đài Loan” mà họ nói tới thì đáng được coi trọng. Năm xưa, Tưởng Giới Thạch trong giờ phút cuối cùng của “tiễu cộng” sở dĩ buộc phải đồng ý liên hợp với Đảng Cộng sản để chống Nhật, là vì có nhân tố quan trọng là cao trào quần chúng kháng Nhật trong toàn quốc. Ngày nay, muốn buộc Quốc dân đảng ngồi lại đàm phán. thì ý nguyện của nhân dân Đài Loan và các lực lượng đối lập ở Đài Loan khẳng định có sức nặng quan trọng.“Trong vấn đề Đài Loan. diện tiếp xúc cần rộng, ngoài nhà đương cục Quốc dân đảng là đối thủ, cần mở rộng diện cộng tác” Vì lý do đó nếu nhà đương cục chưa chuyển, thì trước hết nên giao lưu trên ba mặt kinh tế, văn hóa, tình cảm giữa dân gian, dể thúc đẩy việc tiếp xúc chính trị với nhà cầm quyền, đó là xuất phát từ sự suy xét như vậy.Thêm nữa, hiện nay Quốc dân đảng đã mất quyền chủ đạo tuyệt đối với Đài Loan, nhất là sự phát triển của Đảng Dân tiến đã phá vỡ cục diện độc quyền của Quốc dân đảng, dần dần đã trở thành đảng cầm quyền ở từng tỉnh hoặc từng huyện. Nhưng cương lĩnh hạt nhân của Đảng Dân tiến là “Đài Loan độc lập”. Trong tình hình đó, nếu chỉ nhằm vào đối thủ cũ là Quốc dân đảng, mà không chú ý đến lợi ích của các đảng phái khác thì rõ ràng là giúp làm lớn mạnh thêm phong trào đòi độc lập của Đài Loan. Nhưng, điều cần chú ý là, hiện nay có một thế lực trong nội bộ Quốc dân đảng đứng đầu là Lý Đăng Huy, đang tăng cường hoạt động chia rẽ Tổ quốc, hợp lưu cùng bọn đòi cho Đài Loan độc lập. Điều đó cần phải kiên quyết phản đối.6.12. Sớm muộn sẽ xuất hiện điều kiện “Đàm phán vấn đề thống nhất” do Đặng dự kiến, bởi vì những cuộc trao đổi kinh tế, văn hóa, tình cảm cuối cùng sẽ phá vỡ sự ngăn cách cách để tiến sang lĩnh vực chính trịĐặng Tiểu Bình vốn cho rằng việc giải quyết vấn đề Hương Cảng sẽ có thể có tác dụng làm mẫu đối với Đài Loan. Nhưng không ngờ, mô thức Hương Cảng tiến hành đẹp đẽ như vậy mà phía Đài Loan không mảy may rung động.Năm 1980, Quốc vụ viện công bố điều kiện ưu đãi không thu thuế nhập khẩu đối với hàng hóa Đài Loan, nhà đương cục Đài Loan không những không hưởng ứng mà còn áp dụng biện pháp trừng phạt với loại hoạt động dân gian đó.Năm 1981, chủ tịch Ban thường vụ Quốc hội Diệp Kiếm Anh phát biểu 9 điểm về chính sách để biểu lộ sự hữu hảo với Đài Loan. Năm 1983, chủ tịch ủy ban hiệp thương chính trị Đặng Dĩnh Siêu lại đưa ra tín hiệu “mọi cái đều có thể thương lượng”. Nhưng phản ứng của phía Đài Loan đều rất lạnh nhạt, cho tới năm 1986, Đài Loan vẫn chưa có động tĩnh gì lớn.Đài Loan không vội đàm phán khiến Đặng thấy rất nôn nóng. Người đã cao tuổi, muốn sớm được nhìn thấy Tổ quốc thống nhất đó là một mặt. Điều quan trọng hơn là, vấn đề Đài Loan nếu cứ kéo dài như thế, thì hậu quả rất đáng lo. Trừ ba năm sau đại chiến thứ hai, Đài Loan có tự do đi lại với đại lục, còn thì đã cách tuyệt với đại lục trong 90 năm. Địa phương này có khác với Hương Cảng, không có mối liên hệ nào về đất đai, kinh tế và đời sống xã hội với đại lục về mặt chính trị, đã hình thành một thể chế được cư dân trên đảo tiếp nhận về cơ bản. Trước mắt, cái liên kết hai bờ eo biển, ngoài ý thức đồng tông, chỉ còn là mối thù oán đã hình thành trong lịch sử giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản. Phía Đài Loan hiện vẫn chưa từ bỏ quốc sách “thu hồi đại lục”, điều này là một trở ngại lớn cho việc thực hiện “một quốc gia hai chế độ” của Trung ương đối với địa phương, nhưng về khách quan, lại ngăn cản sự phát triển của thế lực đòi cho Đài Loan độc lập. Nếu một ngày nào đó, nhà đương cục Đài Loan tỏ ra nhạt nhẽo hoặc từ bỏ cương lĩnh “thống nhất Tổ quốc”, thì sợi dây liên hệ hai bờ eo biển chỉ còn lại có tình cảm dân tộc mà thôi. Mà tình cảm là thứ có thể nhạt dần theo thời gian. Giống như những người rời đất nước thế hệ thứ nhất như tiên sinh Vũ Hữu Nhậm, còn nghĩ tới việc lá rụng về cội, nhưng đến đời thứ hai, đời thứ ba, cả lá và cội đã đều ở trên đảo, thì còn nghĩ như vậy không? Đến lúc đó, mới nói rằng chúng ta đều là con cháu Viêm Hoàng nên cần thống nhất trong một quốc gia, thì còn có bao nhiêu người nghe? Hai bờ eo biển đã cách tuyệt hàng mấy chục năm, nay lại tiếp tục không tiếp xúc, giao lưu, qua lại thì nứt rạn càng ngày càng sâu, không biết sẽ có một ngày nào đó Đài Loan sẽ vĩnh viễn tách rời khỏi đại gia đình Trung Hoa mà hình thành cục diện “hai nước Trung quốc” hoặc “một Trung quốc, một Đài Loan”.Dụ dỗ thế nào họ cũng không “cắn câu”điều kiện ưu đãi thế nào cũng không có tác dụng. Ngoài quan hệ thân thích hiện còn, không có một cơ sở liên hệ hiện thực nào để phát huy. Nói yêu nước, Đài Loan không có thời gian dài nằm dưới sự thống tri thực dân như Hương Cảng, nên sức hấp dẫn của Mặt trận thống nhất yêu nước không lớn. Nói thống nhất, người Đài Loan cũng cảm thấy hứng thú, nhưng ai thống nhất với ai? Thống nhất với đại lục, đa số sợ mất đi điều kiện sống hiện có. Nói tới việc hợp tác Quốc- Cộng lần thứ ba, sẽ rất dễ gợi lại những ký ức không mấy đẹp đẽ xưa kia, lại làm tăng thêm tình cảm chống đối của đối phương. Thế thì, dùng biện pháp gì để mở ra cánh cửa, phá vỡ được bế tắc đây?Đài Loan khác với Hương Cảng, chỉ đưa vào làm mẫu thì không đủ để hấp dẫn họ. Năm 1986, trong khi tiếp nhà báo Mỹ, Đặng tỏ ý hy vọng nước Mỹ “cổ võ, khuyến khích Đài Loan trước hết hãy liên hệ với lục địa về ba mặt: Buôn bán, giao thông, bưu điện. Qua những tiếp xúc đó, có thể làm tăng thêm sự hiểu biết giữa hai bờ eo biển tạo điều kiện cho hai bên đàm phán về vấn đề thống nhất”Sách lược “liên hệ về ba mặt” đã đáp ứng tâm tình nhớ quê hương của những người già ở Đài Loan. Cách biệt ba bốn chục năm ai không muốn về thăm lại quê cha đất tổ trong lúc còn sống để tìm lại họ hàng thân thích? Nhà đương cục Đài Loan không thể ngăn trở ý nguyện của nhân dân, cuối cùng, vào năm 1987, đã bỏ lệnh cấm về thăm đại lục. Về phía đại lục, không những không hỏi han về lý do “theo địch phản quốc” của những người đó, mà ngược lại, còn tiếp đãi như thượng khách, do chính phủ đứng ra chăm lo mọi mặt, hết sức ưu đãi. Thí dụ như ở phòng đợi của nhà ga, có cửa bán vé dành riêng cho đồng bào Đài Loan và cho quân nhân, với những người đầu tiên về định cư, hàng tháng chính phủ sẽ phát trợ cấp sinh hoạt, được hưởng tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội.Người Đài Loan về thăm họ hàng đã mở ra bước đầu trong việc giao lưu giữa hai bờ eo biển. Mà đã có bước thứ nhất thì không lo gì không có bước thứ hai, thứ ba. Bởi vì mưu lược giao lưu về ba mặt đã đưa ra những hấp dẫn về kinh tế. Anh có thể không cảm thấy hứng thú về thống nhất đất nước, nhưng không thể làm ngơ trước cơ hội phát tài. Cùng với từng làn sóng người về thăm họ hàng, thân thích, giới công thương Đài Loan cũng tấp nập vào đại lục để mở luồng làm ăn buôn bán. Quốc vụ viện cũng không bỏ lỡ cơ hội, ban bố những quy định khuyến khích đồng bào Đài Loan đầu tư vào đại lục, khiến giao lưu giữa hai bên từ chỗ đơn thuần là buôn bán phát triển sang đầu tư. Đó là việc có lợi cho cả hai bên. Thương nhân Đài Loan ham thích thị trường đại lục không kém gì thương nhân nước ngoài, tại sao lại không tận dụng ưu thế gần gũi này? Đại lục dù sao cũng phải tiếp nhận đầu tư của nước ngoài, thì tại sao không để mối lợi đó cho đồng bào Đài Loan? Rất nhanh chóng, hai bờ eo biển đã đi tới chỗ hiểu nhau qua việc giao lưu kinh tế hai bên đều có lợi. Năm 1990, Đài Loan chính thức cho phép thương nhân Đài Loan vào đại lục đầu tư, lập nhà máy và ra quy định về quản lý vật phẩm đem vào đại lục. Từ đó, giao lưu, buôn bán của hai bên tiến vào quỹ đạo pháp chế hóa.Việc đồng bào Đài Loan về đại lục thăm thân nhân, thương nhân Đài Loan về đại lục đầu tư và sự tăng trưởng buôn bán giữa hai bên, đã có tác dụng thúc đẩy tích cực việc phát triển quan hệ giữa hai bờ eo biển. Trước hết là duy trì và củng cố ý thức cùng nguồn gốc và tình cảm dân tộc còn lại giữa hai bên. Đài Bắc luôn mong muốn “mở rộng không gian sinh tồn trên quốc tế”, sau khi mở rộng, sẽ giao đấu với Bắc Kinh với tư cách “thực thể chính trị ngang hàng”. Còn Bác Kinh vì ngăn trở Đài Loan độc lập và nước ngoài nhúng tay, nên trên trường quốc tế luôn áp dụng chính sách cô lập Đài Loan. Phàm những nước lập quan hệ ngoại giao với Trung quốc, đều phải chấp nhận một tiền đề: Thừa nhận chỉ có một Trung quốc và Đài Loan là một bộ phận của lãnh thổ Trung quốc hứa sẽ không có bất kỳ mối quan hệ nào chính thức với chính quyền Đài Loan. Làm như vậy, rõ ràng càng làm tăng thêm thù nghịch giữa Đài Bắc và Bắc Kinh!Việc giao lưu kinh tế và trao đổi tình cảm giữa nhân dân hai bên lại có tác dụng bù đắp lại, chứng minh rằng những chính sách trên của đại lục không phải là cố ý cô lập đả kích Đài Loan, mà chỉ là mong Đài Loan gần đại lục thêm một chút. Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, các nước âu Mỹ thi nhau trừng phạt Trung quốc, thương nhân Đài Loan thừa cơ hội, tăng vọt đầu tư vào đại lục. Điều đó coi như đã giúp anh em đại lục trong lúc nguy nan, có lợi cho việc giúp đại lục chống lại sự trừng phạt của phương Tây. Thương nhân Đài Loan đương nhiên cũng được lợi, mối lợi béo bở không chảy ra ngoài. Từ đó hai bên đều có ý thức: Máu đào rút cục lại vẫn hơn là nước lã.Kinh tế là cơ sở của chính trị. Kinh tế dựng nên vũ đài chính trị biểu diễn. Hai đảng Quốc-Cộng do đã từng trải qua những bước lịch sử không lấy gì làm êm đẹp, cộng thêm hơn 30 năm đối kháng phân lập, từ sau khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, sự thù địch đã rất sâu. Trong tình hình đó, trước hết phải có thời gian gây dựng lại lòng tin. Trong chốc lát đã muốn Quốc dân đảng vui vẻ ngồi lại để cùng Đảng Cộng sản bàn bạc việc thống nhất đất nước và cùng hợp tác lần thứ ba, thì họ sẽ rất khó chấp nhận. “Giao lưu về ba mặt giữa hai bờ” là biện pháp tránh được vấn đề chính trị nhạy cảm đó. trước hết hãy chưa nói tới những vấn đề chưa giải quyết được mà để tới bước sau, trước hết hãy nói những chuyện phi chính trị như thông thương, vận tải, bưu điện, những vấn đề có lợi Như vậy, nhà đương cục Đài Loan không tiện cự tuyệt đương nhiên, không tránh khỏi việc họ gây khó khăn, nhưng không lâu sau, họ đã cho phép lập một “hội giao thông trên biển”, và đại lục lập tức hưởng ứng bằng một hội tương tự. Hai “đoàn thể dân gian” được chính phủ cho phép đã có tác dụng thay mặt chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nối liền hai bờ.Năm 1992, người lãnh đạo hai hội trên đã có cuộc hội đàm ở Xingapo và ký kết 4 hiệp nghị. Đó là cuộc tiếp xúc ở cấp cao nhất giữa hai bên sau hơn 40 năm cách tuyệt. Từ đó, hai hội đã phát huy tác dụng môi giới, tích cực thúc đẩy quan hệ giữa hai bên. Như vậy, cuối cùng Đài Loan đã đàm phán với đại lục, có điều còn cách một lớp “găng tay trắng”.Nhà văn Đài Loan ưu Tú Trân nhận thấy: Dù rằng quan hệ chính trị giữa hai bên còn xa vời, nhưng thương nhân Đài Loan đã bị thị trường mông mênh của đại lục vẫy gọi, việc buôn bán qua lại đã thường xuyên tấp nập. Đến 1994, tổng số đầu tư của Đài Loan vào đại lục đã lên với 3, 7 tỷ đô la, có 10. 305 hạng mục đầu tư, trở thành nguồn đầu tư lớn thứ hai vào đại lục sau Hương Cảng. Điều đó giúp đại lục giảm được sự phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào các nguồn đầu tư khác. Theo các nguồn tin, năm 1994, xuất siêu của Đài Loan hầu như đều nhờ vào buôn bán với đại lục. Có người tính toán rằng, trình độ phụ thuộc vào thị trường đại lục của Đài Loan trong 5-10 năm tới có thể vượt quá sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ. Đó đều là thành quả “giao lưu trên ba mặt”. Dù nhà đương cục Đài Loan tự hào về mức sống của nhân dân và giá trị sản lượng tính bình quân theo đầu người cao hơn đại lục bao nhiêu, không muốn hoặc không vội đàm phán với Đảng Cộng sản, nhưng trong cuộc “giao lưu trên ba mặt đó” họ đã bị “sa” vào một cách không tự giác. Biết làm sao được? Sức mạnh chính trị không thể cưỡng lại được với sức hấp dẫn của thị trường.Cho đến nay trong “ba mặt giao lưu” chỉ có vấn đề “đường bay trực tiếp” là chưa giải quyết được. Song không nên lo ngại. Nhân sĩ Đài Loan đã nhận thức được rằng: Nếu Đài Loan không có đường bay trực tiếp với đại lục, họ sẽ hoàn toàn mất ưu thế cạnh tranh ở vùng Đông Nam. Nhìn thấy điều dó, Đài Loan gần đây đã đưa ra “trung tâm chuyển vận ngoài biên giới ở châu Á-Thái Bình Dương”. Những người thiết kế “trung tâm” đó nhấn mạnh “không thông qua hải quan, không nhập cảnh” để tránh vi phạm quy định “không được bay trực tiếp”. Nhưng, người ta chỉ nhìn qua là thấy ngay, đó thực tế là “sự biến tướng của đường bay trực tiếp”. Trước đây, phía đại lục không chịu ký vào quy định bằng văn bản việc bảo hộ lợi ích đầu tư của thương nhân Đài Loan, lý do là Đài Loan không hủy bỏ lệnh cấm trực tiếp bay thẳng tới đại lục. Ngày nay Bắc Kinh tỏ ý đồng ý đàm phán và ký kết một bản “hiệp nghị có tính dân gian”, đề ra việc bảo hộ rõ ràng bằng văn bản cho các khoản đầu tư của Đài Loan vào đại lục. Và nhà đương cục Đài Loan gần đây cũng tỏ ý sẽ bỏ chủ trương hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm của đại lục ở Đài Loan, cho phép chuyên gia học giả đại lục đến Đài Loan giảng bài v.v.. Đặng đã nói: “Giải quyết vấn đề Đài Loan phải tốn thời gian, nôn nóng quá là không được”. Dù rằng hai bên hiện nay mới chỉ tiếp xúc mà chưa có lòng tin, nhưng cứ đi lại như hiện nay, tiếp xúc tốt thì sẽ hiểu nhau và sẽ xây dựng được lòng tin với nhau, thì con đường hòa bình thống nhất càng ngày sẽ càng rộng. Điều kiện để “đàm phán về vấn đề thống nhất” mà Đặng thiết kế sớm muộn rồi sẽ được tạo ra, vì việc qua lại về buôn bán, văn hóa, tình cảm cuối cùng sẽ phá vỡ được ngăn cách và tiến sang lĩnh vực chính trị.