ề sau, khi mọi chuyện đã qua, Dina sẽ tìm kiếm trong vô vọng một tính chất biểu tượng nào đó của thời điểm được Khaled chọn để xuất đầu lộ diện. Còn những lời mà cô đã sử dụng để thông tin cho các đội thì nàng hoàn toàn không nhớ, mặc dù chúng đã được ghi lại mãi mãi trên băng ghi âm: “Chính hắn. Hắn đã ra đường. Đi theo hướng nam về phía công viên”. Tất cả những ai nghe được thông báo của Dina đều phải sửng sốt vì vẻ trầm tĩnh, không chút xúc động của nó. Giọng nói của cô bình lặng đến nỗi, Shamron chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Chỉ đến khi nghe thấy tiếng gầm rú phát ra từ động cơ môtô của Yaakov, ông mới hiểu rằng Khaled sắp sửa phải đối mặt với bản án của hắn. Trong vòng năm giây sau khi nghe báo động của Dina, Yaakov và Gabriel đã đội mũ bảo hiểm lên và phóng hết tốc lực về phía tây, dọc theo con kênh Belsunce. Đến Place de la Préfecture, Yaakov đảo mạnh chiếc xe sang phải để chuyển hướng và phóng qua quảng trường, hướng về đầu đại lộ Rémy. Gabriel bám chặt eo Yaakov bằng tay trái. Bàn tay phải của anh thọc trong túi áo khoác và nắm chặt phần báng ngắn và dày của khẩu Barak. Trời đã bắt đầu sáng, nhưng con đường vẫn chìm trong bóng tối. Lần đầu tiên Gabriel tận mắt nhìn thấy Khaled hắn đang bước vội trên phần đường giành cho người đi bộ như người đã bị muộn một cuộc họp quan trọng. Chiếc xe đột nhiên chậm hẳn lại. Yaakov cần ra một quyết định - chạy lấn sang phần đường ngược chiều để tiếp cận Khaled từ phía sau, hay vẫn chạy đúng chiều bên tay phải rồi vòng trở lại. Gabriel dùng báng súng thúc nhẹ vào sườn bên phải của Yaakov để ra lệnh. Yaakov kéo mạnh tay ga, và chiếc xe bay vọt đi như một viên đạn. Gabriel không rời mắt khỏi Khaled nửa giây. Tên khủng bố người Palestine đang rảo bước nhanh hơn. Đúng lúc này, một chiếc Mercedes màu xám đậm thò đầu ra từ con đường ngang và phong tỏa lối đi của họ. Yaakov đạp phanh thật mạnh để tránh một vụ va chạm, rồi bấm còi inh ỏi và vẫy tay ra hiệu cho chiếc Mercedes tránh đường. Tài xế, một thanh niên trông có vẻ là người Arập, lạnh lùng nhìn Yaakov và hành hạ anh bằng cách lùi xe từng chút một ra khỏi làn đường của họ. Đến khi Yaakov có thể tiếp tục chạy thì Khaled đã rẽ vào một khúc quanh và biến mất khỏi tầm mắt của Gabriel. Yaakov vọt đến cuối đường và rẽ trái sang đại lộ André Aune. Con đường này từ khu cảng cổ đi lên dốc, hướng về tòa tháp đồ sộ của nhà thờ Notre Dame. Khaled đã băng qua đường và sắp mất hút vào một con hẻm nhỏ. Gabriel đã dùng chương trình máy tính để ghi nhớ mọi ngõ ngách của từng con đường trong khu vực. Anh biết con hẻm này dẫn tới một cầu thang dốc đứng bằng đá gọi là Montée de l'Oratoire. Khaled đã vô hiệu hóa chiếc môtô. “Dừng ở đây”, Gabriel nói. “Đừng đi đâu cả”. Gabriel, đầu vẫn còn đội mũ bảo hiểm, nhảy xuống xe và theo chân Khaled tiến vào con hẻm. Trong hẻm không có đèn đóm gì, và khoảng không gian trong phạm vi vài bước chân ở giữa bị bao phủ bởi bóng tối hoàn toàn. Ở đầu bên kia, ánh sáng xuất hiện trở lại một cách lờ mờ phát ra từ một ngọn đèn màu hồng. Đó là nơi bắt đầu các bậc thang. Nó rộng và rất cũ kỹ với một lan can bằng kim loại ở giữa. Bên trái Gabriel là mặt tiền trát vữa màu vàng nhạt của một ngôi nhà; bên phải là một bức tường đá vôi cao, phía trên có những cành ôliu và dây leo thò ra. Các bậc thang uốn quanh về bên trái. Khi Gabriel qua khỏi góc quanh, anh lại thấy Khaled. Hắn đã leo được một nửa cầu thang và vẫn đang tiếp tục tiến lên bằng những bước chân vội vã. Gabriel bắt đầu rút khẩu Barak ra nhưng rồi tự ngăn mình lại. Trên đầu cầu thang còn một tòa nhà căn hộ nữa. Nếu Gabriel bắn hụt Khaled, gần như chắc chắn hắn sẽ nhảy vào bên trong tòa nhà đó. Anh nghe thấy những giọng nói vang lên trong tai nghe của mình: Dina hỏi Yaakov đã xảy ra chuyện gì; Yaakov kể về chiếc xe cản đường và cái cầu thang buộc hai người phải tách ra. “Anh nhìn thấy anh ấy không?” “Không”. “Anh ấy đã ra khỏi tầm quan sát của anh trong bao lâu?” “Vài giây”. “Khaled đi đâu? Tại sao hắn đi bộ xa thế? Có gì bảo vệ hắn không? Tôi không thích chuyện này. Tôi sẽ yêu cầu anh ấy rút lui”. “Cứ để mặc anh ấy”.
de; từng làm việc ở đây. Mày đã giết hại nhiều người Palestine ở đây”. Thấy Gabriel chỉ im lặng, ả lại giơ súng đánh anh một cái nữa. “Trả lời tao đi! Mày đã từng làm việc ở đây, có đúng không?” “Đúng”. “Mày đã giết hại người Palestine ở đây, đúng không?” Gabriel gật đầu. “Mày xấu hổ à? Nói to lên xem nào”. “Phải”, anh nói, “tôi đã giết nhiều tên Palestine ở đây. Tôi đã giết Sabri ở đây”. “Vậy thì hẳn là mày biết rõ đường xá của nước Pháp. Mày sẽ không mất thời gian xem bản đồ. Điều đó tốt đấy, vì chúng ta không có nhiều thời gian đâu”. Ả đưa chìa khóa xe cho anh. “Đến Nýmes. Mày có một giờ đồng hồ”. “Nơi đó cách đây ít nhất là một trăm cây số”. “Vậy thì tao đề nghị mày ngậm miệng lại và bắt đầu lái xe đi”. Gabriel đi tắt qua cầu Arles. Dòng sông Rhône màu xanh bạc với vô số xoáy nước trải dài như một tấm thảm kỳ ảo phía dưới họ. Sang đến bờ sông bên kia, Gabriel nhấn mạnh chân ga xuống sát sàn xe và bắt đầu chặng đua nước rút tới Nýmes. Thời tiết hôm nay đẹp một cách trớ trêu: bầu trời trong xanh không một gợn mây, những cánh đồng bừng sáng rực rỡ với bạt ngàn cây oải hương và hoa hướng dương, những ngọn đồi phơi mình dưới ánh nắng chan hòa. Phong cảnh hiện lên trước mắt rõ ràng đến mức Gabriel có thể phân biệt từng đường nét, từng vết nứt của những vỉa đá cách đó đến hai mươi dặm. Ả phụ nữ ngồi điềm tĩnh trong tư thế hai cổ chân bắt chéo qua nhau, và khẩu súng đặt trong lòng. Gabriel tự hỏi tại sao Khaled lại chọn ả để hộ tống mày đến với cái chết. Bởi sự trẻ trung và xinh đẹp của ả tương phản mạnh mẽ với sự tàn tật của Leah? Hay đây là một cách nhục mạ của người Arập? Có phải hắn muốn lăng nhục Gabriel hơn nữa bằng cách bắt mày nghe theo lệnh của một đứa con gái trẻ đẹp? Cho dù động cơ của Khaled là gì thì ả đàn bà này cũng đã được huấn luyện kỹ lưỡng. Gabriel đã cảm nhận được điều này ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên của họ ở Mác-xây, và một lần nữa trong ngôi nhà ở Martigues - giờ đây mày lại nhận ra điều đó qua đôi cánh tay và đôi vai cơ bắp, cũng như qua cách cầm súng của ả. Nhưng chính đôi bàn tay của ả khiến mày chú ý nhất. Ả có những móng tay cắt ngắn nhưng bẩn thỉu của một người thợ gốm hoặc một người làm việc ở những nơi nhiều đất cát. Ả lại đánh anh mà không cảnh báo trước. Chiếc xe bị lạng đi, và Gabriel phải khá vất vả mới kìm được nó. “Tại sao cô làm thế?” “Mày nhìn khẩu súng của tao”. “Làm gì có chuyện đó”. “Mày đang nghĩ đến việc đoạt nó từ tay tao”. “Không có”. “Nói dối! Đồ Do Thái dối trá!” Ả lại giơ súng lên định đánh anh lần nữa, nhưng lần này Gabriel đã giơ một bàn tay lên để tự vệ và đỡ được cú đánh. “Tốt hơn mày nên chạy nhanh lên”, ả nói, “nếu không chúng ta sẽ không đến Nýmes đúng giờ đâu”. “Tôi đang chạy gần 200 km/h rồi. Tôi không thể chạy nhanh hơn mà không làm chết cả hai. Lần sau Khaled gọi lại, bảo với hắn là hắn phải nới thời hạn ra một chút mới được”. “Ai?” “Khaled”, Gabriel nói. “Gã đàn ông mà cô đang cúc cung phục vụ. Kẻ điều khiển chiến dịch này”. “Tao chưa bao giờ nghe nhắc đến ai tên là Khaled”. “Vậy chắc tôi nhầm”. Ả quan sát anh một lúc. “Mày nói tiếng Arập rất giỏi. Mày sinh trưởng ở Thung lũng Jezreel phải không? Nơi đó cách Afula không xa. Tao nghe nói có nhiều người Arập sống ở đó. Đó là những người từ chối ra đi hoặc bị đưa tới đó”. Gabriel quyết định chờ cho cá cắn mồi thật sâu rồi mới giật cần câu. “Cô chưa bao giờ nhìn thấy nó sao?” “Palestine ấy hả?” Một nụ cười thoáng hiện lên. “Tao thấy nó từ xa”, ả nói. Libăng, Gabriel nghĩ. Ả thấy nó từ Libăng. “Nếu chúng ta sẽ cùng nhau trải qua một chuyến đi dài, tôi phải có một cái tên gì đó để gọi cô”. “Tao không có tên. Tao chỉ là một người Palestine. Không có tên, không có gương mặt, không đất đai, không nhà cửa. Cái vali của tao chính là tổ quốc”. “Tốt”, anh nói. “Vậy tôi sẽ gọi cô là Palestine”. “Đó không phải là cái tên thích hợp dành cho phụ nữ”. “Thôi được, th&igravo trong Nhóm Napoleon dự định áp dụng mức báo động cao nhất này chỉ dựa trên một lời cảnh báo của người Israel. “’Có nhiều khả năng mục tiêu sẽ là những cơ sở của người Israel hoặc mang tính chất Do Thái”, Bộ trưởng Bộ Nội vụ phát biểu. “Ngay cả khi nó có quy mô như Rome thì nó vẫn chưa đến mức để chúng ta áp dụng mức báo động cao nhất”. “Tôi nhất trí”, ngài Tổng thống nói. “Chúng ta sẽ nâng lên mức Đỏ”. Năm phút sau khi cuộc họp của Nhóm Napoleon kết thúc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Pháp vội vã rời khỏi Phòng Murat để đối diện với một rừng ống kính và Microphone. “Thưa các quý ông, quý bà”, ông nói với nét mặt u ám, “Chính phủ Pháp vừa nhận được thông tin mà chúng tôi tin là đáng tin cậy, thông tin đó tố cáo một âm mưu tấn công khủng bố vào thủ đô Paris trong buổi tối hôm nay”. Căn hộ nằm trên đường Saules, ở đầu phía bắc yên tĩnh của ngọn đồi Montmartre, cách khu vực của rất nhiều du khách quanh Sacré-Coeur vài dãy phố. Căn hộ nhỏ nhưng tiện nghi, một nơi tạm trú hoàn hảo khi công việc hoặc những cuộc phiêu lưu tình ái đưa Paul Martineau từ Provence đến thủ đô. Sau khi đến Paris, hắn ghé qua khu Luých-xăm-bua để ăn trưa với một người đồng nghiệp đến từ Đại học Sorbonne. Sau đó hắn phải đến phố Germain gặp nhà xuất bản tiềm năng của cuốn sách của hắn viết về lịch sử thời tiền La Mã của vùng Provence cổ. Lúc bốn giờ bốn mươi lăm phút, hắn băng qua khoảng sân yên tĩnh của tòa nhà và bước vào tiền sảnh. Bà Touzet, người gác cửa, ló đầu ra từ cửa phòng mình khi Martineau bước vào. “Xin chào, Giáo sư Martineau”. Martineau hôn lên hai bên má trát đầy phấn của bà và tặng bà một bó hoa huệ tây mà hắn vừa mua ở một tiệm hoa trên đường Caulaincourt. Martineau không bao giờ đến căn hộ của hắn ở Paris mà quên mang theo một món quà nhỏ cho Bà Touzet. “Cho tôi à?”, bà hỏi một cách điệu đà. “Lẽ ra ông không nên làm thế, Giáo sư ạ”. “Tôi không thể bảo mình là không làm thế”. “Ông sẽ ở Paris bao lâu?” “Chỉ một đêm thôi, thưa bà”. “Thật đáng tiếc! Đợi tôi lấy thư cho ông”. Lát sau bà trở lại với một chồng bưu thiếp và thư từ, được sắp xếp gọn ghẽ và buộc chặt bằng một sợi ruy-băng hồng, như mọi khi. Martineau lên cầu thang để về căn hộ của mình. Hắn bật truyền hình, chọn kênh 2, rồi đi vào bếp để pha cà phê. Giữa tiếng nước chảy, hắn nghe giọng nói quen thuộc của ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ Pháp. Hắn tắt nước và bình tĩnh đi vào phòng khách. Hắn đứng đó, bất động trước màn ảnh truyền hình, trong mười phút tiếp theo. Người Israel đã chọn cách báo động cho người Pháp. Martineau đã dự tính trước phản ứng này của họ. Hắn biết việc mức độ an ninh được nâng lên đồng nghĩa với sự thay đổi về chiến lược cũng như thủ tục an ninh tại những địa điểm quan trọng quanh Paris, một diễn biến đòi hỏi một sự điều chỉnh nhỏ trong các kế hoạch của hắn. Hắn nhấc máy điện thoại và bấm số. “Tôi muốn thay đổi một vé tàu đã đặt trước”. “Xin ông cho biết tên?” “Giáo sư Paul Martineau”. “Số vé?” Martineau đọc một con số. “Lúc này ông đang đặt vé trở về Aix-en-Provence từ Paris vào sáng mai”. “Đúng vậy, nhưng tôi e rằng đã có một số sự thay đổi và tôi cần trở về sớm hơn dự kiến. Liệu tôi có thể đổi lấy một vé trên một chuyến tàu nào đó khởi hành vào đầu giờ tối nay không?” “Vẫn còn ghế trống trên chuyến tàu số mười bảy”. “Hạng nhất chứ?” “Vâng”. “Tôi sẽ lấy một vé”. “Ông đã biết về cảnh báo khủng bố của chính phủ chưa ạ?” “Tôi không bao giờ quan tâm nhiều đến những chuyện đó”, Martineau đáp. “Vả lại, nếu chúng ta không tiếp tục sống cuộc sống bình thường của mình thì bọn khủng bố đã thắng rồi, phải không?” “Đúng vậy!” Martineau nghe tiếng gõ bàn phím máy tính. “Xong rồi, thưa Giáo sư Martineau. Giờ đặt vé của ông đã được thay đổi. Tàu của ông sẽ rời ga Lyon vào lúc bảy giờ mười lăm”. Martineau gác máy.
http://eTruyen.com