Khi Nôrikô tỉnh lại, cô thấy mình nằm trên đi-văng, mình đắp một tấm chăn. - Hình như chị ấy tỉnh rồi! Ngay sát một bên hiện ra gương mặt một người nào không rõ. Rồi những nét mặt của người ấy rõ dần ra. - Sêkiguchi-san... - Nôrikô thì thào. - May quá, tỉnh rồi. - Bà y tá trưởng vuốt tóc Nôrikô. Có một cái gì đó xảy ra trước khi cô ngất đi... Nôrikô cố nhớ cho ra. - Naôê tiên sinh?... Bà y tá trưởng gật đầu. Bên cạnh thấy có Kawai và Akikô, lại có cả Kaôru - chắc hẳn mới từ bên cư xá chạy sang. Mọi người đều nhìn cô. - Vâng... Dĩ nhiên... Tôi cũng sẽ đi... - Có tiếng ai nói điện thoại. - Vâng, xin mời. Nôrikô nhận ra giọng nói của Kôbasi. Cô từ từ nhỏm dậy. - Chị cứ nằm đi thì hơn. Nôrikô lắc đầu: không, cô sẽ dậy. Trong phòng không có gì thay đổi. Trên bàn vẫn có mấy quả hồng, mấy quả quít, chay whisky, bên tường vẫn có cái tủ thuốc, bên cạnh có treo một cái stêtô. Phía dưới là cái nồi khử trùng mở nắp. - Có chóng mặt không? - Tiên sinh chết rồi ư? - Nôrikô nhìn trừng trừng vào mặt bà y tá trưởng. Bà im lặng cụp mắt xuống. - Tại sao?... - Cô phải đi đến khu Ikêđziri, đến nhà tiên sinh. - Để làm gì ạ? - Bà chị tiên sinh dặn như vậy. - Tôi à?! - Nôrikô nhất đầu lên và lại nhìn Sêkiguchi. - Bà ấy yêu cầu cô lấy chìa khóa ở viên quản lý vào nhà và mở cửa phòng Naôê tiên sinh. - Để làm gì ạ? - Ở đấy có một bức thư gửi cô. - Thư ạ?... - Tiên sinh có để lại cho cô một bức thư tuyệt mệnh. Bà chị của tiên sinh yêu cầu làm sao để cho cô vào phòng trước tiên và xem xét nhà cửa của tiên sinh. Nôrikô trầm ngâm nhìn bà y tá trưởng, không sao hiểu được bà đang nói gì. - Allô, có phải khoa phẫu thuật trường đại học T. không? Chúng tôi ở bệnh viện Oriental xin mạo muội làm phiền các vị. Ở Sappôrô vừa gọi điện cho chúng tôi. Bác sĩ Naôê đã từ trần. Tiên sinh đã tự vẫn... - Giọng Kôbasi quá linh hoạt và yêu đời. - Vâng... Vâng.. Ở hồ Sikôtsu, cách Sappôrô không xa. Vâng... Tự sát... - A-a... - Nôrikô rên lên một tiếng và lại nhắm mắt. Thân hình của Naôê từ từ chìm xuống cái vực sâu lạnh lẽo màu chì... Một cách lặng lẽ, không một tiếng động. Hai cánh tay anh quờ quạng trong làn nước trong, tìm một nơi bám víu... Đầu anh ngả ra phía sau... Mỗi lúc một xa, mỗi lúc một sâu hơn... Từ đáy hồ những cành cây vươn lên đón anh... Chúng đan vào nhau thành vòm trên thân thể anh: Naôê nay đã là tù nhân của nước và cây cối. Nôrikô có cảm giác là mình đã thấy cảnh này từ lâu. Nhưng cô không sao nhớ được là lúc nào. Trong giấc mơ chăng? Và bây giờ cơn ác mộng đã biến thành sự thật... - Vâng... Hôm nay mọi việc đã được xác nhận... Vâng-vâng. Được ạ. Cám ơn. Tuyết rơi, rơi mãi... Hồ nước đã nuốt chửng Naôê, những làn nước đã khép lại trên mình anh, những vòng sóng rộng dàn ra và lần lượt chạy vào bờ, rồi mặt hồ màu xám chì lại phẳng lặng như trước... Một cõi tĩnh mịch có thể làm cho người ta phát điên. - Nôrikô-san! Chị đã đỡ chưa? - Đỡ ư? Chưa. Nhưng nằm thế này khổ quá. - Chúng tôi đã gọi điện cho ông quản lý. Hai vợ chồng bác sĩ trưởng sắp đến đây, và chúng ta sẽ cùng đến khu Ikêđziri. Nôrikô gật đầu và đưa hai tay lên thái dương. Nhanh lên... Đến nhà anh ấy. Cánh cửa sẽ mở ra, và anh sẽ đứng đấy. Tất cả những chuyện kia chỉ là một cơn ác mộng, nó sẽ qua đi, chỉ cần mở mắt ra là hết. Không nên xúc động quá như vậy. Đó trước sau chỉ là một giấc mơ... Lúc mười giờ họ đến nhà Naôê. Viên quản lý, mình mặc áo dài ngủ, ra đón họ. - Naôê tiên sinh đã từ trần ư? - Ông ta hỏi, toàn thân run bắn lên như bị lạnh. Giương to đôi mắt sợ hãi, ông ta trao chìa khó cho Nôrikô. Tầng thứ năm. Từ thang máy quay sang phải. Cửa thứ ba từ cuối hành lang, bên tay trái. Cái biển nhỏ màu trắng: "Naôê". Không nhận thức được mình đang làm gì, Nôrikô đứng lại trước cửa, đưa tay lên bấm chuông. Người ở trong nhà này không còn ở trên thế gian nữa. Căn nhà trống không. Nôrikô biết như vậy, nhưng vẫn bấm chuông. Anh ấy sẽ nghe. Sẽ ra mở cửa, mình mặc kimônô nhẹ, hai tay đặt trên thắt lưng. Anh ấy sẽ ngạc nhiên: "Em?" và Nôrikô sẽ chạy vào nhà nhẹ nhàng như con sóc, đóng nhanh cánh cửa và khóa lại từ bên trong. Sao anh ấy chậm thế? Có lẽ đang ngủ chăng? Hay là dạy rồi nhưng không đủ sức xuống giường ra mở cửa? Hay đang đứng nhìn ra ngoài qua mắt cửa? - Không có ai ở trong ấy đâu... - Bà y tá trưởng nói, giọng dịu dàng. Nôrikô sực tỉnh, đưa chìa khóa cho bà. Cô đã khát khao được cầm cái chìa khóa này biết chừng nào! Kể cho đến tối hôm nay cô vẫn ước mơ điều đó. Giá được như vậy, cô có thể đến đây gặp Naôê bất cứ lúc nào cô muốn. Nếu anh không có nhà, cô sẽ dọn dẹp, nấu ăn và đợi anh về. Đến khi anh về, cô có thể nấp vào một nơi và xồ ra dọa... Nhưng rồi rốt cuộc Naôê vẫn không trao chìa khóa cho cô. Thật ra thì cô cũng không hỏi xin. Vả lại dù cô có hỏi thì anh ấy cũng chẳng đưa nào. Và giờ đây, khi anh đã không còn nữa, cái chìa khóa lại nằm gọn trong lòng bàn tay cô. Mãi đến sau khi chết anh mới chịu cởi mở tâm hồn cho cô. Nôrikô thật trọng bước vào nhà, cố đi thật khẽ để khỏi gây tiếng động. Gian đệm, và sau bức màn là gian bếp. Giữa gian bếp đặt một cái bàn ăn, xung quanh bày mấy cái ghế. Trên cái bể rửa chén đĩa bằng kim loại có một chai sakê bọc giấy, bên cạnh là một cái ly không - hình như Naôê đã uống rượu trước khi lên đường. Nôrikô phải tự kiềm chế lắm mới không để cái chai lại cho đúng chỗ. Bên kia bức màn là phòng ở. Cái giường ở bên trái, bên cạnh cửa ra ban công là bàn viết. Cái lò kôtatsu. Trên giường, chăn đệm đều được xếp đặt ngăn nắp. - Bỏ trống... - Một cái gì hoàn toàn tự nhiên, nhưng lại làm cho Nôrikô kinh ngạc. - Đây rồi, bức thư tuyệt mệnh. - Bà y tá trưởng trông thấy cái phong bì trắng đặt trên lò kôtatsu. Trên phong bì có đề bằng bút lông: "Kính gửi tiểu thư Nôrikô Samura". Trong một phút Nôrikô thẫn thờ nhìn cái phong bì mà không trông thấy nó, rồi sợ sệt cầm nó lên như một vật gì rất đáng sợ. Trong phong bì có xếp mấy tờ giấy trắng viết chữ dày đặc. Chúng ta sẽ không còn gặp nhau nữ. Anh chưa biết việc ấy sẽ diễn ra như thế nào, nhưng anh đã quyết định chết ở hồ Sikôtsu. Tại sao phải đún gở chổ này? Cũng không có lý do gì đặc biệt. Chẳng qua anh muốn chết ở vùng bắc, để đừng ai cản trở anh. Ngòai ra thi thể của anh sẽ không bao giờ nổi lên mặt nước. Anh muốn rằng cái thân thể mục nát của anh sẽ vĩnh viễn ở lại dưới ấy, ở đáy hồ, giữa những cây cối đã chìm xuống dưới ấy từ xưa. Anh chắc em đã hiểu rằng anh có bệnh. Anh bị bệnh ung thư xương. Tên gọi chính xác của bệnh anh là mieloma. Anh biết mình có bệnh này cách đâu hai năm. Hiện nay y học còn bất lực trước bệnh này, không thể cứu anh được. Thật ra cũng có mấy phương pháp điều trị, nhưng tất cả đều chỉ có thể giảm bớt những nỗi đau khổ của anh, chứ không thể chữa khỏi bệnh được. Anh đã nghiên cứu bệnh này từ lâu, thế rồi vì một sự mỉa mai độc ác của số phận, chính anh đã mắc bệnh ấy. Thời hạn sống của anh chỉ còn được ba tháng. Bây giờ u ác tính đã hiện rõ ở chân phải; một tháng sau anh sẽ không còn đi được nữa. Ổ bệnh trong cột sống đã phát sinh cách đây tám tháng. Em cũng biết là ở đấy có rất nhiều trung tâm thần kinh, cho nên thỉnh thỏang anh lại bị những cơi đau không tài nào chịu nổi, chính vì thế mà anh phải uống rượu nhiều và tiêm ma túy. Anh rời bỏ trường đại học ra đi vì hiểu rằng mình không còn đủ sức làm việc tiếp được nữa. Tốt hơn là nên nhường cho lớp trẻ. Ngoài ra, anh lại nhận ma túy của bệnh viện trường đại học, cho nên anh càng phải ra khỏi đó. Anh biết em rất khỏ tâm khi nghĩ rằng anh lạm dụng cương vị của mình để lấy trộm ma túy trong bệnh viện. Em đừng phiền lòng nữa, khôgn phải thế đâu. Chỉ hãn hữu khi nào ở trường đại họ lâu quá không gửi cho anh, anh mới phải vay lạm của bệnh viện Oriental. Anh đã gây nên nhiều buồn khổ. Nhất là cho em. Anh thấy rằng anh chỉ đem lại cho em những nỗi đau mà thôi. Nhưng ngược trở lại, anh được thấy rõ em nhân hậu đối với anh như thế nào. Vậy thì tại sao anh lại làm khổ em? Anh sẽ cố trả lời thật ngắn gọn: chỉ vì cái chết đang theo sát gót anh. Có một điều kỳ lại là trên ngưỡng cửa của cái chết, anh đã học được cách nhìn đúng thực chất của những con người, anh đã biết nhìn ra họ không có những lớp sơn bên ngoài. Anh đã vứt bỏ cái chủ nghĩa lý tưởng và niềm tin vào sự công bằng của anh trước đây. Anh đã kiên trì cố gắng nhìn qua cái vỏ ngoài máu me của những con người để nhận ra cái thiện và cái ác nguyên sơ của họ. Có thể đó là một trong những nguyên nhân khiến cho Kôbasi-san có ác cảm đối với anh... Anh phải xin lỗi Kôbasi-san về nỗi anh đã thử thách sự kiên nhẫn của anh ấy trong một thời gian dài như vậy. Không ai có thể biết rõ hơn chính bản thân anh, người thầy thuốc, bao giờ cái chết sẽ đến với anh. Cái chết không biết nghỉ ngơi. Anh không tin rằng anh sẽ hóa thân vào đức Phật, anh không tin vào sự bất tử của linh hồn. Sẽ không còn gì hết. Thổi một dúm tro bay khỏi lòng bàn tay - thế là hết. Cái chết là như vậy đấy. Mấy tháng gần đây anh khao khác đi tìm phụ nữ. Nhưng không phải vì bản chất anh như vậy. Không, anh cần họ để quên lãng. Có vẻ như anh đang tự thanh minh, nhưng dù sao chỉ có họ và ma túy là có thể giúp anh đừng nghĩ đến cái chết. Chỉ với họ, anh mới cảm thấy mình thuộc về mình, còn tất cả những lúc khác anh đều là sở hữu của Hư vô... Anh muốn để lại phía sau anh một kỷ niệm - những đứa con. Anh mơ ước làm sao khi đã chết đi anh vẫn còn để lại thật nhiều con. Điều này có thể tưởng chừng như ngược đời, nhưng cái chết càng đến gần thì nguyện vọng ấy càng da diết hơn. Vì chẳng bao lâu nữa anh phải tan biến trong hư vô... Trong thư này anh muốn xin em tha thứ cho anh, vì không có ai bị tình làm khổ như em. Và thêm một điều này nữa. Có lẽ em sẽ sinh cho anh một đứa con - than ôi, điều đó sẽ xảy ra sau khi anh chết. Em hãy lấy cuốn sổ phiếu ngân hàng ở ngăn kéo bên phải bàn viết. Tiền bạc của anh không có nhiều - chỉ năm sáu triệu, nhưng dù sao... Em hãy dùng số tiền ấy khi nào em cần đến. Em có thể sử dụng nó ngay cả trong trường hợp em muốn thoát khỏi đứa con. Và còn việc này nữa. Trong cái tủ chìm, ở góc bên trái có ba cái hộp các-tông với những tấm phim chụp X-quang và những điều ghi chép về diễn biến của bệnh. Anh nghĩ rằng đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào chi tiết hơn và khách quan hơn về bệnh u tủy sống. Anh xin em chuyển mấy cái hộp đó cho phó giáo sư Senđa ở khoa phẫu thuật của bệnh viện trường đại học. Ông là người duy nhất đã hai năm nay biết về bệnh trạng của anh, và chính ông đã gửi ma túy cho anh dùng. Chỉ lát nữa anh sẽ gặp em ở phi cảng Hanađa. Kể cũng lạ: anh đang viết tất cả những điều này cho người mà một giờ nữa sẽ cùng ngồi với anh trên một chiếc máy bay. Kể cho đến phút này anh đã lừa dối em, và em đã thật thà tin anh. Anh xin lợi dụng lòng tin của em một lần cuối cùng. Anh hy vọng rằng em sẽ là người bạn cuối cùng của anh. KYÔSUKE NAÔÊ Nôrikô ngồi trên đi-văng, đôi mắt trống rỗng nhìn ra phía xa. Bức thư được bác sĩ trưởng, Ritsukô rồi bà y tá trưởng lần lượt đọc; Akikô cũng xem ké qua vai bà. Nôrikô khôg thấy muốn giật bức thư lại, giấu nó đi. Quả trong thư có nói dến những gì làm thành điều bí mật rêing tư của hai người - của cô và của Naôê. Bây giờ thì mọi người sẽ biết những điều đó. Thôi cũng mặc. Dù sao thì cũng chẳng giấu giếm gì được nữa. Về cái lý do đã khiến cho Naôê tự tử thì đằng nào cũng phải nói với bác sĩ trưởng và bà y tá trưởng. Thân nhân của Naôê ở Sappôrô cũng có thể viết thư về cho họ. Mà như vậy còn tốt hơn nữa là khác: những điều nghi kỵ xung quanh việc sử dụng ma túy sẽ không còn nữa. Về những mối quan hệ giữa Naôê và Nôrikô thì mọi người đã biết từ lâu. Dĩ nhiên tạm thời giữ kín chuyến đi của họ về Sappôrô thì tốt hơn, nhưng đó là việc riêng của họ. Về đứa con đang sống trong bụng Nôrikô thì đằng nào cũng sẽ có lúc phải nói với bà y tá trưởng, và bà ta thế nào cũng sẽ báo cho bác sĩ trưởng và Ritsukô biết. Vậy thì che giấu, dối trá để làm gì? Cái chết của Naôê có thể bị người ta lý giải sai lạc đi. Một trạng thái đờ đẫn kỳ lạ bao trùm lên Nôrikô. Naôê không còn nữa, thì tất cả những gì còn lại - cô sẽ ra sao, người đời sẽ nghĩ gì, - tất cả những cái đó không còn có nghĩa lý gì nữa. Không thể thay đổi một cái gì hết. Nôrikô xưa nay bao giờ cũng phục tòng ý muốn của Naôê: anh nói "trắng" thì cô nghĩ "trắng", anh nói "đen" thì cô nghĩ "đen". Và bây giờ cô cũng không mảy may thay đổi: anh ấy không còn nữa, thì cuộc sống lái cô về hướng nào cô sẽ phải sống theo hướng ấy. Nhưng dù sao cũng phải làm một cái gì... tâm tư cô cứ bàng hòang... Cô không sao tập trung lại được. Cuối cùng cô nhớ ra cái cốc bẩn mà cô đã trong thấy khi đi vào phòng. Trước kia mỗi lần cô đến nhà Naôê, việc dọn dẹp và rửa chén đĩa vẫn đem lại cho cô một trạng thái yên tĩnh tuyệt đối về tinh thần. - Cái tủ chìm kia phải không? - Bác sĩ trưởng hỏi khi đọc xong bức thư. Nôrikô gật đầu, đến cạnh tủ và mở cánh cửa bên phải ra. Ở phía trong, ba cái hộp các-tông vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Bác sĩ trưởng lôi ra một cái hộp. Trên nắp hộp có ghi: "Tháng mười - tháng mười hai". Yutarô lấy ra một chiếc phong bì đựng phim chọn một tấm và đưa soi lên ánh sáng. Mọi người xúm lại. - Ừ-ừ... - Yutarô nói. - Ông chỉ xem, cái u ở đâu? - Ritsukô hỏi. - Bà có thấy cái vết đen tròn tròn ở góc không? Chỗ lõm lõm ấy. Chính nó đấy. Nôrikô thấy rõ trên tấm phim có hình cái xương đòn gánh. Gần phía vai, nơi ông bác sĩ trưởng chỉ, có thể nhìn thấy một cái hốc đen tròn tròn. Cái xương cong lại một cách đều đặn, nhưng ở chổ này quỉ sứ đã để lại cái dấu vết đen tối của nó. - Tội nghiệp... - Bà Ritsukô đưa chiếc khăn mùi xoa lên mắt và quay mặt đi. - Có thể tưởng tượng ông ấy đau đớn biết chừng nào... Nôrikô chậm rãi đứng dậy và đi sang gian bếp rửa cái cốc. Không có ai yêu cầu cô cả. Chẳng qua việc đó đã đi vào tập quán của cô. Bây giờ Nôrikô hầu như lúc nào cũng ngủ. Nói cho đúng ra, đó không phải là giấc ngủ. Cô nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền nhưng óc của cô vẫn thức. Cô nghe thấy hết, hiểu hết - tiếng gió rít cũng như những bước chân của người đưa sửa cũng như tiếng giầy của người đưa thư chạy trên cầu thang bê-tông. Đêm hôm ấy, Akikô trực thay cho Nôrikô. Từ căn phòng của Naôê, bà y tá trưởng và Kaôru đưa Nôrikô về cư xá, đặt cô lên giường; bà y tá trưởng luôn luôn vuốt tóc cô; Kaôru ngồi bên cạnh, vẻ hiền lành, nhịn nhục như sau một trận mắng. Những gì tiếp diễn theo sau, Nôrikô đều chỉ nhớ mang máng. Chỉ có một việc cô nhớ rõ lạ lùng: sáng hôm sau có ai đến bấm chuông, và hình như cô trả lời "vâng, vâng!" Nhưng cô không ra khỏi giường, vì không đủ sức; và hình như người bấm chuông lại bỏ đi, vì từ đấy xung quanh lại im lặng như cũ. Cái gì đang diễn ra thế này? Nôrikô không thấy mệt, mà cũng không thấy đau ở đâu cả. Nhưng thân thể cô không chịu phục tòng ý cô; nó đã trở thành bạc nhược, cứ mềm nhũng ra như bông: Nôrikô giận mình sao yếu ớt đến như vậy. Có ai gọi thì cô trả lời, không có gì thì cô vẫn nằm như cũ. Nôrikô nằm gần suốt ngày, cho đến bốn giờ. Đến bốn giờ - từ đây trở đi, cô nhớ khá rõ - người ta đánh thức cô dậy. Cô mở mắt, bà Sêkiguchi đang ngồi trước mặt cô. - Dậy rồi à? Cô thấy trong người thế nào? - Bà y tá trưởng cúi xuống sát người Nôrikô lúc bây giờ đang nhìn lên trần với đôi mắt ngái ngủ. - Sáng hôm nay tôi có ghé lại đâu. Tôi bấm chuông thì thấy cô trả lời, thế là tôi yên tâm ra về. Như vậy nghĩa là có người bấm chuông thật chứ không phải cô nằm mơ... - Bà chị bác sĩ Naôê đã đến. - Bà chị? - Tối hôm qua cô có nói điện thoại với bà ấy đấy... Từ giây phút này trí óc Nôrikô bắt đầu làm việc một cách khẩn trương. - Bây giờ bà ấy ở đâu? - Ở bệnh viện, lát nữa bà ấy sẽ đến đây. - Thế thì tôi phải dậy... - Không cần đâu. Nếu thấy mệt thì cứ nằm đi. - Không, tôi sẽ dậy. - Vậy thì tôi đưa bà ấy lại đây nhé? Kể cũng lạ... Tấn bi kịch vừa xảy ra đã là cho bà y tá trưởng càng linh hoạt hơn. Bà đi rồi, Nôrikô ngồi dậy trên giường và đưa mắt nhìn quanh. Mặt trời đã ngả về phía tây. Hôm qua cô đang mặc thế nào thì cứ để thế mà nằm, không thay đồ ngủ. Cô vội vã mặc săng-đai và váy rồi đến trước gương và bắt đầu chải tóc. Vừa lúc ấy có tiếng gõ cửa. - Chúng tôi đã đến đây, - giọng bà y tá trưởng nói ngoài cửa. Nôrikô bối rối: tại sao họ đến nhanh thế? Đến nỗi mình cũng chưa kịp sửa soạn gì. Cô toan yêu cầu họ đợi một chút, nhưng rồi lại nghĩ lại. Tóc vẫn còn buông xõa, cô ra mở cửa. Bây giờ, khi Naôê đã chết, người ta sẽ nhìn cô như là vợ anh. - Xin lỗi... - Một người đàn bà đứng tuổi mặc kimônô bước vào phòng. - Tôi là chị của Naôê. - Nôrikô Simura... - Nôrikô cúi mình chào và đưa mắt lên nhìn người đàn bà. Trông bà ta có một cái gì rất thân thuộc. Tuổi trạc bốn mươi, khuôn mặt dài dài rất giống Naôê. Chiếc kimônô bà mặc rất trang nhã, màu ca-rốt có hoa văn nhỏ. - Cô đã giúp đỡ em tôi rất nhềiu, xin cảm ơn... - Người đàn bà cúi mình nói. - Thật đáng tiếc là trước đây tôi không được biết gì về cô. Dĩ nhiên lẽ ra mẹ tôi phải lên đây - mẹ tôi rất muốn được gặp cô, - nhưng sau những việc đã xảy ra mẹ tôi yếu hẳn đi. Cho nên tôi phải thay mặt mẹ đến đây... Nôrikô không biết nói gì. Cô nhìn người đàn bà và cảm thấy tim mình như một tảng băng dần dần ta ra dưới một làn hơi ấm. - Chắc cô phải giận chúng tôi... Sự thể đã như vậy. Nếu có thể được, xin cô lượng thức. - Tôi tuyệt nhiên không có gì để oán giận các vị. - Tôi nghĩ giá em tôi được nghe lời này, em tôi sẽ rất mừng... ... Nôrikô nhìn người đàn bà không rời mắt. Một bóng đen lại thoáng qua trên gương mặt cô, và Nôrikô tự nhủ: "Họ giống nhau quá!" - Anh ấy nhảy xuống hồ ư? - Nôrikô hỏi khẽ. - Chiều hôm kia người ta tìm thấy trên hồ một cái thuyền không; trên thuyền có cái áo măng-tô của em tôi và một bức thư. - Có ai trông thấy anh ấy không? Trông thấy anh ấy ngồi trên thuyền? - Không. Không có ai trông thấy. - Người đàn bà lắc đầu chậm chậm. - Như vậy nghĩ là chưa biết đích xác?... - Ngày mồng năm tháng giêng em tôi đi xe ra hồ. Người gác cổng khách sạn có trông thấy em tôi đi xuống bờ hồ. Con đường mòn hẹp phủ tuyết đi xuống dốc. Ở phía dưới là cái hồ rộng mênh mông màu xám chì. Những cây bạch dương hắt bóng xuống tuyết... - Trên thuyền chỉ có cái áo với bức thư thôi ạ? - Có bao thuốc lá với hộp diêm nữa. Chèo thuyền ra khỏi bờ, Naôê đã hút thuốc. Anh nghĩ gì trong những phút ấy? Nghĩ về bệnh chăng? Về công việc chăng? Hay về Nôrikô? Nước mắt làm cho Nôrikô nghẹn ngào. - Em tôi có yêu cầu chúng tôi chăm sóc cô. Hình như em tôi buồn nhiều hơn cả, là khi nghĩ đến cô. Nôrikô không tin sao được. Đã bao nhiêu lần cô cố gắng đi vào tâm hồn Naôê, nhưng lần nào anh cũng đẩy cô ra. Nôrikô chưa bao giờ dám nghĩ rằng trên đời cô có một người yêu mình. Cô vẫn nghĩ rằng Naôê gặp cô chỉ vì cô có một cái gì thuận tiện cho anh, và chỉ thế thôi. - Em tôi rất muốn sống... muốn sống lâu... - Người đàn bà nói qua nước mắt. - Anh ấy có viết như vậy trong thư ạ? - Không. Nhưng tôi biết. Chính là vì em tôi không hề viết một chữ nào về chuyện ấy. - Người đàn bà lấy trong túi xách ra một cái khăn tay. Nôrikô mường tượng nhớ lại đôi mắt Naôê có những lúc hiền hậu như thế nào. Có lẽ chính vì những khoảnh khắc ấy mà cô yêu anh một các hết mình vậy chăng? - Như vậy tức là chị cũng không biết gì cả? Về bệnh tình của anh ấy? - Không. Em tôi không nói gì với ai cả. Nhưng không hiểu sao xưa nay tôi vẫn nghĩ rằng em tôi sẽ chết đúng như thế. Nó sẽ tắt đi như thế. - "Tắt đi" là thế nào ạ?... - Làm sao mà cắt nghĩa được cho cô hiểu bây giờ... Em tôi sống mà không hắt bóng. - Hồi còn nhỏ cũng vậy ạ? - Bây giờ tôi không còn nhớ rõ. Dù sao thì xưa nay em tôi cũng xa chúng tôi, xa các anh chị em trong nhà, nó đi theo một con đường riêng của nói, một con đường không ai hiểu. Nôrikô thu người lại, như thể cảm thấy có một lưỡi dao lạnh ngắt luồn vào sống lưng. Một nỗi buồn da diết thấm sâu vào cô. Cô thấy thèm được trông thấy Naôê một cách nhức nhối. - Bao giờ lễ an táng được cử hành ạ? - Sêkiguchi, nãy giờ im lặng, cất tiếng hỏi. - Thân quyến đã tụi tập lại ngày hôm qua. Còn chính thức thì... Cái chết đã được xác nhận, nhưng di hài thì không có, cho nên... không cần phải vội vã. Để sắp xếp đồ đạc của em tôi xong đã, rồi đến khi tôi về Sappôrô sẽ... - Hễ khi nào định được ngày, xin bà báo cho biết. - Sêkiguchi nói. - Chắc khó lòng đến tận nơi được, nhưng chúng tôi ít nhất cũng sẽ đánh điện, gửi hoa... - Xin đa tạ. Còn cô, Nôrikô-san, có đến được không? - Tôi ạ? - Lộ phí và mọi khoản khác chúng tôi xin chịu. - Không, tôi... - Em tôi sẽ buồn nếu gia đình họp lại mà không có cô. - Không... - Nôrikô ngẩng đầu lên nhìn ra cửa sổ: mặt trời đã khuất sau mấy đám mây. - Không, tôi... Tôi không thể đi được. - Tại sao ạ? - Tôi rất muốn đi, muốn đi vô cùng... Nhưng tôi sợ... - Cô sợ ư? Sợ gì? - Tôi sợ đi một mình. - Nhưng cả gia đình chúng tôi sẽ ở đấy mà. - Tôi... không dám tin là mình sẽ... Hồ Sikôtsu cách Sappôrô không xa. Nếu Nôrikô đi, sẽ có một cái gì thu hút cô đến nơi mà Naôê đang nằm dưới lớp nước lạnh giá. Điều đó rất khủng khiếp. Nhưng niềm ước vọng được gặp Naôê, cô không dám tin rằng mình sẽ cưỡng lại được... Khi khách đã ra về, đem sập xuống rất nhanh. Đã mấy ngày nay Nôrikô không có chút gì trong bụng, nhưng cô không thấy muốn ăn. Cô trầm ngâm đứng bên cửa sổ. Bên bệnh viện có ánh đèn. Giờ này các bệnh nhân ăn tối sắp xong, chắc họ đagn xếp bát đĩa vào cái xe con của bà cấp dưỡng. Trong một phòng nằm nào đấy, một bệnh nhân mới được cắt bỏ ruột thừa hình như trông thấy một cái gì buồn cười lắm: anh ta cười lớn, tay phải ép vào bụng. Naôê đã chết. Nhưng, vẫn như mọi khi, mặt trời lại lặn, đêm lại xuống... Thật lạ lùng... Nôrikô tô lại đôi môi, gom tóc lại thành búi, mặc áo măng-tô và đi ra đường. Một ngọn gió mạnh thổi là là đang quét tuyết trên mặt đường. Chẳng biết đi đâu bây giờ. Nôrikô bước dọc phố Yamanôtê, đi về phía đường Tamagawa: từ đấy có thể đi đến khu Ikêđziri. Cô không nghĩ gì hết, cô chỉ muốn lẩn vào đám đông. Đôi chân như cái máy đưa cô đi. Đột nhiên Nôrikô kinh ngạc nhận thấy mình đang đi về phía Ikêđziri. Những chiếc xe hơi nối nhau thành một giòng sông bất tận trên con đường lớn, nhưng cô không cần xe. Tốt hơn, cứ đi bộ, bước vềphía trước không chut suy nghĩ: lúc bấy giờ trong tâm hồn sẽ thấy nhẹ hơn một chút. Những tiếng còi xe hơi rú lên, những tiến gphanh ken két trên nhựa đường, những dãy đèn nhấp nháy lia lịa... Nôrikô bị xô đẩy, nhưng cô không nhận thấy gì. Họ đi đâu mà vội thế? Tại sao họ giận dữ khi có một cái gì cản trở lối đi? Sau cái chết của Naôê... Lúc bảy giờ rưỡi Nôrikô đến trước tòa nhà ấy. Tòa nhà trắng với những khung cửa sổ sáng trưng trông như một thứ đồ chơi. Nôrikô đi vào phòng đệm, nhảy vào thang máy. Hồi Naôê còn sống, mỗi khi đến gặp anh bao giờ Nôrikô cũng vội vàng. Tầng thứ năm. Bây giờ sang phải. Cánh cửa thứ ba kể từ cuối hành lang. Tối hôm qua cô đã ở đây. Nôrikô bấm chuông. Bấm lần nữa. Không, không có ai ra cả. Nhưng bà chị Naôê có nói là sẽ đến dọn nhà. Chắc bà ấy đi rồi. Nôrikô bấm chuông một lần nữa. Vẫn không có ai. Thôi vậy... Cô quay trở lại thang máy. Khi đi đến đây, cô biết Naôê không có nhà, chẳng qua qua cô muốn biết thật chắc một lần nữa. Phải đến một mình. Nhưng anh ấy vẫn không ra. Anh ấy không còn nữa. Bây giờ chắc rồi. Nôrikô đi ra đường. Một buổi tối thật là kinh tởm. Cô đi lang thang, lưng còng xuống, đôi mắt không chớp nhìn thẳng trước mặt. Đèn xe, đèn quảng cáo, đèn trên các cửa sổ hòa lại làm một. Cần phải đi. Đi đâu cũng được. Đi. Đi mãi. Chỉ có thế mới trốn thoát được nỗi buồn. Và đây là phố Yamanatê. Nôrikô vượt qua đường và đi ra ngã tư Đôghenđzaka. Đâu gần đây có hiệu cà-phê "Phoenix", nơi mà cô và Naôê đã gặp nhau nhiều lần. Đẩy cánh cửa kính, Nôrikô bước vào, ngồi xuống cạnh cái bàn thứ hai bên phải. Cạnh chiếc bàn con này họ đã ngồi đợi nhau. Một cô hầu bàn đến. Nôrikô gọi cà-phê. Chín giờ mười. Một nhóm người ồn ào đi vào quán. Ở các góc phòng có những đôi trai gái ngồi. Cứ mỗi lần cửa mở, Nôrikô lại ngẩng đầu lên. Không, không phải Naôê. Khoảng một giờ trôi qua. Nôrikô đứng dậy. Rốt cục Naôê vẫn không đến. Anh sẽ không bao giờ đến quán cà-phê này nữa. Điều này bây giờ cô cũng đã biết chắc. Ánh phản chiếu của những ngọn đèn đêm làm cho bầu trời phơn phớt đỏ. Thọc hai tay vào túi áo măng-tô, người nghiêng về phía trước, Nôrikô đi tiếp. Gót giầy cao, khó đi. Cô chưa bao giờ đi nhiều như vậy. Chỉ còn một chút nữa, chỉ cần qua cái hẻm này là đến bệnh viện. Nhỡ may? Nhỡ may anh ấy đang ở đâu trong bệnh viện thì sao? Cửa trước đã đóng; đèn trong các phòng bệnh nhân đã tắt, chỉ còn một khung cửa sổ sáng - đó là phòng các nữ y ta. Thậm chí còn trông thấy lưng ai thấp thoáng trong cửa sổ. Nôrikô dừng lại rồi quả quyết đi về phía cửa ngách. Trong phòng khám ngoại trú, trong phòng tiếp tân, trong phòng X-quang đều tối om. Tiếng những bước chân của Nôrikô vang dội trong khoảng trống. Cô đứng lại trước phòng phẫu thuật. Ánh trăng phản chiếu trên những tấm kính mờ của các cửa phòng. Nôrikô nhìn quanh rồi mở cửa. Có vậy gì đánh "cách" một tiếng ngắn, rồi tất cả lại im lặng. Ở đây cũng không có một mống người. Các cô y tá trực chắc đang xem ti-vi trong phòng của họ. Ở chính giữa gian phòng lát gạch men trắng là cái bàn mổ. Bằng một cử chỉ quen thuộc Nôrikô bật đèn lên. Chỉ trong nháy mắt, ngọn đèn mổ nháy nháy rồi sáng bừng lên. Ngọn đèn không hắt bóng. Giống như một vần thái dương. Nôrikô tựa vào bàn và trầm ngâm suy nghĩ. Hệ thống sưởi đã tắt, nhưng cô đi nhiều nên vẫn thấy ấm. Trước khi mổ bao giờ cô cũng đợi Naôê ở đây. Dưới ánh đèn này không có một người nào hắt bóng. Những con người không có bóng... Naôê đeo tấm vải bịt mặt, mặc áo blouse xỏ tay vào đôi găng cao-su và bắt tay vào việc. Ngay bây giờ anh sẽ bước vào, sẽ trông thấy Nôrikô, gật đầu chào cô rồi ném ra một câu ngắn gọn: "Dao mổ!" Trong cái khoảnh khắc cô đưa dao mổ cho Naôê, hai trái tim của họ sẽ gặp nhau. Điều đó ắt phải lập lại. Đêm sẽ tàn, mặt trời sẽ mọc, một buổi sáng mới sẽ bắt đầu, và cái khoảnh khắc ấy sẽ đến. Không thể nào mọi vật trên thế gain đều vẫn như cũ, mà trên chính cái thế gian này lại không có Naôê. Không có thể nào như thế được! Đứng im trong vùng ánh sáng rực rữ của ngọn đèn không hắt bóng, Nôrikô kiên nhẫn chờ đợi Naôê.
Hết