Chẳng biết vì sao đêm hôm ấy quan huyện Từ Châu Phong là Đô Khoan vùng thức dậy trong lúc canh ba, mở cửa ra công đường. Bọn nha dịch vội vã đốt đèn lên và chạy lăng xăng gọi nhau: - Lão gia thăng đường! Một tên thư lại lấy làm lạ bước đến bẩm: - Giữa đêm khuya thế này mà lão gia thăng đường, chẳng biết có việc cần kíp lắm sao? Đô Khoan đáp: - Ta vừa chiêm bao thấy một vị thần xưng là Thôi Phủ Quân đến mách với ta rằng: nay có chân chúa ở tại miếu Thôi Phủ quân nằm ở bờ sông Hiệp Giang và báo ta phải mau mau đến đó tiếp giá. Ngươi có biết miếu Thôi Phủ quân ở đâu không? Ngẫm nghĩ giây lâu, tên thư lại đáp: - Chỉ vì lão gia quá tâm niệm đến hoàng thượng nên mới sinh ra chiêm bao như vậy, chứ ở đây con chưa hề nghe nói đến cái miếu ấy bao giờ? Đô Khoan lại hỏi hết bọn nha dịch cũng không ai biết được nên rơi nước mắt nói: - Nước mà không có vua thì bá tính đảo điên, biết liệu làm sao đây? Rồi Đô Khoan gọi tên Môn Tử lên bảo: - Hãy đem trà cho ta uống. Môn Tử vâng dạ chạy xuống phòng trà thì đã thấy Thái Mậu đang cặm cụi đun nước pha trà, Môn Tử bảo: - Kìa lão Thái, hãy pha trà nhanh lên cho lão gia uống. Thái Mậu đáp: - Có đây, nước đã gần sôi rồi. Ồ, sao hôm nay quan huyện lại thăng đường trong đem khuya thế này? Môn Tử nói: - Thật buồn cười, chỉ vì có một điềm chiêm bao mà tất cả đều mất ngủ. Thái Mậu tò mò: - Chiêm bao gì, ngươi có rõ không? Môn tử vừa cười vừa nói: - Ngài thấy cái ông Thôi Phủ Quân nào đó đến bảo ngài đi tiếp giá, nên ngài đang hỏi thăm cái miếu Thôi Phủ Quân, nhưng cái miếu lạ lùng ấy ai mà biết được? Bây giờ ngài khóc tức tưởi trên ấy mới lạ chứ. Thái Mậu đáp: - Miếu Thôi Phủ Quân thì ta biết nhưng xa giá ở đâu đó mà tiếp? Đó chỉ là chiêm bao mộng mị thôi. Thái Mậu pha trà xong trao cho Môn Tử bưng lên và dặn: - Ngươi lên trên ấy đừng bảo ta có biết miếu Thôi Phủ Quân mà mất công, cứ việc làm thinh đem trà cho ngài uống để ngài ngủ phứt đi cho chúng ta nhờ. Môn Tử bưng trà vừa đi vừa cười thầm. Lên đến công đường quan huyện thấy hắn cười chúm chím liền nạt lớn: - Có việc gì mà cười hả? ngươi cười ta sao? Môn Tử sợ hãi bẩm: - Dạ con đâu dám cười ngài, chỉ vì lão Thái Mậu pha trà ấy biết cái miếu ông Thôi Phủ Quân mà lại dặn con đừng nói với lão gia nên con thấy buốn cười. Đô Khoan xoe tròn đôi mắt: - Mi bảo sao? Có phải mi bảo tên Thái Mậu biết cái miếu Thôi Phủ Quân không? Hãy gọi hắn lên đây mau. Môn Tử chạy thẳng xuống bếp trách móc: - Cũng tại ngươi làm cho ta tức cười mà sinh chuyện, tí nữa là bị đánh đòn rồi. Bây giờ lão gia đòi ngươi lên bảo gì trên ấy, ngươi phải lên nagy đi. Thái Mậu nghe nói, trống ngực đập thình thịch vội ra công đường quỳ mọp. Đô Khoan quát: - Tên khốn kia, ngươi đã biết miếu Thôi Phủ Quân sao ngươi lại dặn Môn Tử đừng nói cho ta biết? Thái Mậu lễ phép đáp: - Thưa lão gia, chẳng phải tôi không muốn nói song vì cái miếu ấy lâu đời hư hỏng cả rồi nên tôi không dám nói. Đô Khoan cau mày: - Ngươi lẩn thẩn quá. Ta muốn tìm cái miếu ấy thôi chứ có hỏi cái miếu tốt hay xấu đâu nào. Thái Mậu lại nói: - Quê quán tổ phụ tôi ở gần sông Hiệp Giang nên biết rõ cách Hiệp Giang chừng năm dặm có một cái miếu Thôi Phủ Quân nhưng đã lâu đời hư nát, tôi chỉ sợ trong thành này có cái miếu Thôi Phủ Quân nào khác nên tôi không dám nói. Sáng mai lão gia tra hỏi khắp nơi thì rõ. Đô Khoan nói: - Thần minh mách bảo với ta rằng: chân chúa dưới sông lánh nạn lên, nên y phục còn ướt, nay cái miếu mi nói lại gần sông thì chắc là đúng đấy. Hãy bảo thắng ngựa đốt đèn lên và dẫn ta đến đó ngay lập tức. Quan huyện lại sai Môn Tử lấy ra một bộ y phục cùng giày mũ đem theo rồi cùng Thái Mậu ra khỏi thành nhắm hướng Hiệp Giang thẳng tới. Đi được hồi lâu, Thái Mậu chỉ vào đám rừng nói: - Miếu Thôi Phủ Quân gần mé rừng này đây. Đếnnơi, quan huyện Đô Khoan bảo kẻ tuỳ tùng ở ngoài ngồi chờ và phải im lặng, đoạn dắt Môn Tử bước vào, tìm khắp miếu mà chẳng thấy một ai. Đô Khoan lại bảo Môn Tử vén màn lên để xem tấm thần vị. Môn Tử vừa vén màn chợt thấy hai cái lông trĩ, hắn hoảng hốt chạy lui ra la lớn: - Lão gia, lão gia. Trong kia có yêu quái chớ nên vào. Khương Vương đang ngủ, nghe tiếng kêu giật mình ngồi phắt dậy rút dao cầm nơi tay hét lớn: - Ai dám đến đây, muốn làm gì ta? Đô Khoan vội quỳ xuống nói: - Xin chúa công chớ nghi oan, quả thật chúng thần tìm đến đây để tiếp giá. Khương Vương hỏi: - Ngươi là ai mà lại bảo đến đây tiếp giá? Đô Khoan nói: - Thần là tri huyện Từ Châu Phongn rộng tha cho hắn. Kim Vương cười ha hả nói: - Nếu vậy đừng đếm xỉa gì đến hắn. Hấp Mê Xi tạ ơn, vừa đứng dậy bỗng Lý Nhược Thủy chạy đến trỏ vào mặt Kim Vương mắng lớn: - Mi là tên chúa mọi tì nô chẳng biết lẽ trời, dám bắt Hoàng đế Trung Nguyên lăng nhục. Cũng có ngày chúng ta đem thiên binh vạn mã đến Huỳnh Long phủ này bắt hết bọn mọi chúng bay và đạp thành bình địa để rửa cái nhục hôm nay. Lý Nhược Thủy lớn tiếng chửi rủa không ngớt khiến Ô Cốt Đạt nổi giận cho chặt đứt ngón tay Lý Nhược Thủy đi để cho khỏi chỉ trỏ nữa. Bị đứt mất một ngón tay vẫn không thấy Lý NhượcThủy tỏ vẻ đau đớn gì cả mà lại càng giận dữ hơn nữa. Nhược Thủy lại lấy ngón tay khác chỉ vào mặt Lang chúa mắng tiếp: - Tên dã man mọi rợ kia, ta tưởng trên đời này không ai ngu hơn mi nữa, mi chỉ cắt đứt được ngón tay của ta chứ làm sao mi cắt được sự giận dữ của ta? Làm sao mi cấm không cho ta chửi mi được. Kim Vương nổi giận truyền chặt một ngón tay nữa nhưng Lý Nhược Thủy lại càng mắng chửi thậm tệ hơn. Đến nỗi đã chặt đứt hết mười ngón tay mà Lý Nhược Thủy lại lấy cùi tay chỉ vào mặt Kim chúa la lối nhiếc mắng om sòm. Giận quá, Kim Vương truyền cắt lưỡi, máu tuôn lai láng mà Lý Nhược Thủy ú ớ mãi, tuy không nghe rõ tiếng gì nhưng người ta cũng hiểu rõ ông ta không chịu im. Tuy không nói được nữa, Lý Nhược Thủy nổi giận xung thiên, múa tay múa chân nhảy qua nhảy lại trước điện la ó giận dữ. Phiên tướng thấy vậy đều cười rộ lên cho đó cũng là trò vui nhộn, cứ việc ăn uống vui say không thèm đếm xỉa gì đến Nhược Thủy nữa. Lý Nhược Thủy liền nhảy phóc lên điện môn ôm lấy Kim Vương cắn mạnh vào tai không nhả. Ô Cốt Đạt đau đớn vùng vẫy không nổi. Lúc ấy văn võ bá quan áp đến một lượt ôm Lý Nhược Thủy kéo ra nhưng than ôi, tai Kim Vương đã đứt nằm gọn trong miệng Lý Nhược Thủy rồi. Bọn Phiên tướng liền đemLý Nhược Thủy ra bằm nát như tương. Người sau có thơ rằng:
Vì vua mắng giặc giữa Phiên triều. Tay đứt mà lòng chẳng chút xiêu Cắn tai Lang chúa cho hả giận Chí khí anh hùng thật đáng nêu.
Bọn Phiên quan tề tựu đến hỏi thăm sức khỏe của Kim Vương còn Hấp Mê Xi thì lo lượm thây Lý Nhược Thủy đựng vào trong cái hộp sơn vàng giấu riêng để đó. Thái y lập tức được gọi đến vào cho thuốc băng bó chiếc tai Kim Vương bị cắn đứt. Kim Vương truyền đem Nhị đế ra nhốt dưới giếng cạn. Chẳng bao lâu Ngột Truật dẫn đại binh khải hoàn vào triều bái kiến phụ vương và tâu: - Nhờ hồng phúc và oai vũ của phụ vương nên con đánh thốc vào kinh đô Trung Nguyên dễ dàng như chẻ tre. Kim Vương khen ngợi Ngột Truật không ngớt vội truyền mở đại yến đãi hoàng tử Ngột Truật cùng chư tướng rồi đem chuyện Lý Nhược Thủy thóa mạ và cắn đứt tai mình cùng việc giết chết Nhược Thủy kể hết cho Ngột Truật nghe. Ngột Truật ra vẻ tiếc rẻ nhân tài cứ hỏi đi hỏi lại việc ấy đôi ba lần. Khi đại yến đã mãn, Phiên Vương hạ chiếu đến các nước Phiên nhỏ mượn quân, hẹn mùa xuân năm tới sẽ họp tại Huỳnh Long phủ khởi binh vào Trung Nguyên lần thứ hai. Từ khi nhị vị Tống đế bị cầm tù dưới đáy giếng tại Ngũ Cốc thành đến nay, tai chẳng được nghe tiếng nói của loài người, mắt không trông thấy mọi vật trên đời nữa, lúc nào cũng chỉ thấy một khoảng trời tròn bằng chiếc nia, trong lòng vẫn nuôi hy vọng thoát khỏi chốn tù hãm này nhưng rồi ngày tháng trôi qua, lòng hy vọng mỗi ngày một nhạt đi chỉ còn nỗi thất vọng tràn trề. Bị cầm tù như vậy còn khổ sở hơn mọi cách cầm tù khác. Hơn nữa những vị đế vương từ nhỏ sống sung sướng đã quen, nay sa vào cảnh này còn khổ sở hơn người dân gấp bội. Đang lúc thất vọng, bỗng nghe đâu đây có tiếng gọi: - Bệ hạ! bệ hạ ơi! Ôi! tiếng gọi ấy bị biến mất đã lâu, nay bỗng dưng lọt vào tai nó êm ái biết dường nào. Lòng hai vị vua thất thế lại bùng lên bao nhiêu hy vọng, vội vàng đáp: - Ai gọi đó? Có ta đây! Lại nghe một giọng nói đặc sệt tiếng Trung Nguyên đáp lại một cách vui mừng và quyến luyến lạ thường. Người đứng trên miệng giếng, chõ miệng gọi xuống ấy chính là Thôi Hiếu, tổng binh Đại Châu Nhạn Môn quan ngày xưa. Nhưng sao người ấy lại ở bên Kim Phiên mà lại được hân hạnh vào chốn giam cầm hai vua Tống? Nguyên mười tám năm về trước cũng thuộc đời Tống, quân Phiên đến hãm thành Nhạn Môn quan, bắt tổng binh Thôi Hiếu về nước. Bởi Thôi Hiếu có nghề cho thuốc ngựa rất hay nên binh tướng Phiên tin dùng. Mười tám năm chuyên nghề làm thuốc cho ngựa trong các dinh quân Phiên nên bọn tướng sĩ Phiên ai nấy đều biết mặt. Một hôm Thôi Hiếu đang trị bệnh ngựa trong dinh, nghe lỏm được tin Kim Vương bắt nhị vị Tống đế đem giam cầm dưới giếng cạn tại Ngũ Cốc thành. Thôi Hiếu vội về lấy hai cái áo da cừu, nướng ít chục cân khô bò gói lại tử tế, lại cầm theo vài sợi dây da đi thẳng đến Ngũ Cốc thành cười nói với quân canh: - Tôi mới nghe chúa cũ của tôi bị giam cầm nơi đây, nên muốn vào thăm giây lát để tỏ lòng ngay cùng chúa cũ, xin chư vị hãy vui lòng cho phép tôi vào một tí nhé. Quân canh nghe Thôi Hiếu nói vậy mỉm cười đáp: - Cũng được nhưng vào một lát rồi trở ra ngay chớ có ở lâu đấy. Ngươi thường cho thuốc chữa ngựa giùm cho chúng ta mới được vậy, chớ người khác thì không được đâu. Vừa nói vừa mở cửa thành cho Thôi Hiếu vào. Thôi Hiếu quay lại nói: - Tôi chẳng dám ở lâu đâu, xin cảm ơn liệt vị. Vào được Ngũ Cốc thành, Thôi Hiếu chạy khắp các miệng giếng kêu gọi chúa om sòm. Ở đây giếng cạn nhiều quá kêu gọi muốn đứt hơi, chạy đã mỏi gối mà vẫn chưa tìm ra cái giếng giam nhốt Nhị đế. Ông lão trung thần này chạy kiếm suốt nửa ngày chưa ra, mệt quá lăn ra đất nằm nghỉ. Trong lúc đang thiu thiu bỗng nghe đâu đây có tiếng nói rất khẽ: - “Này Vươnt tử” Thôi Hiếu chỗi dậy lắng tai nghe kỹ thì tiếng ấy phát ra gần lắm, lão ta lầm bầm: - “Thôi đích là Nhị đế ở dưới giếng kia rồi”. Rồi Thôi Hiếu lật đật chạy lại kề miệng xuống gọi: - “Bệ hạ ôi! bệ hạ ôi!”. Vừa nghe tiếng vua đáp, Thôi Hiếu mừng quá không đợi vua hỏi đã nói: - Muôn tâu bệ hạ, thần đây chính là Đại Châu Nhạn Môn quan tổng binh ngày xưa tên là Thôi Hiếu đây. Ngừng một lát, Thôi Hiếu tiếp: - Nghe Nhị đế bị giam cầm nơi đây lòng thần lấy làm đau đớn nhưng vì ở đất khách quê người nên chẳng có chi đem dâng cho thánh thượng, chỉ có ít chục cân khô bò nướng vàng và hai cái áo lông cừu để thánh thượng ngự hàn. Hạ thần cầu xin cho thánh thượng được giữ yên quý thể. Nói xong buộc áo và khô bò vào chiết dây da dòng xuống giếng. Hai vị Tống đế mở dây nhận lấy và phán khen: - Đã mười mấy năm mà lòng không quên vua cũ, thật ít ai có tấm lòng chung thủy như khanh vậy. Thôi Hiếu lại hỏi: - Chăng hay bây giờ bên nước còn ai lên ngôi kế vị cho thánh thượng không? Hai vị Tống đế đáp: - Bởi quá tin đứa gian thần Trương Bang Xương nên bị nó thi hành quỷ kế mãi quốc cầu vinh, lừa Triệu Vương đến dinh Phiên cho bỏ mạng. Trong triều chỉ còn có Cửu điện hạ Khương Vương cũng bị nó bày mưu dâng cho Ngột Truật làm con tin. Cuối cùng nó gạt bắt cả hai ta qua đây. Bây giờ trong nước không còn ai kế vị cả. Thôi Hiếu nghe nói tỏ ý mừng thầm nói: - Nếu có Cửu điện hạ ở theo dinh Ngột Truật thì cúi xin chúa thượng thảo cho một bức thư để hạ thần đi tìm Cửu điện hạ. Nếu như lòng trời còn thương nhà Tống thì chắc có thể gặp người. Lúc ấy hạ thần sẽ lập kế cho người trốn về nước lên ngôi, sau đó sẽ điều binh chín tỉnh đến đây ra sức cứu chúa thượng trở về nước. Hai vị Tống đế than: - Bị giam cầm dưới đáy giếng như vậy thì giấy bút đâu mà bảo có gia thảo chiếu? Thôi Hiếu nói: - Thần cam chịu tội muôn chết, xin Nhị chúa công cho thần vô lễ tấu một điều. - Điều gì ngươi cứ việc tâu ra xem nào? - Xin chúa công phải thảo huyết chiếu mới được. Nhị vị Tống đế nghe nói tủi lòng khóc tức tưởi một hồi rồi xé vạt áo trải lên gối, cắn đầu ngón tay cho chảy máu viết ra một bức huyết chiếu như sau: - “Ta sai Khương Vương phải tìm cách trốn về nước lên ngôi đế, chỉnh tu sơn hà xã tắc cho khỏi dứt nghiệp đế do tiên vương để lại”. Huyết chiếu thảo xong, vội cuốn buộc vào dây da bảo Thôi Hiếu rút lên. Thôi Hiếu xem xong huyết chiếu liền giấu kín vào vạt áo trong, đoạn khóc than một cách thảm thiết. Lão trung thần Thôi Hiếu trước khi đi không quên cúi lạy mấy lạy giã biệt. Nhị vị Tống đế dòm lên thấy thế cũng mủi lòng khóc rống lên nói: - Hôm nay cha con cô gia phải sa vào chốn này chẳng thấy được một ai, may khanh có lòng trung nghĩa tìm đến đây, cha con cô gia xem như thể ruột rà chí thích. Nhưng gặp nhau than thở chưa được bao lâu, lẽ nào khanh đành dời gót vội thế? Để cho cha con trẫm ngày đêm vò võ thế này, thật quá đỗi đoạn trường chịu sao cho thấu? Thôi Hiếu cũng sụt sùi tâu: - Cúi xin nhị vị chúa công giảm bớt cơn phiền lụy, phải dằn lòng sầu não để bảo trọng mình rồng chờ cơ hội. Kẻ hạ thần này còn sống ở đây được ngày nào thì nhất định tìm cách đến thăm viếng chúa thượng luôn luôn. Xin chúa thượng chớ quá lo lắng. Nói xong bái biệt hai vua ra đi. Thôi Hiếu đi được ít bước đã thấy bọn quân canh chạy đi tìm la ó om sòm. Vừa gặp Thôi Hiếu chúng nắm áo gằn giọng nói: - Kìa Thôi Hiếu, ngươi làm gì ở trong này đến nửa ngày, làm chúng ta đi tìm kiếm ngươi khổ muốn chết. Nói đến đây, tên đầu sỏ ra lệnh: - Quân sĩ, hãy bắt nó chém quách cho rồi! Thôi Hiếu hoảng kinh hồn vía, nghĩ bụng: “Mình chết thì cũng chẳng sao nhưng còn huyết chiếu thư của Nhị đế? Biết lấy ai giúp đỡ cho Khương Vương về nước lên ngôi? Rồi Thôi Hiếu sụp lạy, nức nở: - Thân già này làm chi nên tội mà các vị đem chém!