Suốt một tuần lễ không được gặp Fadette, Landry rất ngạc nhiên và băn khoăn. "Chắc rồi nàng lại nghĩ mình vô ơn bạc nghĩa - chàng nghĩ - nhưng mình không gặp được đâu phải vì mình không chờ đợi và tìm kiếm. Chắc hẳn mình đã làm nàng buồn phiền vì đã hôn nàng trong hàm đá, trong lúc nàng gần như không bằng lòng, nhưng đâu phải mình có ý gì xấu hay muốn làm nhục nàng”. Suốt tuần lễ ấy, Landry nghĩ ngợi nhiều hơn đã từng nghĩ suốt cả đời. Không còn hiểu nổi đầu óc mình, tuy trầm ngâm và day dứt, chàng vẫn phải ra làm việc, vì những cặp bò to khỏe, chiếc lưỡi cày bóng loáng, những tảng đất đỏ thấm mưa thu đều không còn cho chàng trầm tư và mơ mộng. Về gặp anh trai sinh đôi vào chiều thứ năm, Landry cũng thấy Sylvinet băn khoăn như mình. Sylvinet khác tính Landry, nhung đôi khi lại giống nhau do tác động qua lại. Có thể nói chàng đoán được điều gì đó làm xáo động sự yên tĩnh của cậu em, nhung vẫn chưa biết chắc là điều gì. Chàng hỏi, em đã làm lành với Madelon chưa, và lần đầu tiên Landry đã phải nói dối khi bảo dã làm lành. Sự thật là Landry chưa nói một lời nào với Madelon và nghĩ bụng để lúc nào đó nói, vì cũng chẳng có gì thúc bách hết. Cuối cùng, đã đến ngày chủ nhật, Landry là một trong những người đầu tiên đến dự lễ Mixa. Cậu bước vào nhà thờ trước khi điểm chuông, vì biết rằng cô bé Fadette có thói quen tới vào lúc này. Chàng thấy một cô gái nhỏ, quỳ phía trong giáo đường Đức Mẹ Đồng Trinh, quay lưng lại và hai bàn tay che mặt để tĩnh tâm cầu nguyện. Đúng là tư thế cô bé Fadette, nhưng không phải cách chải tóc và cũng không phải điệu bộ của nàng. Landry bước ra ngoài tìm nàng ngoài cổng nhà thờ, nơi những người hành khất rách rưới thường đúng trong lúc nhà thờ làm lễ. Nhưng không thấy Fadette với quần áo rách rưới đâu hết. Dự hết buổi lễ Mixa, chàng vẫn không thấy nàng. Mãi đến lúc bắt đầu lễ chính đến, khi tiếp tục nhìn cô gái đang cầu nguyện hết sức thành kính trong giáo đường, thấy nàng ngẩng đầu lên chàng mới nhận ra Fedette, nhưng trong trang phục và dáng vẻ hoàn toàn mới lạ đối với mình. Vẫn là những thứ quần áo xoàng xĩnh ngày trước, chiếc váy ngắn vải hoa, chiếc tạp dề màu đỏ và chiếc mũ vải không có đăng-ten, nhưng đã được nàng tẩy sạch, cắt và khâu vá lại trong suốt tuần qua. Tấm áo dài nay dài hơn rủ gọn ghẽ hơn trên đôi tất trắng tinh, cũng như chiếc mũ nay đã có một hình thù mới xinh xắn trên mái tóc đen mượt mà: tấm khăn choàng mới, màu vàng nhạt làm nổi làn da nâu của nàng. Fadette cũng nối cho chiếc áo chẽn dài hơn, và thay vì dáng dấp một khúc gỗ bận quần áo, giờ đây tấm thân nàng mảnh mai và uyển chuyển, tựa thân hình một con ong mật. Hơn nữa, không biết cô gái đã dùng nước pha chế bằng các loài hoa và dược thảo gì để rửa mặt và tay mà gương mặt trắng xanh và đôi bàn tay xinh xắn có vẻ trong sáng và êm ái tựa cây sơn trà mùa xuân. Thấy cô gái thay hình đổi dạng tới mức ấy, Landry đánh rơi quyển kinh. Nghe tiếng động, cô bé Fadette quay hẳn lại và nhìn chàng trai, đúng vào lúc chàng nhìn nàng. Đôi má nàng hơi đỏ hồng, không đỏ hơn đóa hoa hồng trên cây nhưng làm nàng trở nên xinh đẹp, nhất là vì đôi mắt đen lánh chưa bị ai chê bao giờ, phát ra một ngọn lửa rất mực trong sáng, tưởng chừng nàng đã hoàn toàn đổi khác. Landry vẫn nghĩ bụng: "Fadette quả có pháp thuật phù thùy. Từ xấu, nàng muốn trở nên đẹp, và thế là đẹp như có phép lạ". Chàng run rẩy vì sợ hãi, nhưng không phải vì sợ hãi mà không muốn tới gần để nói chuyện, và cho tới lúc buổi lễ Mixa kếtt thúc, trái tim chàng trai khắc khỏai vì đợi chờ. Cô gái không nhìn Landry nữa, nhưng không còn chạy nhảy, nô đùa với trẻ nhỏ sau lễ cầu kinh như trước. Nàng cất bước rất nhanh và kín đáo, người ta không kịp nhận thấy nàng thay đổi và trở nên xinh đẹp nhanh đến thế. Landry không dám bước theo nàng, nhất là vì Sylvinet không rời mắt khỏi chàng. Nhưng rồi một tiếng sau, Landry tìm được cách bứt ra. Và lần này, theo sự giục giã và hướng dẫn của con tim, chàng tìm thấy cô bé Fadette dang cần mẫn trông coi đàn cừu trong một con đường hẻm người ta gọi là Thung lũng lão hiến binh, vì vào thưở xa xưa, bà con vùng Corse đã giết chết một tay hiến binh của Nhà vua đến bắt dân chúng nghèo khổ nạp thuế thân và đi làm lao dịch, trái với các điều khoản luật, vốn đã khá khắc nghiệt.