ôi gọi một chiếc taxi, chỉ cho người tài xế thấy ông già "bảnh bao" đang đi lắc lư trên đường giống như mấy anh chàng thủy thủ say rượu. Giống như một con cá hói, ông bơi ngược dòng, cố luồn lách trong đám đông đang đi ngược chiều. Ông làm như vậy mà không để ý đến sự lạ lùng của mình so với những người xung quanh. Nhìn ông, tôi nhớ lại những câu chuyện mà ông đã kể cho tôi nghe khi tôi còn bé. Ông khiến tôi nhớ đến chuyện cây sồi khổng lồ của người hàng xóm, hiện bóng lờ mờ lên bức tường sân vườn nhà chúng tôi, rụng quả xuống khắp mặt cỏ. Những cơn gió lớn thổi nhánh cây sồi khổng lồ đung đưa qua lại, tạo ra những tiếng sột soạt, cũng giống như bố tôi, giống như những con ky trong trò chơi bowling. Cả hai đều không bị ngã dưới sức gió. Ông khiến tôi nhớ đến cả câu chuyện về chú cá hồi. Cá hồi bơi ngược dòng nên nó có thể học được kiến thức của cả thế giới. Những ai ăn thịt cá hồi cũng sẽ có được những kiến thức đó. Nhà thơ Finneces bỏ ra bảy năm trời câu cá hồi và khi ông câu dính con cá, ông hướng dẫn người học việc chiên cá lên. Mỡ nóng văng ra từ chảo dính vào tay, Fionn lập tức ngậm ngón tay để bớt đau. Làm như vậy, tự dưng anh ta có được những kiến thức lạ thường và sự thông thái. Trong suốt thời gian còn lại của cuộc đời, khi ông không biết làm cách nào, ông lại ngậm ngón tay và thế là lại có kiến thức. Ông kể cho tôi nghe những chuyện nửa thực nửa hư như thế từ cái ngày tôi còn ngậm ngón tay và ông còn khỏe như cây sồi. Chúng tôi như không có ý niệm gì về thời gian. Chúng tôi cùng nhau trò chuyện trong sân vườn, dưới tán liễu rủ nơi tôi thường hay trốn ông và cũng là nơi ông thường tìm thấy tôi. Ngày đó, chúng tôi còn ba người: bố, mẹ và tôi. Ngày đó, cả ba chúng tôi còn tìm thấy nhau trên cõi đời này. Tôi cười khi nhìn con cá hồi vĩ đại nhất của tôi đang lội ngược dòng. Bố nhìn lên, thấy tôi, đưa hai ngón tay lên và tiếp tục bước đi. "Bố", tôi gọi từ cửa xe, "Thôi, lên xe nào". Ông phớt lờ tôi, cầm điếu thuốc đưa lên miệng, hít một hơi thật mạnh và dài đến nổi hai cái má hóp xuống. "Bố, đừng làm như vậy nữa. Lên xe chúng ta đi về khách sạn". Ông tiếp tục bước đi, nhìn thẳng về phía trước đầy bướng bỉnh. Tôi đã thấy gương mặt như thế nhiều lần trước đây, khi ông tranh cãi với mẹ vì việc đi quán rượu quá thường xuyên và hay về trễ, tranh cãi với những người bạn trong Câu lạc bộ thứ Hai về tình hình chính trị, tranh cãi tại nhà hàng khi miếng bít tết của ông không được nướng chín đen như ông muốn. Thái độ "tôi đúng anh sai" làm cái cằm ông đưa ra như tỏ thái độ thách thức. Một cái cằm phản đối, một cái đầu bồn chồn lo lắng. "Chúng ta không nói chuyện cũng được. Bố có thể phớt lờ con khi ở trong xe. Và trong khách sạn nữa. Đừng nói chuyện với con suốt đêm, nếu điều đó làm bố dễ chịu". "Con thích vậy, phải không?", ông gắt gỏng. "Trời?". Ông nhìn tôi, cố không cười, chà chà mấy ngón tay vàng khói thuốc qua khóe miệng để che giấu sự mềm lòng. Khói thuốc bay lên mắt ông khiến tôi nghĩ về đôi mắt đục mờ của ông. Ngày xưa khi tôi còn nhỏ, tôi nhớ đôi mắt ông màu xanh. Ngày đó, tôi hay ngồi đung đưa chân, tay chống cằm, ngồi nhìn ông bên chiếc bàn nhà bếp. Những lúc ấy, ông không cắm cúi sửa chiếc radio, hay đồng hồ, hay phích cắm. Cặp mắt xanh lanh lợi! Ông ém khói thuốc giữa hai môi rồi từ từ nhả ra, khói bay cong veo, lên mắt, và có thể đã nhuộm vàng đôi mắt ông. Màu vàng đục mờ tuổi tác, giống như màu ố vàng của tờ báo theo thời gian. Tôi nhìn ông, mà lòng sững sờ, không muốn nói, không muốn thở, không muốn phá vỡ sự cuốn hút ông đã tạo ra. Cách đây mười năm, trước lúc phẫu thuật tim, lúc đó trông ông hãy còn khá trẻ. Tay áo xắn tới khuỷu, các bắp tay rám nắng vì làm việc nhiều ở ngoài vườn, các ngón tay có thể đễ đàng cong lại hay duỗi thẳng ra. Móng tay của ông lúc nào cũng hơi dơ. Ngón trỏ tay phải và ngón giữa bị ám khói vàng vì chất nicotine trong thuốc lá. Vàng, nhưng vững chắc. Cuối cùng, ông dừng bước. Ông ném điếu thuốc xuống đất và giậm chiếc giày lên nó. Chiếc taxi dừng lại. Tôi ném cái phao cứu sinh gần ông và chúng tôi kéo ông ra khỏi sự kháng cự và lên "thuyền". Luôn là người may mắn, ông giống như người bị té xuống sông, lội lên không bị ướt đã đành, mà lại còn có cá trong túi. Ông ngồi trên xe, chẳng nói với tôi chữ nào, quần áo ông, hơi thở, các ngón tay đều tỏa ra mùi thuốc lá. Tôi cắn môi cố không nói lời nào chuẩn bị ngón tay cái để... bịt tai lại khi cần thiết. Ông đã giữ im lặng lâu kỷ lục. Mười, có thể mười lăm phút. Cuối cùng thì ông đã nói ra như thể chữ đã xếp hàng lâu lắm rồi trong một sự im lặng hiếm hoi. Như thể từ ngữ tuôn trào từ trái tim ông như thường lệ, chứ không phải từ cái đầu. Ngôn từ vọt ra từ miệng ông như thoát khỏi bức tường là đôi môi ngăn cách. Bây giờ, môi đã mở và ngôn ngữ bay ra tứ phía. "Bố ơi, bố nói gì quá chừng thế?". "Con không nghe à?". "Có nghe, nhưng...". Ông dùng một số thành ngữ, tiếng lóng, từ cổ và tỏ ra thích thú khi tôi hoang mang không đoán được chính xác bố muốn nói gì. "Anh bạn, cậu biết chính xác tôi đang nói cái gì không?", ông gật đầu với anh tài xế. "Anh ta đâu có nghe Bố nói". "Sao vậy? Lãng tai à?". Tôi tự dưng cảm thấy mệt mỏi. "Bố, chỗ ngồi của tài xế ngăn cách với khu vực phía sau bằng một tấm kính cách âm. Khi đèn đỏ tắt, họ không thể nghe bố nói". "Giống cái máy trợ thính của chú Joe", bố trả lời, chồm người tới trước bật một cái nút trên chiếc xe. "Anh nghe tôi chưa?", ông la lớn. "Vâng, nghe rồi ạ!". Người tài xế nhìn ông qua kính chiếu hậu. "Rất lớn và rõ". Bố cười rồi bấm tắt. "Bây giờ anh có nghe tôi không?". Không có tiếng trả lời, người tài xế liếc nhìn ông qua kính, nhãn trán trong khi vẫn để ý trên đường. Bố cười thầm. Tôi thì ôm mặt. "Đó là cách bố hay làm với Joe", ông nói một cách nghịch ngợm. "Có hôm, suốt cả ngày Joe chẳng biết bố đã tắt máy trợ thính. Ông ấy chỉ nghĩ chẳng ai nói điều gì cả. Cứ mỗi nửa giờ ông lại la lên: CHÚA ƠI, Ở ĐÂY IM ẮNG QUÁ!". Bố cười ha hả và bật công tắc lên lại. "Chào anh". "Vâng thưa ông". Người tài xế trả lời. "Tôi thấy đói quá. Anh có thể giới thiệu tiệm ăn nào ở gần khách sạn tôi không, để tôi có thể đi ăn mà không bị ai quấy rầy". Người tài xế nhìn gương mặt ngây thơ của bố trong kính, tỉnh queo, không phản ứng gì và tiếp tục lái xe. Tôi nhìn ra chỗ khác để bố đừng bối rối. Nhưng chỉ một lúc sau, người tài xế đưa một mảnh giấy xuống. "Đây là danh sách một số tiệm ăn. Tôi nghĩ tiệm đầu tiên rất ổn, đây là tiệm mà tôi thích nhất". Mặt bố sáng lên. Ông xem xét kỹ tờ giấy như thể nó là vật quý hiếm. Sau đó, ông xếp lại cẩn thận và bỏ vào túi áo một cách tự hào. Người tài xế cười, dừng xe lại ngay khách sạn của chúng tôi. Tôi liếc nhìn và lập tức cảm thấy trên cả hài lòng. Một khách sạn ba sao nằm ngay trung tâm thành phố, đi bộ khoảng mười phút là tới nhà hát lớn nằm trên đường Ox- ford. Bố xuống xe, kéo túi xách đi vào cái cửa quay ở lối chính của khách sạn. Tôi nhìn theo ông trong khi chờ người tài xế thối tiền. Cái cửa quay khá nhanh. Tôi thấy ông đang cố gắng bắt nhịp vào. Ông nhích tới một chút lại dừng, nhích tới chút rồi lại dừng. Cuối cùng ông chạy ào vào và túi xách bị kẹt bên ngoài, làm cái cửa đứng lại nhốt ông bên trong. Tôi nghe tiếng bố gõ gõ cửa kính. "Xin ai đó giúp đỡ!". Ông gọi. Tôi vội vã đi vào nhưng ông cũng vừa tự "thoát" được ra. "Tôi không thể đưa cho cô thẻ tín dụng nhưng tôi có thể cho cô lời đảm bảo", bố nói lớn với người phụ nữ sau quầy tiếp tân. "Lời nói của tôi cũng đáng giá như danh dự của tôi". "Vâng, đây chị". Tôi đưa thẻ tín dụng vào quầy cho người phụ ight:10px;'>
Khi những người khách cuối cùng thưa thớt đi ra, Justin đành đầu hàng việc đứng ngay cửa ra vào chờ đợi. Có lẽ anh lại làm lỡ mất cô ấy lần nữa rồi. Anh thật ngốc khi nghĩ rằng chỉ có một lối ra duy nhất. Justin thở dài, đầy thất vọng. Anh ước phải chi mình quay ngược được thời gian, trở về lại cái ngày trong tiệm làm tóc. Đang hồi tưởng lại những khoảnh khắc quý báu ấy, túi áo anh bất chợt rung lên. "Anh trai, anh đang ở đâu thế?". "Al... Anh đã nhìn thấy người phụ nữ ấy lần nữa". "Người phụ nữ trên chương trình tin tức?". "Vâng!". "Người phụ nữ trên chiếc xe buýt Viking?". "Vâng... Đúng là cô ấy". "Người phụ nữ trong chương trình Mua Bán Đồ Cổ...". "CHÍNH XÁC! Vì Chúa, chúng ta phải làm sao để thoát khỏi tất cả những chuyện này?". "Nàỵ.... Anh có bao giờ nghĩ rằng biết đâu cô ta là một kẻ chuyên rình mò anh không?". "Nếu cô ta là một kẻ chuyên rình mò, thế thì tại sao anh lại luôn tìm cách đuổi theo như vậy?". "Ừ nhỉ. Ừm, em nghĩ rằng có khi anh cũng là một kẻ chuyên rình mò, theo dõi mà anh không biết". "Al...", Justin nghiến răng trèo trẹo. "Thôi, gì cũng được. Nhưng anh phải nhanh chóng lên đây trước khi chị Jennifer nổi cơn tam bành đấy". Justin thở dài. "Được rồi, anh đến đây". Anh dập điện thoại và đưa mắt nhìn lần cuối các lối đi, các con đường. Giữa đám đông, một thứ đột nhiên đập vào mắt anh. Một chiếc áo choàng màu đỏ! Những hooc- môn kích thích trong người lại dâng lên. Anh chạy ào ra ngoài, lách qua đám đông. Trái tim anh thót lại. Mắt anh không rời khỏi chiếc áo khoác. "Joyce!", anh gọi. "Joyce, chờ đã!". Anh hét toáng lên, tiếng lớn hơn. Cô vẫn không ngừng bước đi, không nghe thấy anh. Anh lại đẩy, lại lách người, lại vội vàng chen ngang đám đông cho đến khi chỉ còn cách người phụ nữ một gang tay. "Joyce", anh thở không ra hơi, lách qua và chạm tới cánh tay cô ấy. Người phụ nữ hốt hoảng quay lại, gương mặt tột cùng ngạc nhiên và bực tức. Gương mặt của một người lạ! Cô ta vung chiếc túi da đánh lên đầu anh. "Á... lạy Chúa!". Anh xin lỗi, rồi chậm chạp tìm đường quay trở lại nhà hát, cố lấy lại nhịp thở bình thường, tay xoa xoa chỗ đau trên đầu, vừa rủa vừa lầm bầm mắng mỏ chính mình trong nỗi thất vọng ê chề. Anh chạm đến cánh cửa chính. Nó không mở! Anh cố lần nữa thật nhẹ nhàng, lắc lắc đẩy đẩy vài lần. Sau vài giây, anh chuyển sang đẩy và kéo cánh cửa với tất cả sức lực của mình, cố mở ra cho bằng được. "Này... Này... Này... Chúng tôi đóng cửa rồi. Nhà hát đóng cửa rồi!". Một nhân viên mặc đồng phục bước đến sau cánh cửa, ra dấu cho anh qua lớp kính. Khi quay lại quầy rượu, tôi nghe lòng đầy biết ơn khi thấy bố vẫn đang ngồi im ở đúng cái góc nơi tôi đã để ông lại ở đó. Chỉ có điều, lúc này ông không chỉ một mình. Ngồi trên chiếc ghế bên cạnh ông, đầu của một cô gái nghiêng về phía ông, gần đến nỗi như là cả hai đang bàn luận chuyện gì sôi nổi lắm. Chính Bea! Tôi hốt hoảng lao thẳng về phía họ. "Xin chào". Tôi đến bên, đầy lo sợ với những gì đã tuôn tràn không ngừng nghỉ khỏi miệng bố nãy giờ. "A... Con đây rồi, con gái. Bố cứ tưởng con bỏ rơi bố rồi cơ. Cô gái dễ thương này đã đến hỏi thăm xem bố ổn không đấy...". "Cháu là Bea", cô gái mỉm cười. Ngay lập tức, tôi không ngăn được mình mường tượng rõ rệt cô đã lớn lên thế nào. Thật tự tin, cứng cỏi! "Chào cháu, Bea". "Cô biết cháu à?", một nếp nhăn nhỏ xuất hiện trên trán cô gái. "À...". "Cô ấy là con gái bác, Gracie". Bố lại gọi nhầm tên tôi, nhưng lần này, tôi không đính chính. "Ồ, Gracie". Bea lắc lắc đầu. "Thế mà cháu đã nghĩ cô là một người khác. Rất vui được làm quen với cô". Chúng tôi chìa tay ra, bắt tay nhau. Tôi giữ bàn tay cô bé hơi lâu hơn bình thường một chút, vì khi chạm vào làn da thật của cô bé, tôi như chạm vào ký ức. "Tối nay cháu biểu diễn thật là tuyệt. Cô tự hào quá!". Tôi bật ra không kiềm được. "Tự hào? Ồ, vâng... Bố của cô, bác đây nói với cháu là cô chính là người thiết kế phục trang", cô bé mỉm cười. "Chúng rất tuyệt. Cháu rất ngạc nhiên là cháu chưa gặp cô lần nào cho đến lúc này. Chúng cháu toàn phả làm việc với Linda để thử và chỉnh sửa cho vừa trang phục diễn". Miệng tôi há hốc. Bố nhún vai đầy vẻ căng thẳng và vội vàng đưa lên môi nhấm nháp một ngụm bia trong chiếc cốc mới. Một lời nói dối mới "sáng tạo". làm sao. "Ồ, cô không hề thiết kế chúng... Cô chỉ...". Mình chỉ cái gì mới được, Joyce? "Cô chỉ coi sóc và giám sát", tôi buột miệng. "Bố cô, bác ấy còn nói gì với cháu nữa?". Tôi ngồi xuống, đầy căng thẳng, nhìn xung quanh tìm xem bố cô bé ở đâu, lòng thầm hi vọng anh đừng xuất hiện vào cái khoảnh khắc này, khi tôi đang vướng vào một lời nói dối tệ hại và quái dị. "Khi cô đến, bác ấy đang kể cho cháu nghe bác ấy từng cứu sống một chú thiên nga như thế nào", cô bé mỉm cười. "Đơn thương độc mã", cả bố và cô bé hòa giọng cùng nhau, cười lớn thành tiếng. "Ha ha", tôi ráng cười theo, nhưng tiếng cười nghe thật gượng gạo. "Thật thế sao ạ?", tôi hỏi bố đầy nghi ngờ. Bố nhấp tiếp một ngụm bia. Bảy mươi lăm tuổi. Thế mà ông đã uống hết một cốc rượu mạnh và một vại bia! Có Chúa mới biết ông sẽ nói gì kế tiếp. Chúng tôi phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt thôi. "Con biết không, con gái... Thật tuyệt diệu khi cứu sống một cuộc đời. Thật sự, thật sự là như thế". Bố cao hứng. "Trừ khi con được chính tay mình làm điều đó, không thì con không hiểu được đâu". "Bố của con... Một anh hùng!", tôi mỉm cười. Bea cũng bật cười. "Bác nói y hệt như bố cháu". Tai tôi dựng đứng lên. "Bố cháu... có ở đây không?". Cô bé nhìn xung quanh. "Không, chưa đến ạ. Cháu không biết bố cháu đang ở đâu nữa. Bố cứ hay tránh mẹ cháu và người bạn trai mới của mẹ.... À, cháu không đề cập gì đến bạn trai của cháu đâu". Cô bé cười. "Nhưng để cháu kể cô nghe một câu chuyện khác. Bố cháu cũng từng khăng khăng bố là một... siêu nhân!". "Sao thế?". Tôi cắt ngang và sau đó phải cố kiểm soát chính mình. "Khoảng một tháng trước, bố cháu đi hiển máu", cô bé mỉm cười và đưa cả hai tay lên trời. "Thế là bố nghĩ rằng bố cũng là một anh hùng khi đã cứu sống được cuộc đời ai đó. Cháu không biết nữa. Có lẽ bố cháu là một anh hùng thật. Ông hiến máu ở trường cao đẳng, nơi ông được mời đến nói chuyện vài buổi. Có thể cô biết nơi đó... Nó ở Dublin. Trường Cao đẳng Trinity phải không nhỉ? Cháu không để ý nữa, nhưng bố cháu chỉ làm thế vì cô bác sĩ rất dễ thương thôi. Cô nghĩ sao? Hình như ở Trung Quốc, người ta có một khái niệm như là nếu cô cứu sống cuộc đời một ai đó, họ mãi mãi mang ơn...?". Bố lắc đầu. "Bác không biết gì về Trung Quốc cả. Nhưng cô này thì toàn ăn các món ăn Trung Quốc thôi", ông gật gật đầu hướng về phía tôi. "Cơm chiên với trứng... hay vài thứ gì đó". Bea cười lớn. "Để cháu kể tiếp. Bố cháu hình dung ra rằng nếu như ông cứu sống cuộc đời một ai đó thì ông xứng đáng được người ông cứu sống cảm ơn mỗi ngày suốt quãng đời còn lại của mình". "Làm thế nào họ làm vậy được?", bố nghiêng người. "Bằng cách gửi đến một giỏ bánh xốp nướng, rồi lấy quần áo gởi giặt ủi giùm cho bố. Rồi một tờ báo và cốc cà phê hộp mang tới đặt trước cửa mỗi buổi sáng. Rơi một chiếc xe hơi với tài xế riêng đưa đón. Rồi những chiếc vé xem nhạc kịch...". Cô bé cau mày. "Cháu chẳng nhớ được cái gì khác nữa, nhưng ý nghĩ ấy thật là kỳ quặc. Cháu nói với bố rằng nếu bố cứ mong mỏi những điều như thế thì bố quay ngược thời gian về quá khứ để tìm một nô lệ là hơn, thay vì cứu sống cuộc đời một ai đó". Cô bật cười. Và bố cũng bật cười theo. Miệng tôi tròn xoe như sắp sửa phát âm ra từ "Ồ!". Nhưng tôi im bặt. Không có thanh âm nào phát ra cả. "Đừng hiểu nhầm ý cháu, bố cháu thật sự là một người sâu sắc và biết quan tâm đến người khác. Cô bé thêm vào, hiểu nhầm khoảnh khắc im lặng của tôi. "Và cháu rất tự hào rằng bố đã hiến máu, vì bố cháu cực kỳ sợ kim tiêm. Bố cháu bị chứng ám ảnh sợ hãi với kim tiêm". Cô bé tiếp tục giải thích. Và bố tôi thì liên tục gật đầu ra vẻ đồng ý. Sau đó thì tất cả biến đi. Tôi quay trở lại là chính mình trong phòng khách sạn, đứng trước quầy bar mini, nước từ tóc tôi nhỏ xuống tấm thảm. Bố đang chăm chú nhìn, nhìn tôi một cách tò mò, tay lơ lửng trên không như thể ông không biết là có nên đụng vào tôi hay không. "Hãy đến với Joyce", ông hát. Tôi tằng hắng. "Bố xong rồi à?". Bố gật đầu và nhìn theo tôi vào phòng tắm. Trên lối vào, tôi dừng và quay lại. "Nhân tiện, con đã đặt vé cho buổi ba lê tối nay. Chúng ta sẽ rời khỏi đây trong một giờ nữa". "Được rồi, con!", ông gật đầu nhẹ nhàng, nhìn theo tôi với đôi mắt lo lắng. Tôi đã thấy ánh nhìn này khi tôi còn bé. Tôi đã thấy ánh nhìn này cả khi tôi đã lớn lên. Hàng triệu lần như vậy. Ánh mắt đó cũng giống như lúc ông giữ thăng bằng cho tôi khi mới tập chạy xe đạp. Ông giữ chặt chiếc xe, sợ buông tay ra thì tôi ngã mất.