Thôi Mãnh, tên tự là Vật Mãnh, con nhà thế gia ở Kiến Xương. Tính cương nghị. Thuở nhỏ đi học, bọn trẻ hơi có gì xúc phạm đến thì lập tức vung tay đánh liền. Thầy học nhiều lần răn đe nhưng vẫn không chừa. Tên và tự đều do thầy đặt cho. Ðến mười sáu mười bảy tuổi thì võ nghệ cao cường tuyệt luân. Lại có thể chống sào dài nhảy lên nóc nhà. Rất thích giúp người khác và rửa sạch bất bình. Vì vậy, người làng đều cảm phục. Trong nhà ngoài cửa thường đứng đầy những người đến bẩm bạch, tố cáo. Thôi ưa chế ngự kẻ mạnh, nâng đỡ người yếu, không sợ oán thù. Ai ho he dám chống lại thì gạch, đá, gậy gộc choảng luôn, kỳ cho đến tay chân thân thể phải tàn tật. Mỗi lần thịnh nộ bốc lên, không ai còn dám khuyên can. Duy chàng thờ mẹ rất có hiếu, hễ mẹ đến là nguôi giận ngay. Mẹ trách quở đũ điều, Thôi dạ dạ vâng lời, nhưng ra khỏi cửa lại quên mất. Liền bên nhà, có một người đàn bà rất hung hãn, ngày ngày ngược đãi mẹ chồng. Mẹ chồng đói lả gần chết, con trai lén cho ăn, chị ta biết được, thét mắng trăm điều, vang động khắp bốn bên hàng xóm. Thôi giận lắm, vượt tường sang xẻo luôn tai, mắt, mũi, môi, lưỡi. Mụ chết ngay. Mẹ hay tin kinh hoàng, gọi anh hàng xóm qua, hết lòng xót thương an ủi, gả cho anh ta một con hầu trẻ, việc mới yên. Mẹ phẫn chí khóc lóc không chịu ăn. Thôi sợ, quỳ xuống xin chịu đòn, lại thưa rằng đã biết hối. Mẹ cứ khóc, không thèm nhìn. Vợ Thôi họ Chu, cùng quỳ xuống với chồng; mẹ bèn cầm gậy đánh con, rồi lại lấy kim thích vào cánh tay, thành hình chữ thập, dùng sơn bôi vào cho khỏi mất dấu. Thôi đều xin chịu hết, mẹ mới ăn trở lại. Bà mẹ thích đãi cơm các nhà sư và đạo sĩ, thường mời họ dùng bữa no nê. Xảy có một đạo sĩ ở trước cửa thì Thôi đi qua. Ðạo sĩ nhìn Thôi mà nói: - Tôi xem lang quân có nhiều khí hung hoạnh, sợ khó giữ được cho tròn tuổi thọ. Nhà tích thiện đáng ra không có người như vậy. Thôi vừa mới nhận lời răn của mẹ, nay nghe được điều đó thì tỏ cung kính mà nói: - Chính tôi cũng tự biết thế, nhưng hễ thấy bất bình, thì khó mà kìm được. Gắng hết sức sửa đổi, hoặc giả có tránh được không? Ðạo sĩ cười nói: - Hẵng đừng hỏi tránh được hay không tránh được, mà trước xin tự hỏi có thể sửa đổi hay không sửa đổi thôi. Chỉ nên tự mình ức chế thật riết; nếu muôn phần được một thì tôi sẽ mách anh một phép giả tử. Bình sinh Thôi không tin bùa phép, nên chỉ cười mà không nói gì. Ðạo sĩ nói tiếp: - Tôi biết lang quân không tin, nhưng lời tôi nói chả phải như lời bọn đồng cốt. Cứ làm được cũng đã là thịnh đức, dẫu không công hiệu cũng chẳng hại gì. Thôi xin được nghe lời dạy bảo. Ðạo sĩ bèn nói: - Vừa có một kẻ hậu sinh đi qua trước cửa kia, anh nên kết giao thật hậu tình với hắn; sau này có phạm tội chết, thì người ấy có thể cứu sống anh được. Nói rồi gọi Thôi ra chỉ cho biết người đó. Thì ra đó là thằng bé con nhà họ Triệu, tên là Tăng Kha. Triệu là người đất Nam Xương, gặp năm đói kém phải đến ngụ cư ở Kiến Xương. Từ đấy Thôi bèn cùng Triệu giao kết thân tình, mời dọn sang ở nhà mình, cung cấp cho rất hậu. Tăng Kha tuổi mới mười hai, lên nhà lạy mẹ, nhận nhau làm anh em. Năm sau, đến vụ canh tác mùa xuân. Triệu đem gia quyến đi, từ đó không có tin tức gì. Bà cụ họ Thôi, từ khi người đàn bà hàng xóm chết, răn con càng cẩn mật; có người nào đến kêu nài, cầu cứu gì, bà đều xua gạt đi. Một hôm, cậu ruột Thôi mất, chàng theo mẹ sang viếng, giữa đường gặp mấy người đang trói giải một người đàn ông, vừa mắng chửi vừa thúc đi cho nhanh, lại còn đánh đập. Người xem nghẽn cả đường, xe không tiến lên được. Thôi hỏi duyên do, thì những người biết Thôi đều xúm đến mách bảo. Nguyên trước đây cậu con trai một vị chức sắc lớn, là tên Giáp nọ, ngang ngược nhất làng, dòm thấy vợ chàng Lý Thân có nhan sắc, muốn chiếm đoạt, nhưng không có cớ gì, bèn bảo người nhà dụ anh ta đánh bạc, đưa tiền cho vay, lấy lãi rất nặng, bắt đem cả người vợ ghi vào khế văn, thua hết lại cho vay, một đêm nợ đến vài nghìn. Ðược nửa năm thì nợ mẹ đạ nợ con đã hơn ba mươi nghìn. Thân không sao trả được, cậy thế đông người chúng đến cướp lấy người vợ. Thân đến cửa mà khóc lóc, Giáp giận, bắt trói, treo lên cây, đánh bằng roi, cứa bằng dao, và bức phải làm tờ 'giấy không kêu nài'. Thôi nghe nói, nộ khí bốc lên ngùn ngụt, gia roi cho ngựa tiến lên, ý muốn dụng võ. Mẹ Thôi vén rèm xe, gọi lại bảo: - Chà, lại thế đấy hả? Thôi đành phải làm nhịn. Viếng tang xong trở về, không nói cũng không ăn, chỉ ngồi sững, mắt nhìn thẳng, như đang giận dữ người nào. Vợ căn vặn cũng không buồn đáp. Ðến đêm, mặc cả áo ngoài, nằm trên giường, trằn trọc mãi đến sáng. Ðêm sau cũng vậy, chợt mở cửa đi ra rồi lại trở vào nằm, cứ như thế đến ba bốn lần. Vợ không dám hỏi, chỉ lo lắng nín im để xem sao. Thế rồi lại ra đi, rất lâu mới về, khép cửa lên giường ngủ say. Cùng đêm ấy, có người đã giết tên Giáp trên giường nằm, phanh bụng rút ruột ra ngoài; thây của vợ Thân cũng loã lồ nằm ở dưới giường. Quan nghi cho Thân, bắt về tra xét, cùm kẹp tàn khốc, lòi cả xương mắt cá chân nhưng vẫn không cung xưng; hơn một năm không chịu nổi cực hình, phải nhận liều, bị ghép vào tội tử hình. Vừa gặp lúc mẹ Thôi mất. Chôn cất xong, chàng bảo vợ rằng:
- Tôi nói đùa nàng đấy thôi!Liên hỏi lại:- Hồ thì khác gì người?Ðáp:- Kẻ nào bị nó mê hoặc thì bị ốm, nặng quá là chết, vì thế mới đáng sợ.Liên đáp:- Không đúng đâu, như cỡ tuổi chàng, ba ngày sau khi chung chạ, tinh khí có thể phục hồi, dù là hồ đi nữa cũng có hại gì! Còn như đêm đêm đánh riết thì dẫu là người còn tệ hơn hồ nữa kia! Trong thiên hạ, những xác bệnh lao, nhưng ma sài mòn, dễ thường đều là do hồ ám chết cả đấy! Tuy nhiên, hẳn là có kẻ nào thì thầm gì về tôi đây.Chàng cố biện bạch là không có ai. Liên càng ra sức căn vặn. Núng thế chàng đành phải nói lộ ra. Liên bảo:- Tôi vẫn thấy làm lạ sao chàng suy kiệt, nhưng có ngờ đâu lại chóng đến như vậy. Có lẽ đây không phải là người chăng? Chàng đừng nói gì, đêm mai sẽ làm đúng như cách hắn ta đã nhòm thiếp.Ðêm sau, Lý đến, vừa mới nói dăm ba cây lại nghe ngoài song có tiếng đằng hắng, lật đật bỏ đi, Liên bước vào nóm sau,- Chàng nguy thật rồi! Ðấy đúng là ma. Mê sắc đẹp của nó mà không dứt sớm đi, đường về âm phủ xem chừng gần đấy!Chàng bụng vẫn cho là nàng ghen, trầm ngâm không nói. Liên bảo tiếp:- Vẫn biết chàng không phải là kẻ vong tình. Nhưng thiếp không nỡ ngồi nhìn chàng chết. Ngày mai sẽ xin đem thuốc tễ đến để trừ âm độc cho chàng. Cũng may cuốn bệnh còn nông, chỉ mươi ngày thì các chứng sẽ dứt. Xin nằm cùng giường để chăm nom cho đến lúc thuyên giảm.Ðêm hôm sau, nàng quả đến đem theo ít thuốc tán bón cho chàng. Chỉ một lúc, nuốt được hai ba lượt cảm thấy tạng phủ thư thái, tinh thần nhẹ nhõm hẳn. Bụng rất biết ơn, nhưng trước sau vãn không tin là bệnh do ma làm. Liên đêm đêm nằm chung chăn, ôm lấy chàng. Chàng muốn cùng nàng giao hợp, song nàng ngăn lại. Sau mấy ngày, da dẻ đã đầy đặn. Toan từ giả, khẩn khoản dặn phải dứt hẳn Lý. Chàng làm bộ nhận lời. Nhưng vừa đóng cửa, khêu đàn, đã cầm lấy chiếc giày mà tơ tưởng. Lý chợt đến ngay. Mới cách biệt mấy hôm, đã hơi có vẻ hờn dỗi. Chàng nón- Luôn mấy đêm cô ta phải lo thuốc thang giúp tôi, xin đừng vì thế mà đem lòng oán trách. Tình nồng mặn cốt ở nơi tôi.Lý đã hơi nguôi nguôi. Trong khi đầu gối tay ấp, chàL đã hơi nguôL- Tôi yêu nàng lắm cơ, vậy mà có kẻ bảo nàng là ma đấy!Lý cứng lưỡi hồi lâL cứng lưL cứng- Hẳn là con chồn dâm đãng đã ton hót với chàng rồi. Nếu không dứt nó đi, thiếp không đến nữa đâu!Ðoạn nghẹn ngào nuốt nước mắt. Chàng phải hết lời khuyên giải mới nín.Cách một đêm, Liên Hương đến, biết Lý lại trở lại, giận giữ nóắn,- Chàng hẳn muốn chết chăng?Chàng cười đáp:- Nàng ghen gì mà khiếp thế?Liên càng giận nói:- Chàng trồng cái mầm chết, thiếp đã vì chàng nhổ nó đi, không ghen thì biết làm thế nào được!Chàng bày lời đùa cợt nói:- Thế mà cô ta nói bệnh trước là do hồ ám đấy.Liên than rằng:- Nếu quả như lời chàng nói thì chàng đã lú lẫn, không còn tỉnh nữa. Vạn nhất có bề nào, thiếp dù trăm miệng cũng làm sao tự mình có thể phân tỏ được? Từ hôm nay xin giã biệt. Sau trăm ngày nữa sẽ đến thăm chàng ở tận đầu giường.Giữ mấy cũng không được, cứ hậm hực đi thẳng.Từ đấy Lý sớm tối cập kề bên cạnh chàng. Ðược hai tháng, cảm thấy người mệt rũ. Mới đầu còn tự trấn an mình, nhưng rồi ngày càng gầy rộc đi, chỉ húp được một tô cháo loãng. Muốn về nhà để được chăm sóc, mà cứ quyến luyến không nỡ rứt đi ngay. Lần lữa đến mấy ngày, trở bệnh mê mệt, không dậy được nữa. Anh học trò láng giềng thấy chàng ốm nặng, ngày ngày sai thằng nhỏ trong quán ăn mang cơm cháo đến nhà. Chàng bấy giờ mới đâm ngờ Lý, nhâấy L sớmý ấy- Ta hối hận đã không nghe lời Liên Hương nên mới ra nông nỗi này.Nói xong, mắt tối sầm. Lúc sau tỉnh lại, mở to mắt nhìn quanh thì Lý đã đi mất; Từ đó hai bên mới đoạn tuyệt. Chàng nằm còm cõi giữa thư phòng trống vắng, nghĩ đến Liên Hương như người ta mong đến ngày mù LMột hôm, đang giữa lúc mơ mơ màng màng, bỗng một người cuốn rèm bước vào, thì đúng là Liên Hương. Ðến sát bên giường, cất giọng mát mẻ:- Anh chàng nhà quê! Nào tôi có nói điêu đâu!Chàng nghẹn ngào hồi lâu, nói rằng mình đã biết tội, chỉ mong được cứu vớt. Liên bảo:- Bệnh đã vào đến cao hoang, thật hết phương cứu chữa, tôi chỉ đến đây cốt để nói với nhau một lời vĩnh biệt, để tỏ rõ không có gì ghen tuông.Chàng buồn thảm quá, nói rằng:- Một vật dưới gối, phiền nàng đập nát dùm tôi.Liên tìm được chiếc giày, đưa cầm ra trước đèn xoay trở ngắm nhìn. Cô gái họ Lý ở đâu vụt bước vào, thoạt trông thấy Liên Hương, quay ngoắt lại định chạy. Liên vội lấy thân chắn ngang cửa. Lý quẫn bách không còn biết chạy đi đâu. Chàng trách móc đay nghiến. Lý không sao đáp lại được. Liên cư họ L- Hôm nay tôi mới được cùng dì dàn mặt để hỏi nhau đôi câu. Hồi trước bảo rằng bệnh cũ của lang quân vị tất đã không phải do tôi gây ra, nay rốt cuộc thế nào?Lý cúi đầu tạ lỗi. LiêL cúL- Mỹ miều như thế mà nỡ đem tình yêu để kết oán thù ư?Lý vật mình xuống đất khóc ròng, xin rủ lòng thương xót mà cứu giúp. Liên đỡ dậy, hỏi kỹ về thuở sinh thời. ÐáL vật_ Thiếp là con gái ông Thông phán họ Lý, chết non, chôn ở phía ngoài bức tường này. Như con tằm xuân, chết rồi mà mối tơ thừa vẫn còn vấn vương chưa dứt. Cùng chàng gắn bó là nguyện của thiếp, đẩy chàng đến chỗ cdiv style='height:10px;'>
- Kẻ giết tên Giáp, chính là ta. Chỉ vì còn mẹ già, không dám tiết lộ. Nay việc lớn đã xong, cớ sao một người làm lại để kẻ khác vạ lây? Ta sắp ra nhận tội chết trước nhà chức trách. Vợ kinh hãi, túm áo kéo lại, chàng dứt chéo mà đi, tự ra thú nhận ở pháp đình. Quan ngạc nhiên, cùm lại, tống vào ngục, mà tha cho Thân. Thân không chịu, chứ một mực nhận tội. Quan không thể quyết, giam cả hai. Họ hàng thân thuộc chê trách Thân. Thân nói: - Cái việc mà công tử làm, là việc ta muốn làm mà không làm được. Công tử đã làm thay cho ta, mà ta lại nở lòng ngồi nhìn công tử chết hay sao? Nay ta cứ coi như công tử chưa ra đầu thú là được rồi. Rồi cứ giữ nguyên, không đổi lời khai, lại cố tranh tội với Thôi. Lâu về sau nha môn cũng biết duyên cớ, bắt Thân phải ra khỏi ngục, để Thôi chịu tội. Ngày xử quyết đã gần đến, xảy có quan Tuất Hình Triệu Bộ Lang tới duyệt các án tù. Ðọc đến tên Thôi Mãnh, ông gạt hết mọi người ra rồi cho gọi vào. Thôi vào, ngẩng nhìn lên công đường, thì là Tăng Kha. Vừa buồn vừa mừng, nói hết tình thực. Triệu bồi hồi một lúc lâu, rồi vẫn truyền tống giam, dặn lính ngục phải đối đãi tử tế. Dần dần lấy cớ là đã biết tự thú được giảm đẳng, sung làm lính thú Vân Nam. Thân cũng được đi theo để phục dịch. Chưa đầy một năm, được viện lệ ân xá mà về, đều là nhờ sức của Triệu cả. Sau khi đã về, Thân vẫn theo không rời, nhận làm quản gia cho chàng, nhưng trả tiền không lấy, chỉ những thuật leo trèo đánh đá là chú tâm tập luyện. Thôi đãi ngộ rất hậu, cưới vợ cho và cấp cho ruộng đất. Riêng Thôi, từ đó cố gắng sửa đổi tính nết cũ, mỗi khi sờ đến vết kim châm trên cánh tay, thì ràn rụa nước mắt. Trong làng xóm có xảy ra việc gì, thì Thân tự thác mệnh Thôi lo liệu dàn xếp mà không bẩm cho Thôi hay. Có viên giám sinh họ Vương, là nhà hào phú, bọn vô lại bất nhân bốn phương thường hay thậm thụt ra vào cửa hắn. Những nhà khá giả trong ấp phần lớn đều bị chúng cướp bóc, nếu có ai dám trái ý, hắn sai bọn cướp giết ngay ngoài đường. Con hắn cũng dâm bạo. Vương có một bà thím goá chồng. Cả hai cha con cùng gian dâm với bà. Vợ là Cừu thị mấy lần can ngăn Vương, Vương liền thắt cổ nàng cho chết. Anh em họ Cừu kiện lên quan thì Vương đút lót để người cáo giác mình phải mang tội vu khống. Hai anh em chịu oan uất không có cách gì phân giải được, bèn tìm đến Thôi để kêu cầu, tố cáo. Song bị Thân cự tuyệt đuổi đi. Vài ngày sau có khách đến, gặp lúc không có người hầu ở nhà. Thôi bảo Thân pha trà, Thân làm thinh đi ra nói với người khách rằng: - Tôi với Thôi Mãnh chẳng qua cũng là bạn bè thôi. Theo nhau đi đày ở ngoài muôn dặm, không thể nói là không tận tình. Thế mà đã không trả công cho đồng nào lại sai khiến như đầy tớ, thì chịu sao cho nổi. Nói xong, hằm hằm sắc mặt bỏ đi. Có người nói lại với Thôi. Thôi lấy làm lạ sao Thân đổi tính thay nết như vậy, nhưng cũng chưa coi là kỳ cho lắm. Bỗng Thân lên quan kiện Thôi ba năm không trả tiền công cho mình. Thôi kinh dị quá, phải thân đứng ra đối chất. Thân phẫn uất tranh cãi. Quan cho là lý không ngay thẳng, trách mắng, đuổi đi. Lại mấy ngày sau, bỗng đang đêm Thân vào nhà họ Vương bắt cả hai cha con, người thím, người dâu giết tất rồi dán giấy vào vách, tự viết tên họ mình. Khi cho truy bắt thì đã đào vong mất tích. Nhà họ Vương nghi cho Thôi Mãnh là chủ mưu. Quan không tin. Thôi mới hiểu, câu chuyện kiện tụng Thân bày ra trước đây là vì sợ giết người sẽ liên luỵ đến mình. Các địa đầu châu ấp phụ cận truy nã rất gắt. Vừa lúc giặc Sấm nổi loạn, việc ấy mới xếp lại. Chẳng bao lâu nhà Minh mất ngôi. Thân đem gia quyến về, lại nối tình thân với Thôi như xưa. Lúc bấy giờ, giặc cỏ tụ tập như ong. Vương có đứa cháu họ tên là Ðắc Nhân, tập họp bọn vô lại do chú chiêu mộ ngày trước, chiếm cứ núi non làm giặc kéo đi đốt cướp xóm làng. Một đêm, chúng dốc hết cả sào huyệt kéo đến, rêu rao là để phục thù. Lúc đó Thôi không có nhà. Khi giặc phá cửa, Thân mới tỉnh dậy vượt qua tường nấp trong bóng tối. Giặc sục sạo tìm Thôi, không thấy, bắt vợ Thôi, vơ vét của cải rồi đi. Thân trở vào, chỉ có một người đầy tớ, phẫn chí đến cực điểm, bèn cắt một sợi dây thừng thành mấy chục khúc, đem những khúc ngắn trao cho người đầy tớ, còn mình giữ lấy những khúc dài. Dặn người đầy tớ phải vượt qua sào huyệt giặc, trèo lên lưng chừng núi, châm lửa vào dây thừng rồi treo lên các bụi gai, xong thì cứ bỏ đấy về ngay, đừng ngoái lại. Người đầy tớ vâng lời ra đi. Thân nhìn thấy bọn giặc đứa nào cũng thắt dây lưng đỏ, và buộc miếng the đỏ trên mũ, bèn cũng bắt chước nguỵ trang như vậy. Có một con ngựa cái đã già, mới đẻ con, giặc bỏ lại ngoài cửa. Thân buộc con ngựa con lại, cưỡi ngựa mẹ, ngậm tăm ra đi, thẳng đến ổ giặc. Giặc đóng ở một thôn lớn. Thân buộc ngựa ngoài thôn, trèo tường vào, thấy bọn giặc còn lăng xăng, rối rít, giáo mác cầm trên tay chưa kịp buông. Thân vồ hỏi mấy đứa, biết vợ Thôi còn ở chỗ tên Vương. Một lát, nghe truyền lệnh cho quân nghỉ, tiếng dạ như sấm ran. Bỗng có người báo núi phía Ðông có lửa. Bọn giặc cùng nhau đứng trông. Lúc đầu mới chỉ có một hai chấm, rồi thì nhiều như sao sa. Thân dồn hơi kêu lên rất gấp rằng mé núi phía Ðông có động! Tên Vương cả kinh, nai nịt lại, dẫn quân ra. Thân thừa dịp tụt lại phía sau bọn chúng rồi quay mình đi luôn vào trong trại. Thấy hai tên giặc đứng canh ở dưới trướng. Chàng phỉnh chúng, nói: - Vương tướng quân bỏ quên thanh bội đao ở đây! Cô gái soi mặt vào gương, khóc oà lên rằng:- Mặt mũi hồi trước còn hơi tự tin một chút, thế mà mỗi lần gặp chị Liên vẫn xấu hổ vì thua kém, nay lại như thế này, thì làm người chẳng bằng làm ma cho xong.Bèn cầm chiếc giày gào khóc, khuyên mấy cũng không được. Rồi trùm chăn nằm không nhúc nhích, bảo ăn cũng chẳng ăn, mình mẩy sưng phù lên. Suốt bảy ngày không ăn, rốt cuộc vẫn không chết, mà bệnh phù rạp xuống dần. Cảm thấy đói không nhịn được nữa, bèn ăn trở lại. Vài ngày sau, khắp mình ngứa ngáy, da giẻ bong ra hết. Một buổi sáng ngủ dậy, đôi giày ngủ tuột ra từ lúc nào, vội nhặt lấy mang vào thì rộng tuênh, không vừa chân nữa. Nhân đấy bèn thử lại chiếc giày cũ, thì cỡ chân gầy béo nay thật vừa vặn. Ðã thấy mừng, lại lấy gương soi lại, thì lông my, con mắt, gò má, khoé miệng, giống hệt như thuở bình sinh. Càng bội phần mừng rỡ. Rửa mặt chải đầu rồi lên thăm mẹ. Ai nấy cũng nhìn chăm chăm.Liên Hương nghe câu chuyện lạ, khuyên chàng nên nhờ người mối đánh tiếng, nhưng chàng nghĩ giàu nghèo cách trở, không dám đường đột đến ngay. Gặp ngày sinh nhật bà Trương, bèn theo đám con rể nhà ấy đến mừng thọ. Bà Trương nhìn thấy tên chàng, bèn bảo Yến Nhi đứng trong ràm nhòm ra để nhận mặt khách. Chàng đến sau cùng. Cô gái chạy thốc ra, túm lấy vạt áo, định theo chàng cùng về. Mẹ phải nạt cho, mới xấu hổ quay lại. Chàng nhìn kỹ, rõ ràng là đúng, bất giác trào nước mắt, bèn phục xuống lại không chịu đứng dậy nữa. Bà mẹ đến đỡ, cũng không cho là sàm sỡ.Chàng trở về, cậy ông cậu của cô gái đến làm mối. Bà mẹ định chọn ngày lành cho chàng đến ở gửi rể. Chàng trở về nói với Liên Hương và đem chuyện đi hay ở ra bàn. Liên buồn bã hồi lâu, rồi toan từ biệt mà đi. Chàng cả kinh, bật khóc lên. Liên nói:- Chàng làm lễ động phòng hoa chúc ở nhà người ta, thiếp theo chàng đến đấy, thì còn gì là mặt mũi nữa?Chàng tính kế trước hãy cùng nàng trở về làng cũ, rồi sau sẽ đón Yến Nhi. Liên mới chịu theo lời. Chàng đem tình thực thưa lại với họ Trương. Trương nghe chàng đã có vợ rồi, nổi giận buông lời trách móc. Yến Nhi phải hết sức phân trần, mới cho được như lời xin.Ðếắn ngày cứơi, chàng đi đón dâu, nhà cửa bài trí có phần qua quít; đến lúc về thì từ ngoài cổng vào đến nhà lớn, thảm lông chim trải kín mặt đất, trăm nghìn đèn lồng, rực rỡ như gấm. Liên Hương đỡ cô dâu vào phòng cưới, làm lễ giao bái xong, lại cùng nhau hoan hỉ như ngày nào. Liên ngồi bên hai người tiếp chén rượu hợp cẩn, nhân hỏi cặn kẽ câu chuyên lạ hoàn hồn. Yến nói:- Hôm ấy, em cứ ưu uất không nguôi, chỉ vì nỗi mình với người lại là dị loài. Tự thấy hình hìa của mình thật là nhơ bẩn. Sau khi chia tay, phẫn chí không trở vẳ mộ, đành theo gió trôi dạt khắp nơi. Hễ thấy người sống thì lại thèm. Ban ngày nương vào cây cỏ, đêm thì nổi chìm phó mặc bước chân. Tình cờ đến nhà họ Trương, thấy một cô thiếu nữ nằm trên giường, bèn lại gần nhập vào, có hay đâu lại được sống lại.Liên nghe chuyện, trầm ngâm, có dáng nghĩ ngợi.Qua hai tháng. Liên sinh một con trai. Sinh xong, bị bạo bệnh, suốt ngày nằm ly bì. Bèn cầm tay Yến dặn dò:- Phiền em vất vả nuôi dùm cái giống oan nghiệt này. Con ta cũng là con mình.Yến chảy nước mắt, lựa lời khuyên giải. Muốn mời thầy lang, nhưng nàng khước từ. Bệnh ngày thêm nguy kịch, hơi thở mỏng manh như sợi tơ. Chàng và Yến Nhi đẳu khóc. Bỗng nàng mở bừng mắt ra nói:- Ðừng thế! Các người lấy sống làm vui, riêng ta lấy chết làm thích. Nếu quả có duyên, sau mười năm nữa lại được họp mặt.Nói xong thì chết. Mở chăn ra định liệm, thấy đã hoá thành con hổ. Chàng không nỡ coi là khác loài, lo tang gia hậu hỹ.Con trai tên là Hồ Nhi, Yến nuôi nấng như con đẻ. Mỗi lần gặp tiết thanh minh, thế nào cũng bế con đến khóc trước mộ mẹ.Về sau, chàng đậu kỳ thi Hương, nhà dần dần sung túc, mà Yến vẫn khổ sở vì không sinh đẻ. Hồ Nhi cũng khá thông tuệ, nhưng tạng người yếu đuối, lại lắm bệnh. Yến vẫn muốn tìm người vợ lẽ cho chồng. Một hôm, con hầu bỗng vào thưa:- Ngoài cửa có một bà cụ, dắt theo người con gái muốn tìm chỗ bán.Yến cho gọi vào. Thoạt nhìn thấy giật nẩy mình nói:- Chị Liên lại ra đời đấy chăng?Chàng nhìn cô ta thì giống hệt, nên cũng hoảng. Hỏi:- Bao nhiêu tuổi rồi?Ðáp rằng:- Mười bốn.- Tiền cưới định lấy bao nhiêu.Ðáp:- Thân già chỉ được có mụn con này, chỉ cốt nó được chốn yên thân, mà tôi cũng có nơi để kiếm miếng cơm, ngày sau nắm xương tàn không đến nỗi bỏ nơi ngòi rãnh, thế là đủ.Chàng bàn trả giá cao, rồi giữ luôn bà cụ lại. Yến cầm tay cô gái, dắt vào buồng kín, nâng cằm, cười mà bảo:- Mày có biết tao không?Thưa rằng:- Không biết.Hỏi họ là gì, đáp:- Thiếp họ Vi. Bố làm nghề bán nước ở trong thành Từ Châu, chết đã ba năm rồi.Yến bấm ngón tay tính lại thì Liên vừa chết đúng mười bốn năm. Lại ngắm nhìn cô gái, dung nhan, cử chỉ, chỗ nào cũng giống Liên Hương đến thần tình. Bèn vỗ vỗ vào trán mà gọi to lên rằng:- Chị Liên, chị Liên! Cái hạn 'mười năm lại gặp' đúng là không lừa tôi.Cô gái bỗng như trong mộng bừng tỉnh, thình lình mắt sáng lên, nói:- A!Rồi nhìn kỹ Yến Nhi. Chàng cười bảo:- Ðó là 'Dường như quen nhau én lại về' đấy.Cô gái ràn rụa nước mắt, nói:- Phải rồi. Nghe mẹ bảo, lúc thiếp mới sinh ra đã biết nói, nghĩ là điềm không lành, lấy máu chố cho uống,nên mới lú ấp cả nhân duyên kiếp trước. Hôm nay thực như trong mơ chợt tỉnht:10px;'>
Hai tên thay nhau tìm kiếm. Thân đứng đằng sau chém tới, một tên ngã nhào, đứa kia ngoảnh lại nhìn, Thân liền chém nốt. Rồi cõng vợ Thôi vượt tường mà ra, mở ngựa trao dây cương dặn: - Nương tử không biết đường, cứ để mặc cho ngựa đi. Ngựa nhớ con bon bon chạy. Thân theo sau, đến một hẻm núi, chàng châm lửa vào sợi dây thừng, treo khắp nơi rồi mới chạy về. Ngày hôm sau Thôi trở về nhà, cho là điều đại sỉ nhục, bồn chồn, tức tối ra mặt, muốn đơn phương độc mã đi dẹp giặc. Thân phải can ngăn mới thôi. Bèn triệu tập người làng cùng bàn tính mưu kế. Chúng đều khiếp sợ, không ai dám hưởng ứng. Giảng giải khuyên dụ đến vài bốn lần mới được hơn hai mươi người dám đi. Nhưng khổ nỗi lại không có khí giới. Vừa khi ấy lại trói hai tên gian tế trong một nhà bà con của Ðắc Nhân. Thôi muốn giết ngay, Thân không cho, hạ lệnh cho hai mươi người cầm gậy, dàn ra trước mặt, rồi cắt tai cả hai đứa mà thả cho về. Mọi người đều oán, nói rằng: - Một đám quân gia thế này, đang sợ giặc nó biết được, thế mà lại cho hai thằng kia nhìn thấy hết. Nếu bất chợt chúng dốc toàn đội kéo xuống đây thì đóng cổng làng, cũng không sao giữ được! Thân đáp: - Chính tôi muốn cho chúng nó xuống! Bèn cho bắt kẻ giấu giặc trong nhà đem giết đi. Rồi sai người đi mọi nơi mượn cung nỏ, súng kíp, lại lên ấp mượn hai cỗ pháo lớn. Trời vừa tối, chàng dẫn tráng sĩ đến chỗ hẻm núi, đặt pháo vào nơi xung yếu, cho hai người cầm lửa nấp ở đấy, dặn hễ thấy giặc mới phát hoả. Lại đi đến phía Ðông cửa hang, chặt cây đặt lên dốc núi. Thế rồi Thân và Thôi mỗi người lĩnh một suất hơn mười người chia ra mai phục hai bên bờ. Gần hết canh một, xa xa nghe tiếng ngựa hí, ngầm xem xét, giặc quả ồ ạt kéo đến từng xâu dài, liên miên không dứt. Chờ chúng đã đi vào cả trong lũng rồi, bèn đẩy cây lăn xuống để chặn đường về. Một lát, tiếng pháo nổ ran, tiếng hò reo chuyển động cả khe núi. Giặc rút mau, dẫm đạp lên nhau, đến chỗ hẻm phía Ðông, không thoát ra được, dồn cục một đống. Hai bên bờ, tên đạn giáp công, khí thế như mưa bay gió cuốn. Quân giặc, đứa đứt đầu, đứa gãy chân, nằm gối lên nhau, ngổn ngang trong rãnh, chỉ sót lại hai mười đứa, quỳ gối xin chuộc mệnh; bèn sai người trói cả lại giải đi. Thừa thắng tiến thẳng lên sào huyệt giặc. Bọn giặc giữ trại nghe hơi chạy trốn sạch; bao nhiêu đồ đạc đều lục tìm kỳ hết đem về. Thôi cả mừng, hỏi Thân về mưu kế đốt lửa. Thân nói: - Ðốt lửa ở phía Ðông, vì sợ chúng đuổi ở bên Tây; dùng thừng ngắn là để cho mau cháy hết, vì sợ chúng dò biết là không có người; lại đốt ở cửa hang, vì sợ cửa hang rất hẹp, một người cũng đủ chặn giữ. Bọn chúng đuổi tới, thấy lửa, tất phải sợ. Ðó đều là hạ sách, mạo hiểm mà dùng trong lúc nhất thời thôi. Bắt mấy tên giặc lên hỏi thì quả nhiên khi đuổi đến cửa hang thấy lửa, chúng đều hoảng sợ mà lui bước. Hơn hai mươi tên cướp bắt được đều bị xẻo tai cắt mũi rồi thả cho về. Từ đó, họ Thôi và họ Thân uy danh lừng lẫy. Những người tị nạn xa gần theo về như chợ, vì vậy mà tổ chức được một đoàn dân binh hơn ba trăm người. Bọn cường hào ở các nơi không dám phạm đến nữa; cả một vùng nhờ đó mà được yên.