Chương 23

1924
-Một ông Quan tỉnh tặng ông Sứ Tây sắp về nghỉ phép ở Pháp một chiếc xe kéo và cả người cu-li để về Pháp ông xử dụng.
-Vua Khải Định có ý đem theo một chiếc xe kéo sơn son thếp vàng qua Pháp để Vua ngự du trong kỳ Hội Chợ Thuộc địa ở Marseilles.
-Công chức dùng "đồng hồ trái quít" đeo trên túi áo. Chưa có đồng hồ đeo tay.
-Phong trào đi xe máy bắt đầu thịnh hành. Lần đầu tiên thanh niên tập đi xe máy
-Một bài "Dictée" (chánh tả) thi Tiểu-học Pháp-Việt.
-Một kỳ thi vấn đáp: 100 quan tiền 6 cô (San Francisco)
-Bức trướng tặng Thầy trước khi từ giã mái trường, và 10 năm sau.
-Tình bạn giữa đôi nam nữ học sinh.
Năm 1924, ở các thủ đô các tỉnh An Nam đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều những món nhật dụng mà trước đây một vài năm còn rất hiếm hoi. Các thầy Thông, thầy Ký đã sắm xe máy ( ngoài Bắc:xe đạp ), mà hầu hết là xe hiệu Hirondelle (chim én ) do hãng Manifactures d' Armes et de Cycles de Saint Etienne ở Pháp sản xuất.
Saint Etienne là tỉnh lỵ của tỉnh Loire, ở phía Nam thành phố Lyon cách không xa, là nơi sản xuất nhiều nhất các dụng cụ máy móc về sắt và thép, Tuấn-em để ý thấy hầu hết các đồ dùng văn minh mới lạ, đẹp và bền của người An nam lúc bấy giờ đều có ghi sản xuất là Saint Etienne. Cho đến nổi dụng cụ học sinh: bút chì, ngòi bút, quyển vở, tẩy, compas, équerre, double décimètre v.v... Cũng đều gởi mua tận bên Pháp, ở Saint Etienne. Cách gởi duy nhất là bằng tàu thủy, ba tháng hàng mới về. Lúc bấy giờ chưa có đường hàng không nào nối liền các xứ Đông Dương và Pháp.
Xe đạp do Pháp quốc gởi qua đã nhiều, và luôn luôn là các thầy Thông, thầy Ký có trước. Tuy nhiên, vì mới lạ nên nó vẫn được người chủ nó quý chuộng, nâng niu săn sóc, lắm khi còn hơn đứa con cưng.
Thầy Thông Hồ ở cạnh nhà Tuấn, làm việc ở sở Kiểm Lâm, bắt chước các thầy khác thuê thợ mộc đóng một cái kệ để gác chiếc xe đạp của thầy. Đường đi từ nhà thầy đến sở, quanh co, gồ ghề (đường phố trong tỉnh chưa tráng nhựa) thầy đạp đi rất chậm, sợ hư bánh xe. Đi làm về thầy xuống xe nhè-nhẹ, rồi hai tay nâng chiếc xe lên kệ gỗ. Nghe thầy bấm chuông leng-keng, tức thì vợ thầy, cô Thông Hồ, còn trẻ và đẹp, cầm một nùi giẻ ra lau chùi chiếc xe, từ cặp niềng cho đến bàn đạp. Nhờ hai vợ chồng gìn giữ chiếc xe cẩn thận như thế, mà bốn năm sau, Tuấn thấy chiếc xe của thầy vẫn láng mướt, còn mới tinh như lúc mới mu. Thời bấy giờ không có nạn ăn cắp xe nên xe không khóa, và không cần khóa. Đa số các thầy Ký đều có đóng kệ để gác xe như thầy Hồ, và gia đình nào sắm được chiếc xe máy cũng hãnh diện đôi chút, như ngày nay những người làm việc ít tiền ráng dành dụm sắm chiếc deux - chevaux...
Nhất là ở thôn quê, xe đạp được coi như là biểu hiện của văn minh tiến bộ. Các nhà thi sĩ ở Trung và Nam kỳ đã đặt cho nó biệt hiệu vinh dự là "con ngựa Sắt" cũng như bên Pháp lúc chiếc xe đạp mới ra đời được công chúng suy tôn là "La petite Reine" ( Tiểu Hoàng Hậu ). Một người đạp xe máy chạy trên đường làng, bóp chuông leng-keng... leng-keng, thế là con nít từ dưới các mái nhà tranh chạy nhao nháo ra ngõ đứng xem.
Mấy cậu học trò đi coi mắt vợ ở làng xa, cứ đi xe đạp đến nhà gái là được các cô thôn nữ ưng ý liền. Trai trong làng không biết đi xe máy, và biết bao giờ họ mới sắm được chiếc xe máy? Các câụ học trò ở tỉnh, ở huyện, ngồi trên yên xe còn oai hơn là ông Nghè ngồi trên yên ngựa vinh quy bái tổ hồi xưa, nghĩa là cách đây chưa quá 30 năm.
Tuy nhiên, chỉ có thầy Thông, thầy Ký làm việc được ít lương, các nhà buôn bán, tư chức, và học trò là thích đi xe đạp.
Hầu hết các thầy Phán làm được lương cao, và các thầy Trợ giáo lại thích đi bộ. Vì theo quan niệm của các thầy lúc bấy giờ ngồi trên yên xe máy và khom lưng đạp lia liạ cho xe chạy, là mất vẻ đạo mạo, đứng đắn. Cho nên nếu dư tiền, thì các thầy sắm xe kéo nhà, ngồi bệ vệ trong xe để cho người "cu-li" kéo. Nếu ít tiền ( như đa số ) thà đi bộ, với một lũ học trò năm bảy đứa cung kính đi theo sau, còn oai hơn, và thanh nhã hơn.
Xe đạp, tuy là văn minh, là tiện lợi, nhưng ngay từ lúc mới nhập cảng sang xứ ta, nó đã bị coi như là một loại xe bình dân, mà những người trưởng giả không thích dùng. Vả lại mấy thầy mặc tòan là quốc phục, áo dài đen quần vải quyến hoặc lụa trắng, chưn mang giầy Hạ, mà đi xe đạp thật là bất tiện. Phải kẹp ống quần để nó khỏi vướng vào giây chaîne, phải kéo tà áo ra phía trước và nhét nó vào lưng quần để nó khỏi thòng xuống garde-boue, phải kéo cả tà áo trước lên cao quá đầu gối, để nó khỏi bị dính dầu mỡ nơi giây chaine, tất cả ngần ấy chuyện đã là rắc rối, mà xem bộ tịch của thầy như thế kia lại không còn vẻ gì oai vệ như nhà mô phạm nữa. Trông chẳng hơn nào chú lính lệ cho quan Tuần, quan Án.
Chính vì những lý do danh dự ấy mà đa số các thầy Trợ giáo cũng như các thầy Thông, thầy Phán làm việc ở các sở các tòa đều không ưa đi xe đạp.
Riêng Phán Tuấn lại nghĩ khác. Tuấn là "quan Phán đầu tòa", cao nhất trong các ngạch công-chức An-nam toàn tỉnh, và là quan Phán được cụ Sứ tin cậy nhất, nên uy tín còn có khi hơn cả các quan An-nam, nhưng Tuấn lại ghét những gì quan cách, những "trưởng giả học làm sang". Tuấn đã nhất định không sắm xe kéo nhà. Có lần ông già của Tuấn hỏi tại sao, Tuấn bảo:
- Con là thanh niên, con ngồi trên xe để cho một người gìa cả khom lưng kéo như trâu, như ngựa, con không đành lòng.
-Mấy thầy vẫn ngồi xe kéo đó thì sao?
- Tại mấy thầy không nghe ông Sứ nói...
- Ông Sứ nói sao?
- Một hôm con hỏi ổng bên Pháp có xe kéo không, ông Sứ trả lời rằng: "Người Pháp đã văn minh lắm, ở Pháp một con người là một con người, chứ không phải là một con ngựa". Nghe thế là con hiểu ý ổng chê người "An-nam" mình còn dã man, con người mà đi kéo xe như con ngựa. Cho nên con nhất định không đi xe kéo.
- Vậy sao ông Sứ vẫn thường ngồi xe kéo, do người lính An-nam kéo!
- Ông Tây thấy người cu-li An-nam kéo xe như ngựa thì ổng ngại gì mà không ngồi xe cho An-nam kéo, như mấy ông quan An-nam và những người An-nam khác.
Một lần trước, ông Tuần-vũ nghe tin ông Sứ sắp về Pháp nghỉ 6 tháng, ông Tuần đến thăm, và nói muốn tặng quan lớn một chiếc xe kéo mới tinh, và cho một người lính lệ theo hầu Quan Lớn để về Paris thằng lính nó kéo xe cho quan lớn đi chơi, thì ông Sứ cười sặc sụa và cảm ơn ông Tuần:"Quan Lớn có lòng tốt, tôi rất cảm động nhưng nếu dân chúng ở Paris thấy một người ngồi trên xe do một người khác kéo, thì họ sẽ cho rằng cả hai người là hai thằng điên... Vì thế nên khi Hoàng Đế Khải Định sắp sang Pháp dự cuộc đấu xảo ở Marseilles, Ngài tỏ ý với quan Khâm Sứ rằng Ngài muốn đem theo một chiếc xe kéo của Ngài, sơn son thếp vàng thật đẹp, để lúc sang bên Pháp, lính An-nam sẽ kéo Ngài đi xem thành phố, thì quan Khâm Sứ liền kính cẩn khuyên Ngài đừng nên thực hiện ý định ấy... "
Năm 1924, tại các tỉnh miền Trung, xe kéo bánh sắt vẫn còn. Nhưng bánh cao su đã thay thế bánh sắt khá nhiều. Xe bánh sắt chỉ có hạng ít tiền đi thôi. Ở các tỉnh thành lớn cứ độ 10 xe kéo bánh cao su cũng còn 2,3 xe bánh sắt.
Đồng hồ, thì tất cả các thầy Thông, thầy Ký, thầy Giáo đều có. Vì sự bắt buộc phải có đồng hồ để làm việc đúng giờ, nên mặc dầu đắt giá, các thầy cũng ráng sắm mỗi người một chiếc. Nhưng năm 1924, đồng hồ đeo tay chưa có nhiều. Chỉ được thông dụng loại đồng hồ bỏ túi, gọi là "đồng hồ trái quít ", tuy hình thức nó không phải tròn vo như trái quít, mà tròn dẹp, có sợi giây và cái khoen để đeo vào khuy áo.
Tuấn-em, cũng như tất cả học trò lớn ở trường tỉnh, đều ao ước được xe máy. Phán Tuấn có mua một chiếc, ngày hai buổi đạp đi đạp về, rất tiện lợi. Buổi tối chàng tập cho Tuấn-em đi. Hai đêm đầu, Tuấn-em cứ ngã luôn, có lần té vấp một bụi duối bị gai cào trầy cả mặt mũi. Nhưng đêm thứ ba, trò Tuấn đã đi được một mình, khỏi phải nhờ anh đỡ cái yên chạy theo sau. Từ đấy, cứ buổi trưa, mặc dầu nóng oi-ả, trò Tuấn cứ lấy xe máy của anh đạp chạy một vòng quanh các phố. Buổi trưa, các thành phố đều im lặng, không náo nhiệt như ngày nay. Trừ tiếng chuông xe máy và "lục lạc" xe kéo, không có tiếng ồn ào khác. Xe hơi vẫn còn ít, ít lắm. Trừ đôi ba chiếc của quan Tây, còn thì quan An-nam vẫn thích ngồi xe nhà, thường thường là xe sơn đen, bóng loáng, hoặc sơn đỏ sẩm, màu rượu bordeaux. Cũng còn nhiều ông quan An-nam đi xe song mã.
Tư gia không ai dùng xe hơi. Nhà giàu không dám sắm, sợ các quan ghen ghét. Nhất là Hoa-kiều, vì hầu hết các nhà buôn lớn nhất ở các tỉnh đều là của "các chú", họ dư sức sắm xe hơi, nhưng họ sợ các "quan An-nam" ghét nên họ cứ đi xe đạp, hay là xe kéo. Đi xa thì họ đi xe đò STACA.
STACA là "Société des Transports Automobiles de Centre Annam ", một hãng chuyên chở bằng xe hơi của người Pháp, mà ta có thể nói là hãng xe đò độc quyền lúc bấy giờ chạy từ Tourane ( Đà Nẵng ) vào Nha Trang và ngược lại.
Mổi ngày chỉ có một chuyến duy nhất từ Tourane vào và một chuyến từ Nha Trang ra, gặp nhau khoảng 12 giờ trưa trước cổng nhà giây thép Quảng Ngãi.
Xe chở thư tín giao thông hàng ngày, một loại xe "car" không quá 10 chổ ngồi. Nghĩa là mỗi ngày từ miền ngoài vào miền trong, hay từ miệt trong ra ngoài không quá 10 hành khách, hầu hết là khách sang, hoặc nhà buôn lớn.
Trò Tuấn cứ khoảng 12 giờ trưa là thích đến vườn hoa trước cổng nhà giây thép để coi hai chiếc xe thơ staca gặp nhau tại đây. Ngừng độ một tiếng đồng hồ, rồi bỗng nhiên một chiếc rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy. Nó chạy vùn vụt ra miền Bắc. Chiếc thứ hai cũng rồ máy, xịt khói, bay hơi, chạy bon bon vào hướng Nam, bụi và khói tỏa mịt mù hai bên hàng phố. Trò Tuấn xem mê và cứ nghĩ thầm: "Biết bao giờ mình mới được đi trên chiếc xe điện này xem ra sao nhỉ? Ồ... biết bao giờ? ".
Riêng gì trò Tuấn! Hầu hết người "Annam" ở các tỉnh đã mấy ai được đi xe hơi. Mặc dầu là xe thơ ( người ta vẫn bảo là xe chở thơ của nhà nước ), nó vẫn còn hiếm hoi, mỗi ngày chỉ một chuyến chạy ra, một chuyến chạy vào, ngoài ra không còn xe hơi nào khác nữa.
Nhưng đến năm 1924, đã bắt đầu có vài ba chiếc xe khác, gọi là xe "cam nhông"
( camions ) của người An -nam làm chủ. Các loại xe đò này không phải là xe Thơ, chỉ chuyên chở hành khách và hàng hóa tư nhân. Xe cam nhông chạy không có giờ phút nhất định, muốn ngừng đâu thì ngừng, hành khách đông nghẹt, ngồi ép với nhau chật ních, không có trật tự đàng hoàng như trong xe thơ Staca.
Lần này, Tuấn-em được mãn nguyện. Cậu học trò tinh nghịch và tò mò hạng nhất, đã biết đi xe máy, muốn trèo lên xe hơi, thì bây giờ đã có dịp được lần đầu tiên ngồi trên xe hơi... Dịp ấy, là cuối tháng năm 1924, sắp sửa nhập học niên khóa 1924-1925 tại Qui-nhơn. Trò Tuấn đã thi đỗ bằng "Ri-me" cuối niên khóa 1923-1924 ở Quảng - Ngãi.
Hãy xin nói trước về kỳ thi Tiểu học của Tuấn, thiếu niên nước Việt, năm 1924.
Tuấn thuộc hạng học giỏi nhất lớp. Kỳ thi cuối niên khóa trong lớp Tuấn đứng hạng thứ 2, và được phần thưởng danh dự, thế mà thi bằng "Ri-me" cậu lại đỗ hạng bét. Và đỗ được là nhờ thầy trợ-giáo đứng ngoài " thổi " dùm cho.
Bài Dictée ( chánh tả ), Tuấn còn nhớ vài đoạn đầu như sau đây:
Les Norias de Quảng-Ngãi,
Aucun spectacle de la province ne renseigne mieux sur l'esprit ingénieux du paysan d'Annam, et ne cause pareille surprise aux yeux curieux du voyageur,
Accouplées par demi douzaines, elles atteignent parfaites, ces norias géantes, une hauteur de dix mètres...
v.v...
Bài dài hơn nửa trang giấy thi, đầy n!!!2022_26.htm!!! Đã xem 151954 lần.


Nguồn: Mây bốn phương
Được bạn: Thất Sơn Anh Hùng đưa lên
vào ngày: 30 tháng 1 năm 2004