ôi đứng sau Rachel trong khu vực ăn uống của sân bay JFK, New York, nhìn kỹ xem nàng có dấu hiệu suy sụp tinh thần nào không. Nàng bận váy màu xanh da trời, một món trong số quần áo mới được mua ở New Jersey, nhưng trang phục không che giấu nổi nước da tái và đôi mắt trũng sâu. Việc bắn Geli Bauer khiến nàng cực kỳ hoảng loạn, và mặc dầu các bản tin cho biết “sĩ quan liên bang” bị bắn ở ga Liên Hiệp còn sống, Rachel vẫn run rẩy trong suốt quãng đường chạy xe đến New York. Tôi lẽ ra không nên để nàng tự mình rời khỏi Washington. Sau khi bỏ lại chiếc Toyota cách ga Liên Hiệp năm khối nhà, tôi chặn một taxi và bảo nó chở chúng tôi quay trở lại, qua sông Potomac đến Alexandria, Virginia, rồi tới một trung tâm mua bán cao cấp. Tại đó tôi gọi đến số lúc trước đã chỉ dẫn tôi đến gặp Mary Venable ở tiệm cà phê. Tôi nói với người phụ nữ nghe điện rằng bác sĩ Rachel Weiss hiện đang bị đe dọa tính mạng và rất cần được giúp đỡ. Bốn lăm phút sau, một người phụ nữ đi xe Camry xanh đến đón, đưa chúng tôi trở lại Washington, tới một khu nhà riêng ở phía Nam. Ngôi nhà này là nơi ẩn náu do một nhóm nữ quyền cai quản, chuyên cung cấp giấy tờ tùy thân cho những phụ nữ bị ngược đãi, chạy trốn cùng con nhỏ. Chúng tôi được đưa vào một phòng ngủ ở phía sau căn nhà an toàn, đợi một lúc thì Mary Venable đến. Bà ta hỏi Rachel rõ lâu - hình như bà không tin tôi - rồi bố trí một chiếc xe để hôm sau chúng tôi có thể tự lái đến New York. Bà bảo chúng tôi để xe ở chỗ đậu dài ngày trong sân bay JFK, rồi sẽ có một người “chị em” của họ ở New York đến lấy đi. Trong phòng ngủ có ti vi, và vụ chạm súng ở ga Liên Hiệp xuất hiện trên tất cả các bản tin. Việc tạm thời đóng cửa nhà ga cũng gây phản ứng ồn áo không kém vụ nổ súng. Những bản tin đầu suy luận rằng nhà ga có nguy cơ bị đánh bom nên buộc phải sơ tán mọi người khỏi ga, nhưng theo những bản tin mới, câu chuyện đã thay đổi. Các nguồn tin của cảnh sát thủ đô rò rỉ thông tin về một vụ mưu ám sát tổng thống đã bị theo dấu đến nhà ga. Tên tôi không được tiết lộ, nhưng phát thanh viên nói rằng người phụ nữ đã bắn cảnh sát ở nhà ga, lúc đầu được cho là con tin, nhưng bây giờ bị xem là đồng phạm của tôi. Chúng tôi chợp mắt một chút, đến sáng hôm sau, tên và ảnh tôi xuất hiện trên tờ Washington Post. Trong bài viết, một người phát ngôn của Sở Mật vụ đặc tả tôi như một bác sĩ theo chủ nghĩa lý tưởng đã trở nên cáu kỉnh sau nhiều năm quá đau buồn vì mất mát gia đình. Bị những hoang tưởng nghi kỵ thôi thúc, tôi đã đe dọa tính mạng tổng thống, và sự xuất hiện của tôi ở Washington với một khẩu súng chứng tỏ tôi nguy hiểm như thế nào. Đồng phạm nữ vẫn còn “chưa rõ danh tính,” nhưng nhiều nhân chứng đã thấy cô ta bắn gục cảnh sát liên bang. Điều làm tôi sợ nhất là bình luận kết thúc bài báo của McCaskell, chánh văn phòng phủ tổng thống, hiện đang ở Trung Quốc. “Bác sĩ Tennant thật sự đã có dịp gặp tổng thống tại Phòng Bầu dục,” McCaskell nói. “Tổng thống khâm phục cuốn sách của ông ta về Y đức. Tổng thống lấy làm tiếc vì vị bác sĩ nổi danh này có vẻ bị suy sụp tâm thần, và mong rằng bác sĩ Tennant sẽ được điều trị trước khi có thể xảy ra bi kịch nào đó.” Tôi lo Mary Venable có thể đọc bài báo này và báo cảnh sát bắt tôi, nhưng một giờ sau bà đem đến cho chúng tôi hai hộ chiếu mới, hai giấy phép lái xe của bang Virginia và chìa khóa của chiếc xe “đi mượn”. Bà đã đọc bài báo, nhưng lòng tin của bà vào Rachel mạnh hơn những bản tin trên truyền thông. Không chút chậm trễ, chúng tôi đã bon bon trên con đường I-95 hướng về New York. Khi biết tên và ảnh của mình đã phát tán khắp nơi trong nước, tôi càng quyết tâm rời khỏi nước Mỹ. Bọn NSA nghĩ tôi đang trù tính để gặp tổng thống tại Washington ngày mai, nên chẳng hề nghĩ tôi lại rời khỏi đất nước. Đi qua cửa khẩu sân bay JFK là mạo hiểm, nhưng còn an toàn hơn ở lại trong nước lúc này. Rachel hầu như không nói gì trong chặng đầu chạy xe, và những lời tôi nói dường như không lọt tai nàng. Khi đến New Jersey, nàng đã hoạt bát trở lại và đi vào khu mua bán với một danh sách dài kích cỡ quần áo cùng trang phục cho chuyến đi của chúng tôi. Ngoài ra, chúng tôi cũng chỉ dừng lại để đổ xăng, và tôi cũng không ra khỏi xe. Khi đến gần New York, Rachel gọi cho Adam Stern và kể cho anh câu chuyện tôi bịa ra để giải thích lý do anh chàng bác sĩ phải làm trung gian đặt phòng cho chúng tôi. Vì dịp lễ Phục sinh đông khách đi, Stern buộc phải đặt vé bay đêm của hãng El Al, điều này làm tôi lo lắng không ít. Tôi đội chiếc mũ Yankee đi vào sân bay JFK, thầm cầu nguyện “người đàn ông da trắng cao mét tám” như tôi không quá khác thường để mọi người chú ý. Tại quầy vé El Al, mọi việc diễn ra suôn sẻ không ngờ, nhưng tôi ngại nhất là chuyện ăn nói. Sợ nhất những cuộc phỏng vấn an ninh không chính thức. Theo Stern, có lúc trước khi lên máy bay EI AI, một số sĩ quan an ninh mặc thường phục bỗng dưng đến bắt chuyện với anh để đánh hơi về các ý định của anh. Sẽ không có cách nào thoát khỏi chuyện này nếu Rachel không đứng ra nói. “Món thịt gà xào súp lơ xanh kia trông ngon đấy chứ,” tôi nói, tay chỉ một quầy ăn Tàu. “Tuyệt,” Rachel đờ đẫn nói. Tôi nắm vai nàng. “Em không sao chứ?” Nàng không đáp. Tôi bước lên trước và gọi hai đĩa thịt gà xào súp lơ xanh. Khi tôi trả tiền, tôi nghe một giọng đàn ông nói sau lưng. “Xin chào. Chúng tôi xếp hàng cùng với ông bà ở quầy vé El Al. Các vị đi nghỉ trước lễ Phục sinh phải không ạ?” “À... không,” Rachel trả lời. Tôi liếc ra sau và thấy hai gã da đen tầm thước đứng sau chúng tôi. Bọn họ có đôi mắt láo liên và nụ cười cởi mở. Trông như hai anh em. “Vậy chắc là thăm gia đình?” gã thứ hai hỏi, trên cổ gã đeo dây chuyền vàng. “Không,” Rachel lúng túng nói. “Chúng tôi có chuyện riêng. Vấn đề sức khỏe ấy mà.” Những cái nhìn băn khoăn. “Ồ, xin lỗi đã tò mò.” Họ đang tìm kiếm bọn khủng bố, tôi tự nhủ, không phải tìm người mưu sát tổng thống. Tôi quay lại gật đầu với hai gã. Im lặng lúc này thật bất tiện, nhưng Rachel bỗng rướn thẳng người và linh hoạt hẳn lên. “Tôi nghĩ chẳng có gì phải giấu,” nàng nói. “Bác sĩ phụ sản của tôi giới thiệu tôi đến đó. Tôi vừa được chẩn đoán ung thư buồng trứng. Nhưng anh ấy có người bạn ở bệnh viện Hadassah, Jerusalem. Có một cuộc thử nghiệm lâm sàng để cấy tế bào T của chính bệnh nhân và đưa nó vào để diệt các khối u. Bác sĩ của tôi là một người bạn cũ. Anh ấy bố trí mọi thứ cho chuyến đi của chúng tôi, ơn trời. Máy bay, khách sạn, tất tật.” Nàng đặt tay lên tim. “Tôi xin lỗi đã nói nhiều quá. Tôi chỉ có một tia hy vọng, và tôi thấy dễ chịu khi nói về nó.” “Hoàn toàn đúng,” gã đàn ông đeo dây chuyền nói. “Và tôi tin bà sẽ khỏi bệnh. Bác sĩ ở Hadassah là những bác sĩ giỏi nhất thế giới.” “Cuộc thử nghiệm có vẻ đầy hứa hẹn,” tôi xen vào, không muốn tỏ ra lúng túng. “Nhà nghiên cứu hàng đầu đã từng được đào tạo ở Sloan-Kettering.” “Ông nói như thể chính ông cũng là bác sĩ,” gã thấp hơn nói, chút nghi hoặc trong tôi rằng bọn này là an ninh của El AI lúc này tan biến nốt. Bỗng nhiên tôi nghĩ về số tiền mặt 16.000 đô còn nằm trong túi bao tử giấu trong quần áo. “Thưa ông, món ăn đây ạ,” một nhân viên chạy bàn người Hoa ngắt lời. “Cám ơn,” tôi nói, liếc về phía đĩa thức ăn. “Vâng, tôi là bác sĩ nội khoa.” “Ông có biết về chứng viêm khớp không?” gã thấp bé hỏi. “Họ bảo tôi bị bênh viêm khớp vảy nến. Ông có biết bệnh này không?” Có trả lời hắn không? tôi thầm nghĩ. Cư xử một cách kiêu kỳ? “Phải, có năm loại. Một số loại tương đối nhẹ, có loại gây biến dạng.” “Loại nào tệ nhất?” “Loại viêm khớp biến dạng.” Gã kia sung sướng cười toác miệng. “Không phải của tôi. Tôi chỉ bị ở gần các đốt ngón tay.” “Có khả năng là viêm khớp liên đốt ngón tay.” Tôi cầm tay gã lên xem xét móng tay, thấy có những vết lõm khá rõ. “Có thể là nặng hơn nhiều.” Gã rút tay về. “Được rồi, được rồi. Ừm, chúc ông ngon miệng.” “Chúc ông bà gặp may ở Hadassah,” gã đeo dây chuyền nói. “Ông bà đã đến đúng nơi để điều trị đấy.” Tôi đặt cả hai đĩa lên khay và bưng sang một chiếc bàn trống. Rachel theo sau tôi,gồi trên mép giường sấy tóc. “Tôi đang nghĩ,” tôi nói. “Nếu cô không thấy phiền thì chúng ta nên đóng vai vợ chồng đi du lịch.” Cô quay lại nhìn tôi. “Anh thấy tôi có vẻ phiền về chuyện đó à?” “Tốt. Chúng ta sẽ nhờ anh bạn kia đặt phòng dưới tên đã kết hôn. Chúng ta có nên lấy tên Do Thái không?” “Không. Anh không lừa người Do Thái nổi năm giây đâu. Tôi sẽ là một cô gái Do Thái hiền ngoan sa cơ lỡ vận và phải lấy một người ngoài Do Thái. Tôi sẽ đứng ra nói khi cần.” Cô nhặt chiếc sơ mi trên ga giường lên và quay trở vào buồng tắm. Tôi nghe tiếng khăn ướt rơi xuống sàn; rồi cô trở ra, chỉ mặc độc chiếc sơ mi, đuôi áo lơ lửng ngang đùi, nhưng bên dưới chẳng mặc gì cả, và chẳng còn gì nhiều để mà tưởng tượng. “Tôi phải đi nằm đây,” cô nói. “Khi nào định đi thì anh đánh thức tôi dậy.” Tôi nhìn đồng hồ. 5:45 chiều. Để cô ngủ có lẽ là sai lầm, nhưng còn tốt hơn ngồi đợi trời tối. Tôi cũng không nghĩ mình có thể thức. Hai ngày rồi tôi chưa được ngủ cho ra ngủ, bắp thịt thì đau nhức, điều mà hàng năm nay tôi chưa bao giờ cảm thấy. Rachel kéo chăn ra chui vào bên dưới, cô nằm sấp, mặt quay về phía tôi. Đôi mắt sẫm màu của cô mờ đi vì mệt mỏi, nhưng đôi môi cô thoáng mỉm cười. “Tôi hầu như không nghĩ gì được,” cô nói. “Còn anh?” “Tôi chỉ đơn giản là đang ở đây.” “Anh có biết tại sao tôi thực sự ở đây không?” “Bởi vì cô sợ chết.” “Không phải. Bởi vì tôi sợ không sống thật sự hơn là sợ chết. Anh hiểu không?” “Có đôi chút.” Cô trườn sâu vào dưới tấm chăn. “Anh không hiểu đâu. Con tôi đã chết. Cuộc hôn nhân của tôi tan vỡ. Tôi còn gì nữa để mất?” Rachel luôn làm tôi ngạc nhiên, nhưng lần này có lẽ cô nói sảng. “Tôi tin chắc các bệnh nhân của cô...” “Nếu ngày mai tôi chết, các bệnh nhân của tôi sẽ có một bác sĩ tâm thần khác. Tôi ngồi trong căn phòng ấy ngày này qua ngày khác, lắng nghe những người trầm cảm, sợ hãi, giận dữ, hoang tưởng. Tôi lắng nghe những cuộc đời khác và cố gắng tìm ra ý nghĩa cho chúng. Sau đó tôi về nhà và viết báo về họ.” Cô mỉm cười lạ lùng. “Nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay một người đàn ông mà tôi chẩn đoán là hoang tưởng đã lôi kéo tôi vào những hoang tưởng của anh ta. Tôi là Alice ở xứ sở trong gương. Người ta tìm cách giết tôi nhưng tôi vẫn sống. Và bây giờ tôi sắp sửa bay qua Israel vì một ảo giác. Bởi một người tôi thực sự tôn trọng bỗng nhiên quyết định anh ta là Jesus.” “Cô cần ngủ rồi đấy.” Cô lắc đầu, không rời mắt khỏi mặt tôi. “Giấc ngủ không làm thay đổi cách tôi cảm nhận về điều này.” Lúc này tôi không rõ lắm cô định nói về điều gì. Tôi trượt khỏi tấm ván đầu giường, kê đầu lên khuỷu tay và nhìn qua khoảng cách giữa hai chiếc giường. Đôi vai cô sẫm màu trên nền vải trắng, những lọn tóc ẩm ướt xõa xuống mắt. “Thật ra cô đang nói về điều gì?” tôi hỏi. Ánh mắt cô xuyên thấu mắt tôi theo cái cách mà tôi đã thấy đôi lần ở phòng khám của cô, như thể những bức tường dày mà tôi đã dựng lên từ sau cái chết của vợ con tôi không là gì đối với cô. Rồi, hoàn toàn chủ ý, cô mỉm cười. “Tôi không biết. Sao anh không đi tắm đi?” Ánh nhìn của cô nói rõ ý hơn là đôi môi. Tôi đứng dậy bước vào buồng tắm, vừa đi vừa trút bỏ quần áo bẩn khỏi người. Sau hai ngày đêm chạy thoát mạng, lúc này nước nóng nghi ngút đối với tôi còn bổ hơn là thức ăn. Tay và cổ tôi bị cây thạch nam cào xước cả, nhưng dưới tia nước các bắp thịt bắt đầu thư giãn. Khi tôi gội đầu bằng chai dầu gội nhỏ của khách sạn, tôi nghĩ đến mớ tóc đen của Rachel xổ tung trên gối, và tôi vội xả nhanh cho xong. Cô chắc cũng mệt bã như tôi và khó mà cưỡng nổi cơn buồn ngủ. Tôi lau khô người trong buồng tắm rồi quấn khăn quanh bụng, bước ra khoảng trống giữa hai chiếc giường. Rachel vẫn nằm sấp, nhưng lúc này đã nhắm nghiền mắt, hơi thở đều và sâu. Tôi nhìn cô, ước gì cô cố thức, nhưng tôi không trách cô. Trong hai ngày qua cô đã thấy quá nhiều chuyện, và đã chạy quá xa. Tôi tháo khăn ra, ngồi lên mép gường và bắt đầu sấy tóc. Một lát sau, tôi chỉ muốn gieo mình xuống giường ngủ một giấc thật đã, đến khi nào không ngủ thêm được nữa mới thôi. Một cánh tay sẫm màu thon thả quờ qua khoảng hẹp giữa hai chiếc gường. Bàn tay Rachel chạm đầu gối tôi, rồi mở ra và nắm lại trong không khí như thể nắm bắt vật gì. Khi tôi đặt tay vào tay cô, cô kéo tôi qua giường bằng một sức mạnh đáng ngạc nhiên. Tôi trườn sang nằm cạnh cô, nhìn sâu vào mắt cô, đôi mắt đang mở to như hai hồ nước đen thẫm. “Anh tưởng em ngủ à?” cô hỏi. “Em ngủ rồi mà.” “Vậy em đang mơ sao?” Tôi mỉm cười. “Có lẽ là ảo giác đấy.” “Thế thì em có thể làm mọi thứ em muốn.” “Đúng thế.” Cô nhỏm đầu lên hôn tôi. Đôi môi cô căng và đỏ mọng, miệng cô hé ra khao khát khiến tôi hiểu cô đã muốn từ lâu rồi. Tôi mở cúc áo cô và kéo cô lại phía mình. Cô khúc khích cười khi những lọn tóc ẩm ướt quệt ngang mặt tôi. “Trong những lần khám, anh có khi nào nghĩ đến chuyện này không?” cô hỏi. “Không bao giờ.” “Nói dối.” “Có lẽ một hai lần.” Cô lại hôn tôi lần nữa, và cái cách cô mơn trớn thân thể tôi bằng chính thân thể cô cho tôi thấy ở đây không hề có sự lóng ngóng vụng về của những kẻ mới yêu lần đầu. Cách cô đụng chạm cũng đầy hiểu biết và tin cậy như cái nhìn của cô, và khi cô dồn hết chú ý vào tôi, tôi nhớ rằng không có gì rung cảm hơn một người phụ nữ vốn nhiều lời mà lúc này quyết định không nói năng gì. Tôi hoảng sợ giật mình thức giấc, đoan chắc chúng tôi đã hoãn gọi điện quá lâu. Ánh sáng từ ti vi hắt ra chiếu sáng căn phòng. Đồng hồ đầu giường chỉ 11:30. Rachel nằm ngửa bên tôi, một tay nàng vắt ngang trán, tay kia đặt dọc người tôi. Bây giờ đối với tôi nàng đã là một người đàn bà khác. Sau ba tháng giữ khoảng cách nghề nghiệp, nàng đã trao mình trọn vẹn cho tôi. Ký ức của tôi về những việc chúng tôi đã làm trước khi chìm vào giấc ngủ giống ảo giác hơn bất kỳ hình ảnh nào tôi đã thấy trong thời gian mắc chứng ngủ rũ. Thế mà nó lại là thật. Rachel cần ngủ, nhưng tôi buộc phải đánh thức nàng dậy. Tôi ngồi dậy vớ chai Dasani uống một hơi dài, xong nhẹ nhàng lay cánh tay nàng. Tôi sợ nàng hốt hoảng thức giấc như lúc trên xe tải, nhưng lần này nàng chậm rãi cử động, rồi nhoài người ra nắm chặt lấy cổ tay tôi. “Này,” tôi nói. “Em cảm thấy thế nào?” Nàng mở to mắt nhưng không trả lời. Thay vào đó, nàng hít một hơi thật sâu rồi ngồi dậy ôm tôi. Tôi ôm lại nàng, ước gì chuyện này xảy ra sớm hơn, ở một nơi nào khác. “Ta phải cố gọi cho bạn em lần nữa,” tôi nói. “Em không thể gọi ở đây sao?” “Không em ạ. Nếu em quen thân với người đó ở trường y, NSA có thể đã biết. Và nếu chúng nghe trộm đường dây của anh ấy thì chúng có thể lần ra ta ngay tức khắc. Nếu ta gặp được anh ấy, anh sẽ canh chừng bên ngoài bốt điện thoại và đợi xem có ai xuất hiện không. Thế ta mới biết đường dây của anh ấy có an toàn không.” “OK.” Nàng ngả người ra hôn nhẹ lên môi tôi. “Chúng ta hãy làm cho xong chuyện này đi.” Cách nhà nghỉ chừng chục cây về phía Tây, tôi thấy một bốt điện thoại bên ngoài trạm xăng trên đường Columbia Pike, trông có vẻ khá kín đáo. Tôi đậu xe sao cho có thể quan sát đường sá trong lúc Rachel gọi điện. Nàng đi thẳng đến bốt, cầm chiếc thẻ điện thoại chúng tôi mua ở cửa hàng Quik Stop gần nhà nghỉ. Vài phút sau, nàng mỉm cười giơ ngón tay cái lên làm hiệu và bắt đầu nói. Câu chuyện kéo dài khá lâu, nhưng tôi biết chắc mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, vì tôi thấy nàng cầm giấy của nhà nghỉ đọc tên giả của chúng tôi. Ông bà John David Stephens. “Tên thời con gái” của Rachel là Horowitz, còn trong hộ chiếu là Hannah Horowitz Stephens. Trong lúc nàng nói, tôi thầm nghĩ tay bác sĩ này hẳn đã yêu nàng sâu sắc lắm đến nỗi mười lăm năm vẫn chịu làm việc này cho nàng. Nàng treo ống nghe rồi bước về xe tải. “Tốt chứ?” tôi hỏi. Nàng đóng cửa xe. “Không có vấn đề gì. Anh ấy sẽ đặt trước mọi thứ. Máy bay, khách sạn, thậm chí cả mấy chuyến đi tham quan thành phố.” “Đi từ New York chứ?” Chún, thì chúng ta có nghĩa vụ tinh thần phải sống còn. Để giữ gìn lấy món quà ý thức. Và để làm được thế, ta phải sống trong hòa bình. Từ đó có thể rút ra bao điều về những bộ luật khả thi, đạo đức, và mọi thứ.” Rachel ngẫm nghĩ. “Anh có đồng ý với cha anh về quan điểm vũ trụ này không?” “Anh đồng ý cho đến mấy tuần gần đây. Những ảo ảnh của anh không còn hoàn toàn phù hợp với nó nữa.” Nàng đặt tay lên đầu gối tôi. “Chúng ta không biết chúng trùng hợp với cái gì, đúng không? Em cũng không nghĩ rằng quan điểm của cha anh loại trừ sự tồn tại của một đấng sáng thế. Anh vẫn còn lo mình sẽ chết nếu không đến được Jerusalem trước khi anh mơ thấy cảnh đóng đinh trên thánh giá à?” Mối hiểm nguy trước mắt là bị cảnh sát bắt đã làm tôi xao nhãng nỗi lo này. “Anh vẫn còn cảm thấy nguy cấp, nhưng không giống như trước. Việc chúng ta đang trên đường đến đó khiến áp lực ấy dịu đi đôi chút.” “Nếu anh đã mơ thấy cảnh đóng đinh trên thánh giá thì anh không nên lo lắng về điều đó. Một giấc mơ không thể giết được ai.” Tôi thì không chắc lắm. “Chúng ta nói về em một chút nhé. Em nói em tin Chúa. Chính xác là em tin cái gì?” “Em không thấy điều đó có liên can gì đến việc chúng ta đang làm.” “Anh nghĩ cả hai chúng ta lên máy bay này vì cùng một lý do. Và anh nghĩ việc em tin cái gì có ý nghĩa quan trọng đấy.” Mặt nàng buồn khôn tả. “Em đến với Chúa khá muộn. Hồi nhỏ em không bao giờ đi nhà thờ hay đến Giáo đường Do Thái.” “Sao lại không?” “Cha em quay lưng lại với Chúa khi ông mới bảy tuổi.” “Sao còn nhỏ thế mà đã...?” “Cha em bước sang tuổi thứ bảy trong một trại tập trung.” Có gì trong tôi bỗng lạnh buốt. Cái nhìn của nàng trở nên mơ màng như đang hướng về quá khứ. “Cha em tận mắt chứng kiến ông nội em bị giết. Đấy không phải chuyện bình thường, dù cho ở trại tập trung. Lúc ấy quân Đồng minh đang đến gần, bọn cảnh vệ Đức Quốc xã liền thủ tiêu tù nhân. Một thằng lính gác nghĩ ra một trò chơi với tiểu đội chuyên làm việc vặt của hắn. Hắn giết mỗi ngày một người. Hắn muốn để cho những người tù đói khát giết lẫn nhau và ai chịu giết sẽ được tha. Tất nhiên ông nội em từ chối. Ông vốn là nhà giải phẫu ở Berlin. Ông đã từng gặp Freud, đã trao đổi thư từ với Jung.” Trí óc tôi quay cuồng khi lý do lựa chọn sự nghiệp của Rachel hiện rõ. “Thằng lính gác đánh ông em đến chết trước mắt cậu bé là cha em. Từ đó cha em quyết định rằng một vị Chúa đã để cho cảnh ấy xảy ra đáng bị nguyền rủa chứ không đáng được cầu nguyện.” Tôi muốn nói gì đó, nhưng lời nói lúc này phỏng có nghĩa gì? “Cha em là một trong những người may mắn được nhập cư vào Mỹ. Ông được một người bà con xa ở Brooklyn bảo lãnh.” Rachel cười buồn. “Ông Milton, chú của cha em là thợ khóa. Việc cha em không chịu cầu nguyện khiến ông nổi giận, nhưng ông biết cha đã chịu đựng quá nhiều. Khi đến tuổi thành niên, cha em đổi tên thành White, chuyển đến Queens, và thôi gặp gỡ gia đình, dù vẫn gửi tiền cho họ. Ông kết hôn với một người ngoài Do Thái không theo đạo, và cha mẹ em nuôi dạy em trong một ngôi nhà không có ai theo đạo.” Tôi kinh ngạc ngồi nghe. Ta gặp một khuôn mặt trên đường phố Mỹ, hay trong công sở, mà chẳng hề ngờ có một thiên sử thi bi thảm ẩn nấp đằng sau nó. “Vì thế em luôn cảm thấy như người ngoài cuộc. Tất cả các bạn em đều đi nhà thờ, hoặc đến giáo đường Do Thái. Em thấy tò mò. Khi em mười bảy tuổi, em tìm ra ông Milton. Ông ấy nói cho em biết mọi chuyện. Sau đó... em gia nhập đạo.” Nhiều bí mật nho nhỏ về tính cách của Rachel bỗng trở nên có nghĩa: việc nàng ăn mặc khắc khổ, giữ khoảng cách trong công việc, việc nàng ghê tởm bạo lực... “Vấn đề là,” nàng tiếp tục, “em nghĩ em trở thành tín đồ Do Thái giáo bởi những nhận biết về cảm xúc và chính trị chứ không phải vì khao khát thực hiện ý muốn của Chúa.” “Thế không có gì là sai.” “Tất nhiên là có đấy. Nếu anh hỏi em thật sự suy nghĩ gì về Chúa, thì không có gì liên quan đến Torah hay Talmud_(1). Nó chỉ liên quan đến những gì em nhìn thấy trong cuộc đời mình.” “Em thật sự đã nghĩ gì?” Nàng đan tay lại trên đùi. “Em tin rằng sáng tạo có nghĩa là tạo ra những gì trước đấy chưa từng có. Nếu Chúa là hoàn hảo, thì cách duy nhất Người có thể thật sự sáng tạo là tạo ra một cái gì đó tách rời khỏi Người. Vậy theo định nghĩa thì cái mà Người sáng tạo ra phải không hoàn thiện. Anh thấy không? Nếu nó hoàn hảo, nó sẽ là Chúa.” “Đúng.” “Em tin rằng đối với con người, để khác với Chúa, chúng ta phải có khả năng lựa chọn. Tự do ý chí, đúng không? Và nếu những lựa chọn xấu không dẫn đến nỗi đau thật sự thì ý chí tự do không có ý nghĩa gì hết. Đó là lý do vì sao cái ác tồn tại trong thế giới của chúng ta. Em không biết tôn giáo còn bổ sung thêm gì nữa, nhưng dù là gì, thì đó vẫn là điều em tin.” “Đó là cách giải thích phù hợp cho cái thế giới như ta nhìn thấy. Nhưng nó chưa nói gì về bí mật trung tâm. Tại sao Chúa lại cảm thấy bắt buộc phải tạo ra một cái gì đó?” “Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được.” “Chúng ta có thể. Mặt trời sẽ nổ tung trong khoảng năm tỷ năm nữa. Ngay cả trong trường hợp vũ trụ sụp đổ từ bên trong - Big Scrunch - thì sự kiện sớm nhất có thể xảy ra cũng là hai mươi tỷ năm sau. Nếu chúng ta không tự hủy hoại mình, thì chúng ta còn khối thời giờ để trả lời câu hỏi đó. Có thể là mọi câu hỏi.” Nàng mỉm cười. “Anh và em sẽ không bao giờ biết được.” Nhìn sâu vào đôi mắt màu sẫm của nàng, tôi nhận ra mình đã hiểu nàng quá ít. “Em không hề cổ hủ như em ra vẻ. Anh ước gì em có dịp nói chuyện với Fielding.” “Ông ấy tin tưởng gì vào Chúa?” “Fielding luôn trăn trở với vấn đề cái ác. Ông ấy được nuôi dạy như một tín đồ Cơ Đốc, nhưng ông bảo cả Cơ Đốc giáo lẫn Do Thái giáo đều không bao giờ đối đầu trực diện với cái ác.” “Ông ấy muốn nói gì?” “Ông ấy nêu lên ba lời tuyên bố: ‘Chúa là toàn năng. Chúa là toàn thiện. Cái ác vẫn tồn tại.’ Người ta có thể liên kết một cách logic hai trong ba tuyên bố trên, nhưng không bao giờ là cả ba.” Rachel gật đầu vẻ suy tư. “Fielding nghĩ rằng chỉ các tôn giáo phương Đông mới đúng là Nhất thần giáo, vì chúng thừa nhận rằng cái ác từ Thượng đế mà ra, chứ không đổ tội cho kẻ yếu thế hơn như Satan chẳng hạn.” “Còn anh? Anh cho rằng cái ác từ đâu mà ra?” “Từ tim con người.” “Tim bơm máu, David ạ.” “Em hiểu anh muốn nói gì mà. Tâm lý. Một cái giếng tăm tối nơi bản năng nguyên thủy hòa trộn với trí thông minh con người. Nơi người ta thấy con người có thể hung bạo đến mức thật khó tưởng tượng ra những mưu ma chước quỷ đằng sau nó. Anh muốn nói, hãy nhìn vào những gì đã xảy ra với ông em đi.” Rachel siết chặt cánh tay tôi và nhìn tôi với vẻ khẩn khoản gần như khôn cùng. “Vào cái ngày ông em bị giết, có một khoảnh khắc ông em đã có thể giết thằng lính gác đó. Lúc ấy chỉ có ba tù nhân với một tên lính gác ở mỏ đá vắng vẻ. Chỉ còn một ngày nữa thôi là người Mỹ tới. Nhưng ông đã không làm điều đó.” “Tại sao không?” tôi hỏi, sững sờ vì cảm xúc mãnh liệt của nàng. “Em nghĩ ông biết một điều mà chúng ta đã quên.” “Điều gì?” “Rằng nếu anh cầm lấy vũ khí của kẻ thù, anh sẽ trở nên giống chúng. Jesus biết điều đó. Gandhi cũng vậy.” “Ngay cả khi con trai anh đứng đó bên cạnh anh? Cần anh che chở? Anh vẫn phải nhẫn nhịn, và chịu hy sinh ư?” “Anh không phạm tội giết người,” Rachel kiên quyết nói. “Nếu ông em giết thằng lính gác đó thì đêm ấy ông và cha em đã có thể bị hành hình rồi. Chúng ta không thể biết được tương lai. Đó là lý do khiến việc em làm hôm qua khiến em sốc đến thế. Em đã nhặt khẩu súng của anh và bắn vào đồng loại. Thật sự em đã làm gì khi hành động như thế?” “Em đã cứu mạng anh. Cả mạng em nữa.” “Trong một thời gian.” Tôi siết chặt tay nàng. “Chúng ta còn sống đây, Rachel. Và anh tin mình có việc hệ trọng phải làm trước khi chết.” “Em biết anh tin điều đó.” Một anh chàng tiếp viên hàng không bỗng xuất hiện ngay bên chúng tôi trên lối đi giữa. Tôi không muốn ngước nhìn lên, nên ra hiệu cho Rachel quay lại. Ở chiếc bàn gần cuối phòng, tôi thấy một phụ nữ tóc đỏ chừng năm mươi tuổi, không trang điểm, miệng mím chặt. Bà ta nhìn chăm chăm xuống bàn như sợ bị người lạ bắt chuyện. Tôi định cược một trăm đô rằng đó là người chúng tôi cần gặp thì Rachel kéo tay tôi chỉ một phụ nữ Mỹ gốc Phi khoảng bốn chục tuổi đang đứng gần giá đựng bánh và đọc cuốn The Second Sex. Rachel rời khỏi hàng đến gần bà ta. “Đã nhiều năm nay tôi không nhìn thấy quyển sách này!” Rachel nói. “Từ thời còn học đại học cơ. Không biết bây giờ nó còn hợp thời không?” Người đàn bà nhìn lên và mỉm cười, mắt bà ta ngời sáng thân thiện. “Cũng hơi lỗi thời đấy, nhưng có giá trị về góc độ lịch sử.” Bà ta chìa bàn tay nâu đeo đầy nhẫn ra. “Tôi là Mary Venable.” “Hannah Stephen,” Rachel nói. “Hân hạnh được gặp bà.” Tôi ngạc nhiên vì thấy cô nhập vai ngọt đến vậy. Có lẽ bác sĩ tâm thần là những người vốn có tài nói dối. Khi tôi bước tới, tôi thấy Venable nói khẽ, “Rất vinh dự được gặp cô, bác sĩ. Cô đã giúp chúng tôi nhiều lắm.” “Cám ơn,” Rachel đáp. Rồi cô nói lớn giọng hơn nhiều. “Tôi không thể hiểu tại sao Simone lại chịu làm người tình của Sartre. Trông ông ta như con nhái bén(2). Không phải nói theo kiểu bôi nhọ người Pháp đâu. Mà là nhái bén thật ấy!” Mary Venable cười tự nhiên đến mức tôi hầu như không nhìn thấy bà ta lấy cái túi Kinko từ tay Rachel và ném vào trong chiếc giỏ đan châu Phi lớn dưới chân. “Nếu đêm nay tôi đọc xong,” Venable nói, “mai tôi sẽ cho cô mượn. Tôi sẽ ở đây vào giờ này.” “Hẹn gặp lại bà sáng mai,” Rachel nói. Mary Venable ghé sát nàng, nói nhỏ, “Bảo anh bạn cô giấu hàng kỹ hơn một chút.” Trong khi Rachel còn đang ngẩn ngơ, Mary Venable âu yếm siết chặt tay nàng, rồi cầm túi lên và bước đi. Qua chỗ tôi, bà ta chỉ chạm mắt tôi trong một thoáng, nhưng tôi đã đọc được thật to và rõ ràng lời nhắn nhủ trong mắt bà: “Hãy chăm sóc cô bạn của anh cho tốt, chàng trai ạ.” Tôi bước đến bên Rachel, cô nhìn tôi với ánh mắt kỳ quặc. “Hình như bà ấy có nhắc gì đến giải phẫu phải không?” “Anh sẽ nói với em sau.” Tôi nắm cánh tay Rachel dắt nàng ra khỏi cửa hàng. “Em không biết là có trung tâm mua sắm ở đây,” nàng nói. “Chúng ta đi mua mấy bộ quần áo được không?” “Ở đây không được đâu. Anh thật sự vẫn chưa thấy nơi chúng ta cần đến. Chúng ta cần một khu bách hóa tổng hợp có bán đủ mọi thứ ấy.” “Hay là lên tầng trên?” “Không phải ở đây,” tôi vẫn khăng khăng. Khi tôi dắt nàng ra đến cửa chính, một tay cảnh sát thành phố bước ngang qua chúng tôi. Tim tôi nhảy loạn. Tôi chắc hắn đã sững người nhìn tôi đúng vào lúc chúng tôi đi ngang qua. Tôi định quay đầu lại kiểm tra, nhưng không dám. “Có chuyện gì vậy?” Rachel hỏi khi thấy vẻ căng thẳng của tôi. “Anh nghĩ chúng đang lùng sục ta ở đây.” “Tất nhiên rồi.” “Anh muốn nói chúng lùng công khai ấy. Anh nghĩ thằng cớm vừa rồi đã nhận ra anh.” Nàng định quay lại nhìn, nhưng tôi lắc đầu khá mạnh để ngăn nàng lại. “Anh cho rằng không chỉ có NSA?” nàng hỏi. “Anh e là không. Đi sát vào anh và chuẩn bị chạy thôi.” Chúng tôi đi qua một cái cây trong bồn cây cảnh lớn ở giữa tầng. Tôi kéo Rachel ra sau cây và quay lại nhìn từ chỗ núp. Gã cảnh sát bám đuôi chúng tôi và đang nghển cổ nhìn dáo dác quanh bồn cây. Hắn còn nói vào micro trên ve áo. “Chúng ta bị phát hiện rồi,” tôi nói. “Đi thôi!” Chú Thích: 1. Sân bay Quốc tế Kennedy. 2.Nguyên văn: Frog, vừa có nghĩa là ếch nhái, vừa có nghĩa là cách nói lăng mạ chỉ người Pháp.