Tôi đến Nam Vang giữa một buổi chiều mà đường Quai Piquet đang rộn rịp những hàng quán với những thức ăn, vừa bày ra để đón khách chơi đêm. Ở những xứ nóng, ban ngày người ta chúi trong nhà để tránh nắng. Cứ tối đến trời mát người ta mới ra đường. Sự sinh hoạt ở đây nhịp theo thời tiết. Ông Thái-Seng-Long gặp tôi là nắm chặt lấy tay: Tôi biết lòng quý hữu mà. Tôi tin như ban ngày, thế nào quý hữu cũng không bỏ tôi trong những trường hợp mà người ta phải cần đến sự hy sinh một người bạn. Đại huynh có bỏ tiểu đệ trong những phút gian nan đâu. Một khi người ta đã cùng nhau sống những phút như chúng ta đã sống thì công việc nhà của đại huynh cũng như công việc nhà của đệ. Cái chỗ mà đại huynh gọi là hy sinh nó chỉ là một bổn phận. Sau một chầu nước trà, cánh cửa buồng khẽ mở. Bà Thái-Seng-Long và bốn người con quần áo tề chỉnh ra chào tôi. Tôi đến cái nhà này đã nhiều lần có khi tôi ăn ngủ ở đây hàng tuần, nhưng không bao giờ có sự giới thiệu trịnh trọng như thế cả. Trước kia, tôi chỉ là một người bạn buôn, từ bây giờ trở đi, tôi là một người anh em ruột thịt trong gia đình này. Đại huynh cho đệ được hưởng nhiều vinh dự quá. Cái vinh dự ấy, trái lại, là để cho gia đình chúng tôi, khi người ta có cái may mắn được làm anh em với một người tài ba và gan dạ như quý hữu… Tôi thành thật ngắt lời: Tài ba thì có lẽ đệ không có. Nhưng lòng dạ… đệ không bao giờ dám phụ những người đã thương mình. Chứng cớ là quý hữu đến đây. Tôi biết chắc rằng quý hữu thế nào cũng về đây, cho nên đáng lẽ lễ cưới của gia đệ cử hành từ ngày hôm qua, nhưng tôi nhất định phải chờ quý hữu về. Chỉ có quý hữu mới xứng đáng làm chủ tịch bữa tiệc long trọng ấy. Cái hưng vận của gia đình tôi có lẽ bắt đầu từ ngày hôm nay. Tôi biết ông Thái-Seng-Long chỉ có một người em trai là ông Nam Hưng mà ông Nam Hưng thì đã có một vợ và hai con, tôi kinh ngạc về sự long trọng mà ông Thái-Seng-Long nói với tôi: Thế ông Nam Hưng cưới vợ lẽ à? Không, nếu cưới vợ lẽ thì đâu dám mời quý hữu. Thế người vợ vẫn ở với ông Nam Hưng là thế nào. Là vợ lẽ. Gia đệ sang đây với tôi lúc còn bé. Khi lớn lên chưa có chỗ xứng đáng, nên lấy tạm một người để nó hầu hạ và trông coi công việc trong nhà. Đến bây giờ, có cơ hội. Gia đệ mới về bên Tàu cưới vợ cả, và tiện thể, cưới vợ hộ cho mấy thằng cháu và mấy người làm đem theo sang. Cưới vợ hộ? Lại đã có vợ, có hai con rồi, bây giờ lấy vợ, lại gọi là lấy vợ cả. Những điều kỳ lạ ấy người phương Tây gọi là “Tàu đặc” (le Chinoiseries) nhưng nếu xét cho kỹ, và bỏ qua những quan điểm lý tưởng thì ta thấy nó thật hợp lý và trả lời đúng với nhu cầu của sự sống. Tất cả những lý do mà người ta cho là “Tàu đặc” ấy, rút lại ở trong hai chữ “tiện lợi”, người Trung Hoa rất tháo vát, rất thực hành nên giải quyết vấn đề sinh hoạt một cách “không mơ mộng”. Được việc, miễn sao cho được việc. Cái tục có thể lấy vợ lẽ trước, rồi lấy vợ cả sau ở xứ Mường thường xảy ra luôn, nhưng chỉ xảy ra ở nhà Lang, mà một chế độ phong kiến đã khiến họ thành những người vĩnh viễn được phép cai trị dân và hưởng những quyền lợi đặc biệt ấy. Một ông Lang yêu ai, thích ai cứ lấy làm vợ, nhưng những người ấy chỉ là vợ lẽ. Người vợ cả phải là do dân cưới cho. Người Trung Hoa vốn tôn trọng gia đình, cho nên sự lấy người vợ cả là một vấn đề quan trọng đến lễ giáo, đến sự thờ cúng tổ tiên, người vợ cả phải là người xứng đáng. Trong khi người xứng đáng ấy chưa tìm thấy, người ta có thể tìm một, hay hai, hay ba người đàn bà làm vợ, nhưng chỉ là vợ lẽ thôi. Người vợ cưới xin cẩn thận, có gia tộc chứng giám mới là vợ cả. Nước Trung Hoa năm 1926 là một nước Trung Hoa khác bây giờ. Thời ấy là thời của các ông quân phiệt, của thổ phỉ. Mỗi ông quân phiệt hùng cứ một nơi, mỗi đám thổ phỉ quấy nhiễu một vùng. Những ngoại kiều ra kiếm ăn ở các nước ngoài, vì muốn cho tiện lợi đã giản dị hóa hôn nhân một cách đặc biệt. Hơn nữa sự mua người bán người chưa bị pháp luật ngăn cấm. Mà sự nghèo đói làm cho các thứ buôn bán ấy rất thịnh hành. Một người Trung Hoa ở Cao Mên muốn lấy một người vợ, chẳng cần phải về nước. Họ nhờ anh em lấy hộ đem sang. Hay không có anh em để nhờ thì đã có bọn “sủi hạp” là hộ việc đó. Bọn “sủi hạp” là một thứ mại bản cho từng địa phương, họ đi về giúp mọi công việc để lấy tiền hoa hồng. Họ đưa thư từ, thông tin tức mua bán hàng hóa, mua bán người để lấy tiền lãi phần trăm. Họ là những người biết rõ gốc tích, quê quán những ngoại kiều từng vùng, và họ hàng của những ngoại kiều ấy. Có những sủi hạp đi về giúp công việc mua bán cho những ngoại kiều gốc tích ở huyện Sheunping tỉnh Quảng Đông, có những sủi hạp cho những ngoại kiều gốc tích ở Cẩu Mún hay Nam Hải hay Phúc Kiến. Những sủi hạp ấy kiếm ăn từng vùng mà họ quen biết người và vật. Mà sở dĩ họ kiếm ăn được là về sự quen biết ấy. Một ngoại kiều ở Cao Mên muốn lấy vợ thì rất giản dị, họ không cần về Tàu, chỉ việc đưa tiền cho một sủi hạp về lấy cho. Vấn đề đẹp xấu là theo số tiền. Tiền nhiều là trẻ đẹp, ít tiền thì vừa vừa. Vì thế cho nên nhiều khi những ông già mà có thể lấy được vợ rất trẻ đẹp. Ngoài sự mua đàn bà làm vợ, người ta cũng lại có thể mau làm đầy tớ nữa. Những đầy tớ cũng như những nô lệ. Khi người ta không cần đến nữa người ta lại có thể bán cho người khác. Mà vợ lẽ cũng thế. Những ngoại kiều ít tiền lấy vợ bằng cách nhờ những “sủi hạp” đưa sang cho, những người giàu thì về Trung Hoa lấy, lấy và cưới xin tử tế. Ông Nam Hưng, em trai ông Thái-Seng-Long là một chủ hiệu lớn. Ông về Trung Hoa cưới vợ cho ông, và cưới luôn hộ vợ cho hai thằng cháu và hai người làm là thế. Vì sự ông về, cho nên nhà họ Lý mà ông Thái-Seng-Long là rể, mới bàn định đến sự đem hài cốt cụ Lý-Báng Sheung về chốn ở quê nhà. Cũng vì thế cho nên ông Thái-Seng-Long mới cho em vợ ông, mà cũng là con trai cả cụ Lý-Báng Sheung là Ả Cheung lên nhờ tôi giúp hộ việc đó. Sau bữa tiệc cưới mà người ta bắt buộc tôi làm chủ tọa, thì lẽ cố nhiên là người ta mời tôi đánh mã chược. Tôi chưa từng đánh một canh mã chược nào đỏ như thế, mà ông Thái-Seng-Long cũng nhận rằng chưa từng thấy một canh mã chược nào lại có người ù to và ù nhiều như tôi. Trừ “cẩu tử liên hoàn” ra – Đời tôi chưa thấy ai ù một ván như thế, bao giờ. – Còn tôi thì ù tất cả các thứ. Khi thấy tôi ù “xập xám díu” – mà từ khi biết mã chược tôi ù như thế có một lần, chỉ lần ấy thôi – ông Thái-Seng-Long vội reo lên: Một điềm lành, một điềm lành cho công việc của chúng ta. Cả đời tôi đánh mã chược, tôi chưa ù một ván như thế bao giờ. Công việc của chúng ta. Ông gộp cả tôi vào trong đó. Tôi cảm động quá, cảm động ở chỗ người ta coi mình như anh em ruột thịt: Tiểu đệ cũng mong thế, bởi vì đại huynh đã rõ nếu có bề nào thì tiểu đệ chỉ còn việc nhảy xuống bể hay đưa khẩu súng vào thái dương thôi. Ông Thái-Seng-Long cũng cảm động như tôi, ông quay sang bảo Ả Cheng: Chú thấy đấy, Lâm tiên sinh đối với nhà ta có cái tình tay đứt ruột xót. Vậy khi về đến Sheunping, chú phải nói với anh em trong họ tiếp đón tiên sinh một cách thế nào cho xứng đáng với cái công ơn mà tiên sinh đã ban cho gia đình chúng ta. Thế đại huynh không cùng đi à? Hai anh em tôi, chỉ có thể đi được một người, còn một người phải ở lại để trông coi công việc buôn bán bên này. Chú nó là con trai, lại là con cả, chú nó đi, lẽ phải như thế rồi. Giá không vì công việc phải ở lại, tôi có đi cũng không ích gì. Chắc quý hữu rõ hơn ai hết về điều đó. Đã đành rằng sinh ra là kiếp một cánh buồm, cái thèm của đời tôi là sao cho lộng gió. Nhưng thành thật, lần này, tôi nghĩ rất ít đến những cảnh thổ mới lạ mà tôi sắp được quan sát, tôi không để ý đến cái thú của cuộc du lịch. Tôi chỉ để ý đến cái trọng trách mà người ân nhân đã giao phó cho tôi. Tôi nghĩ đến cái tình bạn thiêng liêng nó đã khiến cho ông Thái-Seng-Long không bỏ tôi trong cái phút hiểm nghèo mà thường tình là “con bỏ cha, vợ bỏ chồng” để chạy thoát lấy thân. Tôi nhớ như in những lời ông nói với tôi trong phút ấy: “Nếu có phải chết thì chúng ta cùng chết, tiên sinh cứ bình tĩnh…” Cho nêu sau khi bàn tính xong mưu kế, tôi ngùi ngùi bảo với ông: Tôi biết rõ sự quan trọng của công việc và cái lý do tại sao đại huynh lại giao phó cho tôi. Mưu việc tại người mà nên việc tại trời, tôi chỉ xin hứa với đại huynh nếu có bề nào thì đại huynh không thấy tôi trở về. Khi lấy tính mạng của tôi đảm bảo việc này, thì đại huynh có thể tin ở tôi. Lúc nhận công việc này, tôi đã bàn đem hỏa táng bộ hài cốt đi rồi bỏ vào lọ thì sự đi lại không có gì cồng kềnh nguy hiểm. Nhưng sự đó trái với phong tục người Trung Hoa miền Nam, và nếu như thế thì không có gì là khó khăn, mà người ta đâu phải cần đến tôi. Tôi biết nếu đi tàu bể, nếu nhân viên trên tàu khám thấy mang hài cốt thì thế nào họ cũng bắt phải ném ngay xuống bể - Luật hàng hải như thế. Lúc ấy tôi chỉ còn việc đâm đầu theo xuống bể, bởi tôi không sao còn có thể sống được với cái ý nghĩ “họ Lý mất mả bố” vì tôi. Hai là nếu tôi bị thổ phỉ đón đường cướp thì tôi chỉ có việc đánh nhau cho tới chết để bảo vệ. Tôi còn sống thì không thể để ai cướp được. Còn đường bể từ Sài Gòn đi Hương Cảng, tôi đã đi lại nhiều lần nên rôi rõ. Va ly tay của khách hạng nhất, ở dưới tàu hay lên bến thường là ít khi bị khám xét, thứ nhất nếu nó bé thì lại càng hy vọng là không. Vì nhân viên nhà đoan cho là mình chỉ để đồ trang điểm và quần áo ngủ thôi. Hai là có lẽ họ cũng nể nang những khách hạng nhất, thứ nhất nếu khách lại đi tàu của những hãng người Anh treo cờ Hồng Mao. Sự nể nang ấy nó có một cái lý: Phải giàu sang lắm mới đi được hạng nhất. Tiền vé hạng nhất với hạng tư, trong khi ta đi xe lửa đã chênh lệch, nhưng sự chênh lệch ấy chưa thấm vào đâu, nếu so với giá tiền đi tàu bể. Đi tàu bể, sự chênh lệch ấy có khi đến năm mươi lần hơn, có khi quá thế nữa. Là bởi hạng nhất ở tàu bể sang trọng lắm, buồng riêng, cơm rượu cực kỳ sang trọng, lại bể tắm, ciné, có bồi đặc biệt để hầu. Hài cốt của cụ Lý-Báng Sheung đem bọc sáp ong, rồi để vào một cái valy rất sang. Tôi lại còn đề phòng bằng cách “điều đình” với một nhân viên của nhà Viễn Đông Bác Cổ cấp cho một tờ chứng chỉ nhận đó là một bộ cốt đào được ở Đế Thiên Đế Thích mà tôi có bổn phận phải đem giao cho một sở khảo cứu ở Thượng Hải. Tôi chỉ cố tránh làm sao lỡ ở dưới tàu mà bị lộ thì tôi có cớ để cho người ta không ném xuống bể. Việc có xảy ra lôi thôi, lên đến trên đất rồi thì tôi không sợ nữa, miễn là làm sao cho khỏi bị ném xuống bể thôi. Đó là cái điều tôi lo nhất. Còn vấn đề thổ phỉ bất quá chỉ là vấn đề tốn tiền chuộc, không sao. Họ Lý giàu mà lúc đó tôi cũng không nghèo. Tôi cho người về nhà lấy những quần áo sang nhất, rồi tôi đóng vai một tài chủ cự phú về thăm quê hương và ba người đi theo tôi thì đóng vai đầy tớ rất kính cẩn, rất lễ phép, của nhà giàu. Chúng tôi đều giấu trong mình mỗi người một khẩu súng lục cỡ nhỏ, và chúng tôi đã bàn nhau, nếu có lộ thì chúng tôi sẽ vào cố thủ trong một gian buồng để cho tới khi tàu cập bến Hương Cảng. Đến đất, hài cốt không bị ném xuống bể là chúng tôi có thể dùng tiền để “vẫy”, chẳng còn sợ lôi thôi nữa. Thấy tôi lo lắng quá, ông Thái-Seng-Long an ủi: Tiên sinh cứ phấn chấn lên, trong đời người ít khi đánh mã chược mà được ù “xập xám díu cẩu”. Năm nay, tiên sinh hanh vận lắm, làm việc gì cũng đại thành. Chúng tôi đi tàu MacBeth của người Anh, chúng tôi cập bến Hương Cảng được bình yên vô sự. Đã có những đại biểu của họ Lý chờ đón tôi ở đấy. Từ Quảng Đông người ta thuê riêng một chuyến tàu hỏa đưa tôi về Sheunping, và người ta lại bảo với tôi: Tiên sinh có thể yên tâm rồi, họ Lý chúng tôi đã nhờ được đô đốc Dưỡng ở Cửu Môn cho 100 quân đi hộ tống chuyến xe này, không có một điều gì chúng tôi còn phải thắc mắc nữa, ngoài việc làm sao để đền bồi lại công ơn của tiên sinh đối với họ Lý chúng tôi thôi. Công việc lúc đầu tưởng chừng như khó khăn nguy hiểm lắm, ai ngờ nó dễ như ăn kẹo, thế thôi. Ấy chính vì thế mà thành ra tôi phỗng mũi, và tôi, nghĩ mãi đến ván bài tôi ù “xập xám díu”, đến câu ông Thái-Seng-Long nói với tôi: Tiên sinh năm nay hanh vận lắm, làm việc gì cũng đại thành. Phải rồi, bên Tàu hồi đó thổ phỉ như muỗi, tàu bể và những chuyến xe lửa bị cướp là việc cơm bữa xưa nay, người ta khám rất ngặc ngòi, ấy thế mà sao tôi đi chuyến này lại nhiều may mắn thế. Điều nghĩ đó làm cho tôi giật trí. Tôi càng giật trí vì tôi được đón rước như một vị “yêng hùng”. Thoạt đến ga, tôi được một tốp lính bồng súng chào như người ta chào một đại tướng hay một chính khách quan trọng vậy. Lên đến toa tàu, một bữa tiệc đại thịnh soạn đã bày ra với bao nhiêu là phì phà múi nhan sắc. Thật là có cái vẻ “khai quỳnh diêu di tọa hoa” của Lý Bạch. Bây giờ người ta còn chờ tôi “phi vũ trương nhi tùy nguyệt?” nữa thôi. Trong lúc tôi giật trí như thế, thì tôi sẵn sàng để say lắm. Mà nếu không sẵn sàng thì đã có những “hoa biết nói” có cách làm cho tôi không thể không gợi hứng. Người ta đã mời gần đủ mặt những hoa khôi của tỉnh Quảng Đông và Hương Cảng đem chất lên đây. Các cô chẳng những đã đẹp, cô nào cũng đàn ngọt hát hay, và ai cũng ti toe biết làm thơ. Thì đành là những bài thơ không kiệt tác, nhưng ít ra cũng còn cho ta hứng thú hơn là ngồi với những cô đầu rượu, chúng chỉ là những cục thịt và những con vẹt ngô nghê. Sự buôn son bán phấn ở đất Trung Hoa đã tổ chức một cách rất là chặt chẽ, mà mhững cô “phì phà múi” đã được huấn luyện cực kỳ chu đáo. Đó là nhờ dưới chế độ phong kiến và quân phiệt, nghề buôn người được công khai, mà sự mua bán đàn bà con gái được pháp luật công nhận. Lại cái họa nghèo đói, cái tục lệ trọng nam khinh nữ khiến cho số cung bao giờ cũng thăng hơn số cầu, cho nên thị trường “hoa nguyệt” không bao giờ phải khan hàng cả. Những mụ dầu sẵn vốn, tha hồ tích trữ cái khoản hàng trắng mà chẳng cần phải đi qua cổng chợ đen. Các mụ mua những cô bé con xem chừng sạch nước cản từ năm sáu tuổi trở lên, rồi cho học chữ, học đàn hát, học ăn nói, đứng ngồi, học tám nghề, bảy chữ, rồi tới tuần trăng tròn, cho các cô ra tiếp khách. Cái chữ trinh của các cô, các mụ bán cho khách làng chơi trong cái đêm kỳ ảo nó biến một cô con gái ra đàn bà, có khi đã đủ cái vốn nuôi dưỡng các cô trong gần mười năm. Vì thế, trong số khách làng chơi đến hành lạc, rất có thể có nhiều “ngài” rất bẩn thỉu – dùng theo cái nghĩa thực tế của vệ sinh – rất tục tằn, một chữ không biết, một chút lịch sự không tường, chứ các cô phì phà múi thì không. Cô nào cũng biết đàn hát, biết chữ nghĩa, biết ăn nói lịch sự, biết giao thiệp ra phết, con người sang trọng. Nghề làm đĩ hạng sang ở đất Trung Hoa có trường huấn luyện hẳn hoi, có thời gian tập sự cho các con em, có quy chế rành rọt cho những người theo đuổi với nghề, chứ không ẩu xị như hạng “buôn bán duyên đầu ngõ” ở xứ ta. Hai mươi cô mà họ Lý mời về Sheunping để bồi tiếp quan khách đến mừng về sự đã đem được di hài của tổ tiên về nơi quê hương đều là cái hạng “tai mắt” trong làng đưa trước đón sau. Tôi đang trong cái lúc tin tưởng ở ngôi sao số mệnh của mình sáng tỏ thì dĩ nhiên tôi rất dễ bị bọn “tai mắt” đó làm cho “tối tăm”. Phương chi cả đại biểu của họ Lý cũng sẽ không lấy làm hả dạ, nếu tôi không tối tăm. Thành thử xuống đến ga Sheunping thì tôi không còn là tôi nữa. Mà chỉ còn là một thùng rượu và một cây thịt. Hỡi ơi! Bước xuống tàu gặp gió, dạ dày tôi lên men dữ quá. Cứ thế là tôi mửa thốc, mửa tháo. Và cứ thế, tôi nói nhí, nói nhảm lung tung thiên. Cả họ lý ra chờ đón tôi ở ga Sheunping thấy thế đều sung sướng và kiêu hãnh. Kiêu hãnh về chỗ đãi khách hậu quá đến nỗi khách không còn chỗ nào mà nhận, phải tống ra. Và sung sướng ở chỗ tôi đã chiếu cố thực thà, say sưa túy lúy chẳng còn nhận ra đất với trời. Tôi đến Sheunping giữa một phiên chợ, mà ở chợ Sheunping thì còn gì vui hơn là những cuộc chọi dế. Lúc tôi chân nam đá chân xiêu, trèo lên kiệu, tôi mơ hồ thấy một người đến khoanh tay trước mặt tôi, và mang máng nghe người ấy nói “dế, dế, năm năm, Cửu Long, tiên sinh bằng lòng…”Thì lúc ấy “tiên sinh” đã thấy sập trời ở trước mắt, cái gì mà tiên sinh chẳng bằng lòng. Người xưa bảo giàu sang đến trong giấc ngủ, còn tôi thì thật là tiền tài đến với tôi trong một cơn say chẳng còn biết trời đất là gì. Vì thế mà tôi lại càng tin ở cái hanh vận, càng tin ở thần may rủi, vì thế mà tôi đi Ma Cao, vì thế mà tôi đánh bạc, mà cũng lại vì thế, mà tôi chừa đánh bạc. Phía nam bên Tàu, thứ nhất ở mạn Sheunping và huyện Nam Hải, có cái chơi chọi dế ăn thua hàng vạn như đánh cá ngựa. Mà cũng say như thế, lại có phần hơn. Cũng có những tay chuyên môn nuôi dế, chuyên môn mở sòng dế, chuyên môn lấy sự chơi chọi dế làm nghề sinh nhai. Những cuộc chơi chọi dế ở đây tổ chức như những cuộc đua ngựa, cứ mỗi phiên chợ một lần. Mà tổ chức ở Sheunping thì hẳn là họ Lý phải làm trùm sòng rồi, bởi trong cái huyện Sheunping này, còn họ nào uy thế giàu có hơn họ Lý nữa. Chọn lọc, nuôi dưỡng và huấn luyện được một con dế đem ra chọi thật là công phu vô cùng. Người ta nói chuyện với tôi có những tay chuyên môn nghe tiếng dế, nhìn hình thù con dế mà biết được con nào giỏi, con nào kém, con nào gan, con nào nhát đòn. Lại có những tay chỉ có chuyên môn nuôn dế hộ cho người chơi, công cao lắm. Những tay chuyên môn ấy kiếm tiền vạn, và có lắm người nhờ nghề đó mà thành giàu cự phú. Người ta nuôi dế bằng sâm, bằng mật gấu, bằng nhung hươu, bằng rượu hổ cốt. Lại có những người chuyên sống về nghề cất một thứ rượu riêng cho dế uống để cho nó mạnh và hăng trước khi ra chọi. Tôi đến khu nhà thờ họ Lý thì đã lại thấy một bữa tiệc bày ra rồi. Gần một nghìn con người chờ tôi ở đấy. Tôi trông thấy thịt, thấy rượu, tôi đã rùng mình, nhưng làm sao được. Cái bữa tiệc trên xe lửa là cái tiệc mọn để “rũ bụi” trong khi đi đường. Ở đây là cả họ Lý đón tôi. Và bữa tiệc long trọng này là để tiếp tôi. Ghế chủ tọa còn bỏ trống, người ta chờ tôi đến. Thấy tôi còn mệt, Ả Cheng theo tôi nói mấy câu với ông trưởng họ. Ông trưởng họ nói mấy câu với mụ trùm cái đoàn Phì phà múi lúc này cũng đến đầy cả ở đấy. Người ta đưa vào một gian phòng, người ta giao tôi cho những bàn tay chuyên môn của những con người chuyên môn làm thế nào tống được rượu thịt vào dạ dầy khách làng chơi cho thật nhiều, để rồi nếu cần, lại tìm cách “chữa chạy” khiến khách có thể ăn uống lại được. Trong những bữa tiệc thịnh soạn, một cái tục kỳ quái đã định rằng nếu khách không say quay đất đảo trời, không mửa thốc, mửa tháo vài ba lượt, chủ nhà tự coi như là mất thể diện về chỗ khách đã không… “hết lòng” với mình. Tôi say, say lắm, tôi mệt, mệt lắm. Nhưng sau nửa giờ, các ả “chữa chạy” cho tôi bằng đủ mọi cách chuyên môn, nào ấp khăn mặt ướt trên trán, nào xoa dầu bạc hà vào mình, nào bắt gân cổ, gân chân, nào còn bao nhiêu là thứ nữa thì tôi đã thấy tỉnh và đỡ mệt. Người ta bắt tôi húp một bát cháo đỗ xanh, rồi người ta lại đẩy tôi ra nhà tiệc. Những người sùng thượng phương pháp tiết độ trong ẩm thực, gặp những bữa tiệc lớn, kéo dài 24 tiếng, 36 tiếng có khi hơn thế nữa, có những ông khách sau khi uống say, lẩn ra ngoài móc cổ nôn cho kỳ hết, để lại vào tiệc uống nữa, chắc phải kêu trời, và khinh bỉ những con ma say ấy. Họ biết đâu có những trường hợp, từ chối là vô lễ, và những thói tục, tuy người ta biết rằng vô lý mà cũng vẫn phải theo, khổ sở mà theo. Họ Lý to nhất ở huyện Sheunping. Cả họ họp lại ở chung thành một làng. Vì cái nạn thổ phỉ hồi đó ở Trung Hoa dữ dội quá, người ta phải ở liền với anh em họ hàng như thế để cùng tổ chức cuộc phòng thủ thì mới mong tồn tại. Người ta mời tôi ngồi vào ghế chủ tọa. Tôi vái từ: Chúng tôi là một kẻ thất phu đã được thụ ơn dầy của Thái-Seng-Long tiên sinh, nay có việc, tiên sinh sai đi, thì tôi cũng như một con ngựa của tiên sinh, tiên sinh hướng sang đông thì tôi sang đông, tiên sinh rẽ sang tây thì tôi sang tây. Tôi đến đây lấy tư cách là một tên nô bộc trung thành của Thái-Seng-Long tiên sinh mà đến, tự coi công việc nhà họ Lý như công việc của mình. Nếu các ngài đây thương một tấc thành mà không nỡ bỏ, cho tôi được ngồi vào hàng chót để hầu tiếp, tôi cũng còn băn khoăn về cái đặc ân ấy chưa dám nhận, phương chi các ngài lại buộc tôi vào ghế chủ tọa thì thật muốn chết, tôi cũng phải từ. Các ngài thương tôi, chớ bắt tôi phải phạm cái tội mạn thường đối với họ nhà ta. Cụ Lý Thập Nhất là trưởng họ kéo tay tôi: Tiên sinh chớ khiêm tốn, nếu tiên sinh không ngồi, thì họ tôi không ai dám ngồi cả. Họ tôi được thụ ở tiên sinh một cái ơn, có thể gọi là cửu thiên bổ nhật, họ tôi sau này mà tiến đạt được là cũng nhờ ở tiên sinh chẳng quản nhọc nhằng, quên cả thân muôn vàn để giúp chúng tôi. Ngày nay, nắm di hài của ông chú chúng tôi lại cùng về được năm cạnh tiên tổ để cùng coi sóc cho họ chúng tôi, ấy là nhờ tiên sinh đã không từ nguy hiểm mà tế độ cho. Vậy xin tiên sinh cứ ngồi để cho chúng tôi cùng được lạy. Cụ Lý Thập Nhất nói xong là quỳ ngay xuống, cả họ cùng quỳ theo. Tôi hốt hoảng cũng quỳ xuống níu lấy cụ Lý Thập Nhất. Các ngài muốn cho tôi phải đắc tội và giảm thọ đi hay sao mà làm như thế? Đó là cái phép phải như thế để giãi tỏ tấm lòng của họ chúng tôi đối với tiên sinh… Nếu tiên sinh mà không ngồi thì chúng tôi nhất định không đứng dậy. Tôi đâu dám… vô lễ như thế. Xin các ngài thương tôi. Cụ Lý Thập Nhất và cả họ chứ quỳ ở dưới đất, mà tôi cũng cứ quỳ. Ả-Cheng lúc ấy mới lại gần tôi: Họ tôi đã thành tâm, nếu ông không lên ngồi thì tôi tin rằng đừng nói ba ngày, dẫu ba tháng, họ cũng cứ quỳ như thế, tôi xin ông lên ngồi đi cho nó vui vẻ cả, cho họ tôi bằng lòng. Tôi không làm sao được phải ngồi vào ghế chủ tọa: Thế này thì các ngài buộc tôi vào cái tội muốn chết đây. Khi tôi đã bằng lòng, cả họ lúc ấy mới đứng dậy. Rượu đã hai tuần thì ở cổng có tiếng ồn ào, rồi một người đem vào một cái quả, có bốn người vác súng đi hộ vệ. Người mang cái quả tiến lại gần tôi, đặt cái quả trên bàn: Cuộc chọi dế đã kết liễu. Con dế “Cửu Long” của họ Lý nhà ta đắc thắng. Ông chủ sòng sai tôi đem vào đây số tiền được là năm vạn rưởi mà tiên sinh đã đánh cá vào con “Cửu Long” lúc xuống ga. Tôi mở to mắt. Tôi nhớ mang máng lại thì lúc đó tôi có bằng lòng đánh cuộc, tôi cũng chẳng rõ tên dế, tôi chỉ nghe thấy năm năm, tôi ngỡ là năm trăm rưởi tôi mới bằng lòng. Tôi liền bảo với người quản lý sòng: Lúc nãy, tôi say rượu, tôi nghe có người mời tôi đánh cá, tôi ngỡ là năm trăm rưởi, cho nên tôi mới bằng lòng. Chứ năm vạn rưởi thì tôi đâu có mà dám đánh. Như thế thì tôi đâu dám nhận. Người quản lý bình tĩnh như không: Nhưng nếu thua thì tiên sinh vẫn phải trả như thường. Tôi có mang tiền đâu mà trả. Tôi chỉ đánh có năm trăm rưởi thì nay nếu được, tôi cũng chỉ xin nhận có năm trăm rưởi thôi. Người quản lý vẫn ôn tồn, vẫn thản nhiên: Nếu thua, tiên sinh không sẵn tiền trả, thì họ Lý chúng tôi cũng phải thu xếp trả đủ số cho sòng. Phép đánh cá dế, phải ký cược tiền trước. Nhưng vì tiên sinh là thượng khách của họ Lý chúng tôi, nên sòng không dám vô phép hỏi tiền cược, đinh ninh cái uy tín của nhà họ Lý chúng tôi là một bảo đảm vũng chắc. Như thế tức cũng là ngài đánh cả số tiền năm vạn rưởi rồi. Vậy ngài có quyền nhận, bởi thua thì ngài vẫn phải giam đủ số cơ mà. Nhưng người giam số tiền ấy không phải là tôi bởi vì tôi không có, và cũng không bao giờ, tôi dám đánh cá lớn như thế. Tôi chỉ xin nhận số tiền năm trăm rưởi thôi. Còn số tiền thừa thì là thế nào bây giờ? Đưa cho ai bây giờ? Làm thế nào tùy ngài; và đưa cho ai thì cũng tùy ngài. Thành thật là tôi không dám nhận. Vì lúc ấy tôi nghe nhầm, chứ biết là số tiền năm vạn rưởi thì khi nào tôi dám bằng lòng. Mặc dầu ngài nghe nhầm, nhưng nhỡ nếu có thua thì ngài vẫn phải trả đủ số. Vậy thì được ngài cứ nhận. Nhưng thua thì tôi có tiền ngay đâu trả mà bảo. Người quản lý ngắt lời tôi: Ngài trả hay họ Lý chúng tôi trả thì cũng thế. Bởi họ Lý chúng tôi với ngài cũng như một. Chắc ngài không thể cho họ Lý chúng tôi cái vinh dự như ông Thái-Seng-Long đã viết thư về, là cùng có cái tình tay đứt ruột xót. Tôi hết sức từ chối, nhưng từ chối không được. Và tôi biết chắc nếu tôi nhất quyết thì cả họ Lý sẽ không được vui. Mà người ta thương tôi thành thật. Thiệt tình ra sự tôi được năm vạn rưởi không làm cho tôi mừng bao nhiêu, tôi mừng là mừng năm nay đúng như ông Thái-Seng-Long nói, tôi đang tấy vận. Tiền Tàu lúc đó ăn tám hào bảy Đông Dương, số tiền đó tuy là nhiều trong thời gạo sáu đồng một tạ, nhưng không phải là tôi không thường luôn luôn có. Mỗi chuyến đi buôn thuốc phiện sang Xiêm, tôi đã từng được lãi mỗi lần như thế, hay hơn thế nữa. Sự tôi được cái của trời ơi ấy trong khi tôi say rượu, tôi nghe lầm làm cho tôi thành mê tín. Tôi tin ở vận số, ở tử vi. Vận đỏ của tôi năm nay đế rồi! Luôn luôn, tôi nghĩ như thế. Thì bao nhiêu là cái may đó nhé, mà những cái may tày đình! Tôi nghĩ cách lợi dụng cái vận đỏ của mình, tôi nghĩ cách xúc lấy của trời cho. Mà xúc lấy của trời cho thì còn gì mau chóng bằng đánh bạc. Trong gần nửa tháng trời, tôi ở lại chơi với họ Lý, thôi thì người ta mời tôi hết nhà này đến nhà nọ, ăn uống linh đình. Ăn xong là đánh bạc, phần nhiều là tôi được. Nhưng cờ bạc gia đình thì được thua phỏng có là bao. Chẳng qua nó chỉ làm cho mình càng tin ở ngôi sao số mệnh của mình trong năm nay. Tôi nghĩ đến Ma Cao là cái sòng bạc công khai lớn nhất ở Á Đông. Tôi chăm chú nghe những chuyện được bạc kỳ dị như chuyện Tam Đại Vương hôm nay còn là thằng khố rách, mai đã thành triệu phú. Và từ đó chuyên môn chỉ có đánh tam cầu âu. Người ta kể lại rằng trong cái đêm kỳ ảo ấy, cửa tam đổ liền 21 tiếng Tam Đại Vương cứ gấp thiếc mãi lên mà đánh. Đến tiếng chót hồ lỳ thấy to quá và bị thua nhiều quá, phải gọi chủ đến để xem có dám nhận cho Tam Đại Vương đánh tiếng ấy nữa không. Chủ sòng nghĩ rằng không lẽ nào một người lại đỏ mãi như thế, và không thể nào tam lại còn có thể đổ lần thứ 21, bằng lòng. Hồ lỳ gảy: lại tam! Ấy thế là tan sòng. Chủ nó phải nhường cả sòng, cả gia sản cho Tam Đại Vương mà cũng không đủ trang tiếng bạc ấy. Cái tên Tam Đại Vương xuất xứ từ đấy. Bây giờ, nghe đâu có cả Nhất Đại Vương, Nhị Đại Vương, Tứ Đại Vương, nghĩa là những người tòan chơi cầu âu nhất, nhị, tứ, mà mỗi lần đặt thật to, chỉ đặt một cửa mà mình thích. Bị thôi miên bởi những chuyện như thế, và tin tưởng ở cái vận đỏ của mình trong năm nay, tôi nhất định đi Ma Cao để đánh bạc. Lúc tôi từ giã họ Lý để đi Ma Cao thì cả họ sai một người đã từng làm hồ lỳ ở sòng bạc Ma Cao đưa tôi đi. Và kỷ niệm cho tôi một chiếc vòng ngọc. Chiếc vòng đó là của gia bảo truyền lại đã bao nhiêu đời, không có giá nào cả. Vài bốn vạn cũng là, mà với người biết và thích thì năm bảy vạn cũng không là đắt. Tôi thề giữ suốt đời làm kỷ niệm, và thề dù sau này nghèo túng tới bậc nào tôi cũng không bao giờ bán. Người mà họ Lý sai theo tôi để đưa đường chỉ lối là một người đã từng làm hồ lỳ ở sòng bạc Ma Cao. Tên ông là Lý-Chí-Seng năm nay đã ngoại năm mươi. Ông ta đã nhiều phen ăn chơi long trời, lở đất, và mất nghiệp về cờ bạc. Nhưng vì mất nghiệp về cờ bạc mà biết cái nghề hồ lỳ là cái nghề rất phát đạt tại Ma Cao, cái nghề ăn sung mặc sướng nhất mà lại kiếm được nhiều tiền nhất. Kiếm một cách chắc chắn, chỉ cần có tài một chút, nhẫn tâm một chút nữa; mà nhất là biết kiên gan đừng có tham của trời ơi mà đánh bạc. Trong hai mươi sáu năm tận tụy với nghề, ông ta khôi phục hết sản nghiệp, lại tậu thêm được mấy tòa nhà ở Quảng Đông. Ông ta liền từ giã nghề, về dưỡng lão ở quê nhà. Vì họ Lý quý tôi lắm, nên mới cắt ông đi theo tôi để dẫn lộ, mà cái thâm ý cũng là để giữ gìn cho tôi. Ông Lý-Chí-Seng sống về nghề cờ bạc, nhưng ông rất ghét cờ bạc. Luôn luôn, ông khuyên những người thân của ông đừng đánh bạc: Đánh chơi tí ti để tiêu khiển thì được, chứ chơi to để lấy ăn lấy thua thì không nên. Tốt nhất là đừng có bao giờ mó vào. Lạ chưa, ông sợ cờ bạc như sợ cọp, sau này, tôi mới hiểu lý do. Ông cũng đã có khuyên tôi như thế, nhưng lúc đó thì đời nào tôi chịu nghe. Trong cái năm nay, tôi đã đi thoát một chuyến buôn lớn sang Xiêm nhé, đánh mã chược tôi lại ù “thập tam díu cẩu” nhé, tôi đã mạo hiểm đưa hài cốt cụ Lý-Báng Sheung về Tàu cũng thành công nhế, say rượu và nghe lầm mà được hơn năm vạn bạc chọi dế nhé. Ồ, lúc ấy, trừ phi có ông trời hiện xuống với bộ mặt thế nào mới can ngăn tôi nổi, chứ ông Lý-Chí-Seng thì với mấy câu nói suông của ông, nghĩa lý gì với một kẻ đã có tính máu mê, mà lại đang tin rằng năm nay thế nào mình cũng tấy lớn. Ma Cao là một cù lao nhỏ thuộc nước Trung Hoa, nhưng người Bồ Đào Nha cai trị. Cũng như Las Vegas ở Mỹ, Monte Carlo ở Pháp, kỹ nghệ chánh của nó là cờ bạc. Thành phố sống bám vào sòng bạc. Mọi sự hoạt động đều chuyển chung quanh sòng bạc. Dân cư nếu không đánh bạc thì cũng sống nhờ về cờ bạc. Chúng tôi cặp bến Ma Cao một buổi chiều sương mù dày đặc, cách một thước không trông thấy mặt người. Chiếc tàu Alvatez rúc đều những hồi còi inh ỏi để báo hiệu sự có mặt của mình cho tàu bè khác biết mà tránh. Mới bốn giờ chiều mà đèn điện ở dưới tàu đã bật sáng trưng. Cái cảnh một con tàu chìm trong sương mù tìm đường đi trong bể khơi bằng hiệu còi, bằng ánh lửa có một cái gì nguy hiểm làm cho người ta phải rờn rợn, và một cái gì huyền bí làm cho người ta nao nao. Thốt nhiên, hình ảnh của còi tàu đem đến cho tôi một hình ảnh khác. Hình ảnh của những người đánh bạc bước chân vào sòng bạc. Con tàu cứ lướt thẳng trong sương, mà người đánh bạc thì cũng dấn bước đi vào con đường… vô định. Rợn rợn và nao nao mà họ vẫn bước đều. Bí mật cuốn hút họ, thôi miên họ, vận mệnh chờ đợi họ. Tất cả là hồi hộp, mà số kiếp thì vảy lên trong sự sấp ngửa của những đồng tiền. Tất cả những ván bài đang chia và sắp đánh. Tất cả chỉ xa cách nhau có một gang tấc, nhưng trong cái gang tấc ấy, máu chảy siết rồi sôi lên. Và mồ hôi vã ra. Sấp, ngữa, được, thua, người ta đã được sống những phút cháy lòng trong một gang tấc sôi sùng sục của định mệnh. Cái hồi hộp là quân bài đang reo, cái đê mê là hòn đạn đang quay. Con người chóng mặt vì cảm xúc cho nên con người đi tìm sự sống trong sòng bạc. Tìm cái sự sống nó tập trung, nó kết tinh tất cả những khoảng rộng mênh mông, những năm tháng dài dằng dặc trong một chớp mắt hãi hùng hay sướng thỏa trên tấc gang của một đồng tiền. Tôi nghĩ thế cho nên tôi vỗ lưng ông Lý-Chí-Seng: Những người đánh bạc không phải là những người dại, mà là những thằng dám liều. Họ như những con tàu đang đi trong sương mù này. Ông Lý-Chí-Seng cười một cách ý nhị: Nhưng là con tàu không có những hồi còi và những ánh đèn xanh đỏ báo hiệu. Tôi cũng cười: Thì đã bảo là liều mà. Một may, một rủi. Nhưng dù sao họ cũng là những người biết bán đời mình cho một khoảnh khắc xúc động để mua lấy những cảm giác không bao giờ lạnh. Ông Lý-Chí-Seng nhìn tôi không nói. Cái nhìn im lặng ấy như bảo tôi: ai mà nói cho lại được với những người máu mê. Chúng tôi đến cửa phòng Tai-seng công ty thì những con người cứ đi đi lại lại, thơ thẩn trước cửa tòa nhà cao vút. Quay đi rồi quay lại, mắt thì lúc nào cũng chăm chăm nhìn về phía của ra vào. Quần áo vào loại sang trọng, nhưng đã bị thời gian làm cho tiêu hủy cái làn màu mỡ của nó, chỉ còn để lại cái vẻ tầu tầu mà có những bàn tay đang cố gắng nắn vuốt, chải chuốt để cho nó khỏi thành tàng tàng. Mặt họ đều có một vẻ buồn rầu và băn khoăn. Họ đi rất chậm chạp như khách tản bộ, người thì thổi sáo mồm, người thì thọc tay vào túi quần, thoáng trông tưởng chừng như trong đời, họ không có cái thú gì hơn là nhìn trời, nhìn đất. Nhưng không, họ đang rình những khách ở trong cửa sòng đi ra! Ông Lý-Chí-Seng chỉ họ rồi bảo tôi: Đó là những ngọn đèn báo hiệu, những hồi còi báo nguy đấy, Lâm tiên sinh ạ. Tôi ngơ ngác không hiểu: ??? Đây là những khách, trước kia đã có lần được tiền vạn, rồi thua tiền triệu ở sòng rồi đấy. Họ đã từng có lần sống rất sang trọng và làm vua, làm chúa ở đất này một vài phen rồi đấy. Có cái là những ván bài đánh ở trong sòng bạc khác hẳn những ván bài ta chơi ở trong đời, cho nên tiếng cuối cùng bao giờ cũng là hai chữ khánh kiệt. Nó buộc những kẻ máu mêkhi đã hóa thân tàn ma dại không thể không nghiền ngẫm về hai chữ túng đói. Bây giờ, họ lởn vởn tại đây để chờ khách đánh bạc ở sòng ra, xem ai được thì xin. Họ đã thành những thằng ăn mày chuyên nghiệp của sòng bạc. Ăn mày, túng đói, sao họ còn ăn mặc có vẻ… chứng đến thế. Ông Lý-Chí-Seng phá lên cười: Nếu họ không còn bộ mồi ấy, thì khi nào sòng bạc lại để yên cho họ làm cái nghề chuyên môn của họ. Sòng bạc tuy cho mình cái quyền được rứt hết xương tủy của những người máu mê, nhưng họ xét những người mà họ đã làm xác như vờ ấy cũng có quyền được ăn xin để kiếm sống, thì họ vẫn phải để yên cho kiếm sống, mặc dầu bằng cách ăn xin. Nhưng họ chỉ để cho quyền kiếm sống khi nào những người đó không được phương hại đến cái quyền bóc lột của họ một cách… rõ rệt quá. Để cho một đoàn ăn mày rách như tổ đỉa vây lấy cửa sòng bạc thì có khác chi là đặt những cái máy truyền thanh ngăn cản những con bạc bước chân vào phòng bạc bằng những câu tuyên truyền có nhân chứng: “Này các ông các bà đừng có vào trong ấy, các ông các bà hãy nhìn những cái gương tấy liếp là chúng tôi đây!” Những lời răn bằng da, bằng thịt hẳn hoi như thế xếp hàng ở cái cửa sòng bạc to nhứt ở Ma Cao này? À không, thế thì dù có gan là sắt người ta cũng phải chùng chân, không dám vào nữa. Vì thế, sòng bạc cho phép những người đã thua bạc đến tìm chút sống thừa ở đấy, nhưng họ chỉ cho phép khi nào những kẻ kia ăn mặc tiều tụy quá đáng. Và họ đã điều tra kỹ càng chỉ những người thật đã thua bạc, họ mới cho phép được đến đây để ăn xin chứ còn những ăn mày chính công thì không thể. Ông Lý-Chí-Seng hít một hơi, sau rồi chậm rãi: Hồi tôi còn làm hồ lỳ ở đây, ban quản trị sòng bạc đã ủy cho tôi cầm đầu cuộc điều tra ấy và tổ chức một đoàn yêng hùng với đủ mọi phương tiện, để tống khứ tụi ăn mày chính cống không cho bén mảng đến đây. Và buộc những ông đánh bạc đã bị thần đổ bác bắt xuồng là thằng, phải đến ăn xin với những bộ cánh trông được. Nếu không thì cấm, cấm chỉ. Thì đấy tiên sinh xem, sòng bạc đã xây nên được sự phồn thịnh của đô thị Ma Cao này, thì sức mạnh gì mà nó không có, huống hồ là việc tống khứ hải hà mấy thằng khố rách đi. Rồi ông lại chỉ cho tôi xem những dinh thự nguy nga, những tòa nhà chọc trời: Sòng bạc xây dựng lên cả đấy. Tôi buột miệng: Nhưng xây bằng máu, dựng bằng xương! Ông Lý-Chí-Seng ném mẩu xì gà đi, rồi nhìn tôi: Ấy thế mà có lắm người tuy đã biết chắc chắn là chết, chết khốn khổ, chết nhục nhã mà vẫn cứ đâm đầu vào đấy. Rồi thở dài: Mà những con người ấy phần đông lại là những người tuấn tú, có trí, có tài mới thật đáng buồn chứ. Tôi biết ngay là ông Lý-Chí-Seng ám chỉ tôi, tôi cười: Thế nào gọi là may rủi? Thế nào gọi là đỏ đen? Tôi tưởng trăm người cũng có… Ông Lý-Chí-Seng hiểu cái ý tôi muốn nói, liền ngắt lời: Không có ai đánh bạc một lần mà thôi. Cây ăn, cây gỡ. Bạc bài rút lại chỉ có rủi, chỉ có đen. May thì chỉ may trong chốc lát, đỏ chỉ là đỏ nhất thời. Cuối cùng là xuống vực ráo. Đánh bạc không có được, rốt cuộc chỉ có thua. Cho nên bọn chủ sòng chúng nó đã nói: “Nếu mày được mà mày mua cái nồi đât thì cái nồi đất vỡ đi, chúng tao mới sợ mất, chứ mày mà mua cái nồi đồng thì cũng có ngày mà đem cầm bán đi để đến sòng”. Đó là chưa kể, người nhúng vào cờ bạc còn bán đi cho thần đổ bác một thứ quý giá của đời người là cái hồn của mình nữa. Bọn chủ sòng, bọn hồ lỳ chúng tôi thì sanh sống và làm giàu về nghề cờ bạc, bọn con bạc thì lụn bại và chết dẫm về chơi cờ bạc, nhưng cả hai đều là bọn mất hồn cả, tuy mỗi đằng bị mất mát một cách khác nhau. Chúng tôi biết cái nghề đó là bất nhân, nhưng vì kiếm tốt, chúng tôi cứ làm và tự nhủ: “Chúng tôi không làm thì người khác cũng làm”. Còn kẻ đánh bạc tuy biết là thất cơ lỡ vận đấy, nhưng tự bảo: “Biết đâu lần này ta không may mắn” rồi cứ thế mà tiến dần vào chỗ suy tàn cả vật chất lẫn tâm hồn. Người đánh bạc thì có máu tham muốn ăn không của người. Chúng tôi thì là những quân láu cá biết tổ chức những cuộc đưa ma có lợi cho mình và chôn người mà làm giàu. Tôi biết họ Lý cử ông Lý-Chí-Seng theo tôi ngoài mục đích muốn cho cuộc đi chơi Ma Cao của tôi được nhiều thú vị - Ông Lý-Chí-Seng là thổ công ở Ma Cao – còn muốn ông là cái máy hãm, để ghìm tôi lại trên dốc đổ bác. Việc ấy, sau này ông Thái-Seng-Long nói, tôi mới rõ. Hơn nữa họ Lý giàu có vì sự tổ chức và quản trị những sòng bạc ở Á Đông, cho nên hiểu rõ hơn ai hềt về sự tai hại của cờ bạc. Tôi đã là người bạn trung thành của họ Lý trong những lúc hiểm nghèo, cho nên họ Lý tự thấy có bổn phận phải bảo vệ cho tôi. Cho nên họ cũng không quản công, không kể của, cho ông Lý-Chí-Seng theo tôi để khuyên ngăn tôi trong lúc tôi đang giật trí. Đây là nàng Châu Long tân thời, tôi là Lưu Bình, mà họ Lý là Dương Lễ. Những lời ông Lý-Chí-Seng không làm cho tôi cụt hứng mấy. Bởi những gương đổ vỡ về cờ bạc nhan nhản ra đó, nhưng nào đã ngăn ngừa được mấy ai. Tuy thế, nhưng chúng cũng làm cho tôi ngẫm nghĩ, nhưng không phải ngẫm nghĩ về kết quả tai hại của cờ bạc: Ông nói thế nghĩa là đánh bạc là một cuộc tự tử dàn hạn, mà sòng bạc thì gian lận để cố rút ngắn thời gian của những cuộc tự tử ấy. Ông Lý-Chí-Seng cãi ngay: Không, không. Những sòng bạc lớn không cờ gian bạc lận, nhưng cũng quá cờ gian bạc lận – Tiền hồ và những cách tổ chức các lối đánh bạc lâu dần khiến họ được một cách chắc chắn. Tiền hồ ở các sòng lớn tuy lấy rất ít, nhưng tiếng nào họ cũng được. Trong một ngày bao nhiêu là người chơi, bao nhiêu là tiếng bạc. Sòng bạc là những con kiến, mà người chơi bạc là miếng đường. Tuy nó gặm nhấm tí một, nhưng có miếng đường nào rồi mà không tan. Ông thử xem những người đã chơi bạc, rút cho đến kỳ cùng, có người nào là không thua. Không, sòng bạc to không gian lận. Tiền hồ và những lối đánh bạc đủ là những sự bóc lột công khai rồi. Thừa sức giết người rồi. Đúng như thế. Nhưng trong 20 năm làm hồ lỳ ở đây, tôi cũng đã có hai lần gian lận. Nhưng đó là những trường hợp hãn hữu. Các ông quân phiệt, các ông ấy cướp bóc của dân đen thiếu chi là tiền, tội gì mà chẳng cướp lại. Trôi chảy chứ? Chúng tôi mà định tâm gian lận thì họa chăng chỉ có trời mới biết. Nhưng chuyện đời, cứ có hai người thì bí mật nào chóng chầy rồi cũng bại lộ, bại lộ tự trong chúng tôi mà bại lộ ra. Vì thế sòng bạc họ muốn làm ăn lâu dài nên không làm đấy thôi. Chỉ thỉnh thoảng, nhưng tòan là những vố lớn cả. Thật ra thị thường ngày, sòng bạc đã là một tổ chức cướp bóc công khai rồi. Rồi ông chỉ những tên ăn mày đang lang thang chung quanh khu nhà Tai-seng. Đấy tiên sinh nhìn, toàn là những người đã bị sòng bạc bóc lột sạch sành sanh, bóc lột cả đến cái hãnh diện làm người, chỉ còn để cho họ độc một cái quyền đi ăn xin. Sòng bạc đã du họ đến cái chỗ cùng đồ nhất của kiếp người là làm người mà không còn dám biết xấu hổ nữa, hay nếu còn thì cũng phải cố quên đi. Sòng bạc đã cướp đi của họ bông hoa thơm nhất, cái tia sáng nhất của sự sống là danh dự con người. Thiếu bông hoa thơm ấy, mất cái tia sáng đó, ngày tháng làm gì còn ý nghĩa, cuộc đời còn bao giờ lên hương. Những con người không còn là con người nữa ấy ám ảnh sòng bạc như những cái bóng ma, ấy thế mà người ta vẫn cứ đâm đầu vào, nào có ai chịu tỉnh ngộ đâu! Thì ra ở đời, những kẻ “tình nguyện” làm ma đói ma khát vẫn không thiếu. Rồi vừa đi, Lý-Chí-Seng tiên sinh vừa lẩm bẩm cái lời nguyền kinh khiếp của sự sống: “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta? Đói cơm, rách áo. Hóa ra ăn mày!” Tôi cười: Thì tại họ không chịu làm việc, chứ nào ai bắt họ phải đi ăn mày? Lý tiên sinh ngừng lại, quắc hai mắt: Cái mà tôi sợ ở cờ bạc không phải sự khuynh gia bại sản, mà là đã phá đi ở trong lòng người cái hứng thú làm việc. Thua một lúc bạc nghìn, được một lúc bạc vạn, ai mà còn muốn làm việc kỳ khu hàng ngày để kiếm từng đồng nữa. Ấy thế là nhắm mắt xuôi tay, mặc cho những cần dùng của sự sống dắt đi. Những kẻ còn có một chút khí phách thì tự tử, mà những kẻ ươn hèn thì đi ăn cắp, đi ăn xin, đi làm đủ thứ, miễn là không phải cái thứ làm việc của những con người lương thiện nó buộc người ta phải đổ mồ hôi và để ngày giờ vào đó. Trong cái đoàn ăn mày này, có hai hạng: một hạng đã vĩnh viễn mất hết lương tâm làm người; vĩnh viễn sống với nghề ăn xin. Và một hạng thì thua hết, không có nhà cửa ở đất này, cùng quá, phải tạm làm nghề đó để sống. Toàn là những người ở phương xa đến. Phải rồi. Lúc họ mới đến đây, ai cũng sang trọng và sẵn tiền lắm. Thật có kẻ có bạc triệu. Ấy thế mà chỉ trong một thời gian ngắn là sòng bạc lột hết, lột cả đến cái lương tâm của họ lột đi. Tiên sinh cứ nhìn vẻ mặt và dáng dấp của họ thì phân biệt ngay được họ là hạng nào. Một đàng thì lúc xin còn ngượng nghịu, e thẹn, còn một đàng thì mặt đã trơ như những con bài cũ, và nhẵn như những hòn đê. Nói đến đây, tiên sinh bật lên cười: Nhưng mà họ đã thành những ông thầy xem tướng đại tài, Trần Đoàn, Quỷ Cốc còn kém xa. Họ đánh hơi những tay được bạc giỏi hơn chó săn đánh hơi cầy cáo. Những người ở trong sòng bạc đi ra, nhìn một cái, họ nhận biết ngay là ai được ai thua. Thấy ai được là họ lao ngay đến chìa tay, và nói những câu mà chỉ có những người chưa từng hiểu cờ bạc là gì, mới nhắm mắt mà đi qua được, chứ còn như ai đã đánh bạc thì thế nào cũng phải ném vào cái bàn tay đã chìa ra ấy chẳng ít thì nhiều. Thường có khi vớ được những món rất bở. Thì thốt nhiên được năm bảy vạn, cho đi một vài chục, nghĩa gì. Một vài chục thế nào? Có kẻ hứng cho hàng nghìn. Cái lối ăn xin cầu may như thế cũn ggần như là một cuộc cờ bạc. Bọn chuyên nghiệp thì không bị tẽn bao giờ, chứ bọn mới ra xin thì có khi vơ vào những ông bị thua không còn một xu dính túi. Ở đây, có những tay cố cựu, đã từng ăn xin ở cửa sòng này hàng chục năm. Sòng bạc dựng lên tại Ma Cao này hàng gần một trăm năm, thì ở những lề đường kia, tiên sinh thử tính xem đã xảy ra bao nhiêu là thảm kịch. Tòa nhà “Tai-Seng” đã tổ chức thành một thế giới lúc nào cũng vui vẻ - thì đành là đối với những người trong túi còn tiền – khiến cho người ta không cần phải bước chân xuống đường mà cũng tìm thấy đủ các thứ thú vị. Cứ ở trên đó không thôi, cũng có thể có chỗ tiêu hết bạc triệu, và sống hết ngày này qua tháng khác một cách rất đế vương. Thật là đủ cả. Hàng ăn, hàng cao lâu, hàng tạp hóa, buồng chớp bóng, nhà nhảy đầm, rạp hát, bể tắm, sân quần v.v… Thậm chí có cả phòng luật sư để ai có công việc kiện cáo cũng không phải đi đâu. Hẳn là những gái chơi thì phải nhan nhản như rừng rồi. Ở đây, đồng tiền làm chúa tể, đồng tiền vạn năng. Đồng tiền “xỏ lá” vô chừng, đồng tiền làm cho người ta lên tiên, mà đồng tiền cũng dìm người ta xuống đất. Ngài vừa ở trong phòng xí đi ra thì này, đã có những cô trẻ măng, ăn mặc cực kỳ lịch sự, sà ngay đến quỳ xuống, lấy những chiếc khăn trắng bông chùi đôi giày để cho đôi giày của quý ngài lúc nào cũng bóng lộn, không sợ đã vào trong đó mà bị nhớp nháp vì nước giải bắn vào. Chẳng qua các cô làm như thế để ngài phải ném ít nhất là mười đồng ra gọi là… đền công khó nhọc. Ngài đứng ở đâu, ngài vừa rút điếu thuốc lá thì đã có những cậu, những cô ăn mặc rất kẻng, sồ đến bật lửa lên. Có khi ba bốn người cùng sổ đến một lượt. Cái mũ, chiếc áo của ngài thật là được người ta săn sóc hơn chính ngài là chủ nhân của những vật đó. Trong khi người ta hầu hạ ngài những việc vặt ấy thì lẽ tất nhiên ngài là người lịch sự, ngài phải móc túi tiền ra cho họ không ít thì nhiều rồi. Chỉ là những cơ hội để làm nẩy tiền “buộc boa” mà ngài không thể không thưởng cho họ đấy thôi. Cũng có những ông khách rất đá, rút máy lửa bật lên trước, rồi mới rút thuốc lá ra sau. Nhưng cái số đó rất hiếm. Bởi đã “kẹo” như thế, thì lên đây để làm gì? Ở đây, tuy không có những luật ban bố bằng mực đen giấy trắng, bằng những dấu son, nhưng ở đây, có những luật mà người ta đã ngầm nhận cái giá trị của chúng. Một khi bước chân vào đây, không ai là không phải theo. Vì đi tàu bè bị gió bể làm rít da bứt rứt, khó chịu với lại trong bao nhiêu ngày trác táng, tôi bị mệt, tôi lên buồng trước để tắm. Lý tiên sinh thì còn bận nói chuyện với bè bạn là những nhân viên làm ở sòng bạc xúm đến hỏi thăm. Cô bồi buồng cởi xong quần áo cho tôi và tôi sắp sửa theo cô vào buồng tắm thì Lý tiên sinh lên. Lên đến nơi là tiên sinh kêu trời mà mắng tên bồi xếp trông coi từng thứ ba bằng đủ các thứ tên. Và nếu không có tôi vội vã chạy ra can thì y đã bị tiên sinh bợp tai rồi. Dọn ngay! Dọn ngay đi buồng khác! Mày không biết đây là bạn của tao, và tao cũng có lên ở đây hả? Thưa tiên sinh, quả tình là tôi không biết tiên sinh lên. Phòng quản lý ở dưới chỉ gọi dây nói lên cho tôi, bảo phải chọn cái phòng nào rộng nhất và sang nhất. Mà ở đây không còn buồng nào rộng và sang bằng số 13 này. Lý tiên sinh còn đang trong cơn tức giận: Dọn, dọn ngay sang buồng khác, không sang và hẹp một tí cũng không sao! Không ở buồng này! Tiên sinh cứ đứng ở cửa buồng mà quát, chứ không bước chân vào trong buồng, hình như tiên sinh sợ hãi rằng gian buồng có thể đổ lên đầu tiên sinh được: Đi, đem hành lý đi mau sang buồng khác. Lâm tiên sinh đi, ta đi sang buồng khác. Thấy thế bất giác tôi nhìn lên trần. Thì trần vẫn y nguyên không một vết rạn, những đường sơn kẻ xanh đỏ vàng thật là ăn ý với chiếc lọng đỏ tua màu quan lục: Gian buồng này đẹp lắm, hà tất phải dọn đi đâu. Lý tiên sinh hoảng hốt với tay vào kéo tôi ra: Không! Không thể ở buồng này được! Ta đi, ta phải đi chỗ khác! Tên bồi xếp, vừa dọn hành lý, vừa xin lỗi: Thật quả tình là con không biết có tiên sinh lên ở. Phòng quản lý không nói gì cho con biết cả. Chứ nếu con biết có tiên sinh lên, đời nào con dám để tiên sinh ở đây. Cúi xin tiên sinh tha lỗi cho con. Lý tiên sinh chưa hài lòng, mặt vẫn hằm hằm: Đi mau, dọn đi mau. Buồng nào cũng được, chứ không thể ở buồng này. Tôi kinh ngạc không hiểu cái thái độ lạ lùng ấy của Lý-Chí-Seng, nhưng tôi cũng không hỏi. Tôi cho là tiên sinh thấy tôi đòi đi chơi Ma Cao để đánh bạc, thì tiên sinh khó chịu, tiên sinh hiểu sự nguy hại của cờ bạc, tiên sinh không muốn cho tôi chơi, nên tiên sinh làm rắc rối ra như thế. Nhưng không phải. Khi chúng tôi đã dọn sang buồng khác rồi, tiên sinh mới xin lỗi tôi: Chắc tiên sinh phải lấy làm lạ về thái độ của tôi. Khi thấy tiên sinh ở buồng số 13, tôi hoảng sợ chỉ muốn cho tiên sinh ra khỏi ngay, cho nên tôi không kịp nói rõ duyên cớ cho tiên sinh nghe. Gian buồng ấy có huông. Đã bao nhiêu người bị thua bạc, rồi chết ở đấy. Cách đây ba năm, hồi tôi còn làm ở đây, cả một gia đình ba người đều tự tử ở đấy. Tiếp đến người thứ tư thì đâm đầu xuống bể, thật là thảm khốc quá. Ấy chính vì thấy thế mà tôi thôi làm hồ lỳ, không những thôi, tôi lại còn rút cả vốn ra, không chung phần với sàng nữa. Từ đấy, tôi về quê, và tôi khuyên tất cả họ hàng đừng làm nghề thất đức ấy nữa. Thật là cái nghề, sống bằng máu người và xương người… Mình chả làm thì người khác làm. Mình chả mở sòng thì người khác mở. Thà để người khác. Hơn hai mươi năm ở đây tôi đã mục kích bao nhiêu là thảm kịch, nhưng không có lần nào khốc hại bằng lần ấy. Vì tôi còn muốn đánh bạc, cho nên tôi không muốn nghe những thảm kịch. Không phải tôi sợ, tôi cho rằng như thế thì nó xui. Người nào đi đánh bạc mà không mê tín. Ồ, những người họ cay ăn cay thua mới đến nỗi thế, chứ tôi đánh chơi, hề quái gì. Lý tiên sinh thở dài: Ai lúc mới đánh mà không bảo là đánh chơi. Gian buồng chúng tôi ở, và hầu hết những gian phòng của sòng bạc “Tai-Seng” đều tổ chức để cho con người ta được hưởng toàn vẹn những “trận cười suốt đêm, những cuộc vui đầy tháng”. Bao nhiêu những sáng chế khoa học để làm cho sự sinh hoạt của con người được tiện lợi sung sướng thêm, đều có mặt ở đấy. Đủ cả. Lại toàn là những thứ xa xỉ bậc nhất. Lại rượu ngon, lại gái đẹp, lạ đàn bà hay, hát ngọt tất cả những thứ làm cho sự sống thêm hào hứng đều chỉ sẽ nhấc một ngón tay là có. Phương chi Lý tiên sinh lại là người trước kia đã làm hồ lỳ và có chung phần ở đây thì hẳn là chúng tôi phải được những thứ gì gọi là hạng nhất chứ. Có một cái khoái nhất là chúng tôi cứ nằm hút thuốc phiện nghe hát ở trên sập mà chúng tôi vẫn cứ đánh bạc như thường. Chúng tôi không phải mất một phút vui nào vào cuộc đỏ đen, mà cuộc đỏ đen đối với chúng tôi vẫn cứ chạy đều. Ấy, chính vì cách tổ chức này mà nhiều người lúc đầu thật không muốn chơi bạc, thế mà sau lâu dần hóa chết về cờ bạc đấy. Những cô đầu hát ở sòng bạc thì hẳn là phải phụng sự sòng bạc. Khách đến chơi đây, các cô mời khách đánh một tiếng chơi. Ngài vẫn cứ nằm bên cạnh gái, chứ ngài có phải bước chân xuống sòng đâu mà bảo ngài ngại. Và biết đâu, cô em mời ngài đánh tiếng ấy, ngài lại không được. Được cây ăn, thua cây gỡ, rồi dần dần, ngài bị ngoạm trong hàm con ác quỷ. Lúc ấy thì nó không buông tha ngài nữa, mà lúc ấy thì ngài phải bước chân xuống sòng bạc, hòa hẳn đời ngài vào với cuộc đỏi đen, chứ không thể nằm trên buồng mà đánh bạc cái lối tài tử như thế được nữa. Suốt một tuần lễ tôi ở Ma Cao, tôi chỉ đánh bạc lối tài tử ấy và may cho tôi, tôi không phải ra quá cái chỗ đó, mặc dầu có mấy lần, tôi bước chân hẳn vào sòng để xem cho biết. Cả họ Lý, vì thiết tha đến tương lai của đời tôi, cho một cái máy hãm đi theo kèm tôi cũng có, mà thành thật ra thì nhìn đến những cung cách của sòng bạc, tôi tự giác ngộ mà ghìm mình cũng có. Như tôi đã nói đồng tiền chúa tể và vạn năng ở chỗ này. Mà cả họ Lý đã chủ tâm đãi tôi thì hẳn là phải long trọng. Phương chi Lý tiên sinh lại là thổ công của đất Ma Cao. Cái giường thuốc phiện của chúng tôi đêm đó có cả “trẩm dục”, “mỹ nhân chúc” và “bình phong dục”. Bây giờ nghĩ đến, tôi mới biết thế là dã man, là tàn nhẫn, là làm cho con người thành con vật – cả người chơi và người là trò chơi – chứ hồi đó thì không. Tôi lại thấy thú, thú lắm. Bây giờ thì tôi cho người bỏ đồng tiền ra để được chơi như thế còn tội lỗi hơn là người vì đồng tiền phải hạ mình làm những trò chơi để mưu sống. Và thành thật khi nghe tin buôn người, buôn đàn bà con gái đã bị cấm ở Trung Hoa, tôi thấy vui như người vừa được mổ xong một cái nhọt. Trẩm dục là những gối thịt, thịt người. Mỹ nhân chúc là những cô con gái đồng trinh để cho khách gác chân. Và muốn cho khách vui mắt, người ta dàn những cô gái khỏa thân thành hàng ở bên giường khách nằm hút thuốc phiện gọi là bình phong dục. Thân con người mà làm cái gối, làm cái bình phong để cho thỏa thích những kẻ có tiền. Lại những cái gối ấy, những cái bình phong ấy không được nói. Khách hỏi chuyện cũng phải im. Là gối cơ mà, sao lại nói. Nói thì rồi khi khách về khỏi, thế nào cũng bị lôi thôi với mụ chủ. Các cô đã bị bán “quá phòng tử” cho mụ chủ thì thân các cô là ở trong tay mụ chủ rồi. Các cô là những nô lệ, mụ chủ có tất cả mọi quyền đối với các cô, mà các cô thì không có một quyền gì cả. Lối chơi thật đã cầu kỳ: người ta tìm ra đủ cách phụng sự thú tính, để “làm tiền” một cách mầu nhiệm. Trong khi người ta bán các khối thịt các cô cho khách, người ta bán luôn cả cái quyền được thẹn của con người. Thôi thì đã là thân cái gối, khách muốn gác lên đâu thì gác, giày đạp thế nào cũng không được hé răng. Người ta còn nói với tôi Trương Tôn Xương là một quân phiệt mà người Trung Hoa mệnh danh cho là “thịt chó tướng quân” – Họ Trương thích ăn thịt chó - ngoài cái lối trẩm dục, bình phong và mỹ nhân chúc. Trương còn thích chơi cái lối ống nhổ thịt nữa. Mỗi khi Trương khạc nhổ thì một cô con gái phải quỳ xuống, há miệng ra để đón lấy những bãi đờm rãi ấy. Họ Trương bắt chước cái lối của bạo chúa Tần Thủy Hoàng, cho rằng những thứ gì thánh thể mà tiết ra thì là những vật báu không thể để rơi ở đất cho bất cứ ai cũng có thể giẫm lên được. Người được cắt làm ống nhổ thịt ở đời Tần họ còn cho đó là một vinh dự. Cứ nghe Lý tiên sinh kể mà tôi tởm, tôi rùng mình nghĩ đến cái khối óc của đứa nịnh thần nào nó đã nghĩ ra được cách ấy để “hót” chủ. Tôi biết ý Lý-Chí-Seng tiên sinh không thích cho tôi đánh bạc, nhưng đến kinh đô cờ bạc mà không đánh bạc thì còn có nghĩa gì. Bỏ lỡ cái cơ hội ấy, chắc là rồi đây, tôi phải hối tiếc mãi. Với lại, tôi cũng muốn thử thách với thần may rủi trong lúc tôi tin rằng cái vận tấy đã đến. Phải rồi, biết bao nhiêu là người thất cơ lỡ vận chỉ vì tin như thế. Nhưng mặc, bao nhiêu là điềm lành đã báo hiệu, tôi cứ chắc rằng lần này thế nào tôi chủ có được. Tuy thế, tôi vẫn cứ thấy nể Lý tiên sinh là người, chẳng những quý tôi mà lại còn khuyên tôi những điều rất phải nữa, tôi vùng vằng mãi. Lý tiên sinh hiểu ý: Ông đánh chơi đi một tiếng. Sự hiểu ý ấy khiến tôi lại càng nể: Thôi, ta đánh vài tiếng chơi cho biết. Nếu may thì gọi là gỡ tiền sở phí. Tiên sinh tính xem chúng mình ở chơi một tuần thì xài phỏng độ bao nhiêu? Ít thì cũng phải tiền vạn. Thì ta đánh hẳn một tiếng một vạn. Nếu được thì thôi. Lý tiên sinh cười một cái cười héo quá: Lỡ thua thì sao? Thôi, tiên sinh hãy đánh một tiếng năm nghìn chứ. Tôi đánh năm nghìn. Một cô em gọi dây nói xuống sòng và biên tiếng bạc tôi đánh vào một cuốn sổ, biên cả giờ phút và đưa tôi ký. Cô không hỏi tôi tiền cọc, mà lúc ấy, vì say rượu quá, tôi cũng không nghĩ tới. TIếng ấy tôi được. Năm phút sau thì có người đem số tiền được lên cho tôi. Cô em ký nhận và giao số tiền đó cho tôi. Lúc ấy tôi mới nghĩ ra: Chắc có mặt Lý tiên sinh ở đây là… một đảm bảo chắc chắn, cho nên cô này mới không buộc tôi phải đặt cọc tiền trước. Quay sang cô em: Thế cô không bắt tôi đặt tiền cọc, nếu thua tôi không có tiền trả thì sao? Cô em cười tủm tỉm: Chúng em đâu dám vô lễ như thế. Lý tiên sinh đang nằm ngồi nhổm dậy: Có phải vì tôi đâu. Cờ bạc sát xương, có tình nghĩa và thể diện gì. Nếu người ta xét thấy tôi không có tiền thì dù tôi đánh một đồng, họ cũng cứ bắt tôi đặt tiền cọc như thường. Thế tại làm sao cô ấy không bắt tôi đặt tiền cọc? Hay cô ấy quên. Lý tiên sinh lắc đầu: Các cô em đây đều đã được huấn luyện chu đáo để tiếp khách đánh bạc, thì quên thế nào được. Lỡ quên một cái thì chính họ phải đền. Mà nếu có quên, thì người hồ lỳ ngồi ở dây nói cũng đã nhắc. Cô ấy không bắt tiên sinh đặt tiền cọc, bởi cô ấy biết tiên sinh có tiền. Sao cô ấy biết tôi có tiền? Năm nghìn không phải nhỏ. Sòng bạc ở đây vốn to lắm, không biết triệu nào mà kể. Sự tổ chức của họ có lẽ chi phối khắp cả Viễn Đông. Nói tỉ mỉ thì không biết thế nào cho cùng. Lúc nãy, lúc chúng ta ở trên tàu xuống, nhân viên Thương Chánh họ khám kỹ chúng ta như thế, chúng ta có bao nhiêu tiền trong người mà họ không biết. À, thế ra y đã báo cho sòng biết số tềin ở trong túi chúng ta. Đúng thế. Bao nhiêu người lên bến để đánh bạc, ai có bao nhiêu tiền, sòng đã biết gần hết. Thế ngộ như tôi mua ngân phiếu… Thì đã có nhà băng bảo. Vì họ biết như thế, cho nên họ mới lịch sự không hỏi tiền cọc trong những tiếng bạc nhỏ mà họ chắc rằng người ta có thể trả. Thế thì khiếp thật. Thế đã thấm vào đâu. Tôi có thể nói một người từ Thượng Hải, Hán Khẩu, Hồng Kông hay ở Bắc Kinh vừa định lên đây đánh bạc, sòng bạc đã biết trước rồi. Họ có nhân viên ở khắp các kinh đô, và các thị thành lớn, và thường là có cổ phẩn trong tất cả các khách sạn to. Ở mọi nơi, bằng đủ mọi cách, họ dụ những tay giàu có về đây đánh bạc. Và ta còn có thể nói, nhiều gia đình giàu sang ở cái đất này sống về sự làm mồi cho cờ bạc. Nhưng làm mồi… một cách rất thượng lưu. Người bị mồi chô có khi hết nghiệp rồi mà không biết. Thế thì nguy hiểm quá. Thì hẳn là nguy hiểm. Đấy, năm nào có một tay tôi chủ ở Phúc Kiến đến đây. Ông ta không thích đánh bạc. Ông ta có quen một người bạn có mấy cô con gái. Chính mấy cô con gái ấy tìm cách rủ được ông ta đến đây. Trước còn bé, sau to, sau vị tài chủ kia thua hàng trăm vạn. Mà cũng không biết. Những tổ chức như thế, hẳn là phải tốn tiền, mà số tiền ấy hẳn là chủ sòng không bỏ ra ở túi để vất không đi như thế cho vui lòng người. Thì hẳn là họ phải trút trên lưng con bạc. Nhưng cũng là tại chúng ta máu mê. Nhưng nếu không có sòng bạc. Những người họ dĩ nghệ cờ bạc thì tôi không nói. Nhưng có lắm người lương thiện xưa nay không hiểu cờ bạc là gì, mà đến đây chơi, rồi thì bị chết nhục nhã ở đây. Như cái gia đình đến ở gian phòng số 13 bên kia. Nói đến đây, cơ hồ như những kỷ niệm cũ lại làm cho Lý tiên sinh xúc động. Ồ, giá hồi ấy, ông ta có một người bạn đã hiểu biết mà ngăn ông ta thì có phải bao nhiêu sầu thảm đã tránh được. Mà bốn người không ib5 chết một cách oan uổng. Hồi ấy, dư luận đã một phen chấn động, sòng bạc đã vắng hẳn đi. Bây giờ cứ đi qua phòng số 13 là tôi sởn gai ốc. Tôi tưởng chừng như những con người xấu số ấy vừa mới chết hôm qua, hôm kia thôi. Rồi quay sang hỏi một cô lúc ấy đang gọt lê: Hồi vị tài chủ Vạn Ký ở Hán Khẩu tự tử, cô em đã có ở đây chưa nhỉ? Cô em đang gọt lê dừng tay: Có, nhưng tôi chưa được vào làm hẳn ở đây. Thỉnh thoảng tôi chỉ mới đến hát thôi. Tội nghiệp quá, lúc người con gái chết, thì chúng tôi cũng có đi đưa. Lúc ấy thì cô ta cũng là … chỗ chị em với chúng tôi rồi. Tôi chưa thấy cái thảm họa cờ bạc nào kinh khiếp đến thế. Thiếu gì. Nhưng ta không thấy rõ đấy thôi. Rồi tiên sinh nhìn về phía tôi: Cho nên người ta không biết sợ. Tôi tưởng giá ai mà biết chuyện ấy thì không bao giờ dám đánh bạc nữa. Thấy tôi vẫn lặng thinh, tiên sinh lại nói tiếp: Chính tôi thôi cái nghề hồ lỳ, cũng vì chuyện ấy. Cái nghề nó thất đức quá, cái nghề sống về xương máu con người ta. Một vị thiên kim tiểu thư đẹp như một bông hoa, chỉ vì người cha ngu dại, đâm đầu vào sòng bạc mà đến nỗi như thế thì ai mà không phải đứt ruột. Tôi hiểu Lý tiên sinh muốn kể chuyện đó cho tôi nghe để răn tôi, nhưng tôi cho rằng số tôi đang trong lúc may thì khi nào tôi chịu nghe để thôi đánh bạc. Số tôi may, nhưng không may vì được mà may ở chỗ câu chuyện tôi không muốn biết mà cứ phải biết. Cái may đến với đời tôi không đi qua cửa thần đen đỏ mà nó hiện đến trong cái lốc hãi hùng của những đồng tiền siết máu chúng đang quay tít chung quanh bốn mạng con người. Những con người rất thương yêu nhau, vì thương yêu nhau mà không thể sống sau cái chết của nhau. Những con người lương thiện, giàu tình cảm, đáng được sống một cuộc đời yên vui mà phải chết một cách thảm thương ở đồng đất nước người, chỉ vì có một người đã không hiểu rằng: cờ bạc là một cạm bẫy, mà sòng bạc là một cái hang hùm nó không buông tha cho ai bao giờ, nếu mình đã yếu đuối để cho sa vào đó. Câu chuyện xảy ra hãi hùng quá, đột ngột quá, thảm khốc quá khiến cho lòng tôi phải lạnh đi không còn dám nghĩ đến sự làm giàu bằng cờ bạc, không còn dám tin rằng có một vận đỏ dành cho người đánh bạc. Bây giờ thì tôi hiểu cờ bạc chỉ dành cho ta những tan nát về tâm hồn cũng như về vật chất, mà những người đánh bạc trong lúc đỏ cũng như trong lúc đen đều là bất hạnh cả. Người được bạc hay người thua bạc cũng đều là những người vô phúc. Họ đều là những người bị thua, bị mất mát rất nhiều mà họ không biết. Hay chỉ đến khi nào đã thân tàn ma dại mới biết. Lúc Lý tiên sinh muốn kể câu chuyện cho tôi nghe thì chỉ mới có ba người chết. Người thứ tư đến giữa lúc tôi đang muốn lao mình vào sòng bạc để bốc của trời. Đó là cái may nhất của đời tôi là ở chỗ đó. Sau nay suốt đời tôi không bao giờ đánh bạc nữa cũng vì thế. Lúc ấy vào khoảng một giờ đêm, Lý tiên sinh biết rằng không thể can tôi được, nên để mặ cho tôi đánh. Tôi đã thua hơn hai vạn rồi. Thua sáu tiếng liền rồi, đen lắm, nghỉ một tí đã tiên sinh ạ. Tôi đang cay, không nghe. Tiếng ấy tôi đánh một vạn rưỡi, tự nghĩ: “Mình được chọi dế những hơn năm vạn, có thua tiếng này thì cũng còn được gần hai vạn, cần cốc gì, giấy người, nứa người”. May quá tiếng ấy tôi được. A, nếu tôi nghe tiên sinh, có phải mất ăn không? Lý tiên sinh không biết nói làm sao, chỉ chắc lưỡi: Cờ bạc! Tôi lại đánh một tiếng nữa. Tôi lại được. Thế là chẳng những tôi đã gỡ hòa, tôi lại còn được gần một vạn. À, biết ngay là tôi không thể thua mà! Tôi vừa muốn đánh một tiếng nữa thì thốt nhiên ở buồng số 13, một tràng khóc thảm thiết nổi lên. Lý tiên sinh đang nằm, chồm ngay dậy, mặt tái mét. Mà những phì phà múi cũng sợ run lên. Chúng tôi cùng lắng tai. Thì không nghe thấy gì nữa. Lý tiên sinh lấy tay vuốt mặt: Những oan hồn chắc đêm nay lại về. Ả-Pắn trông coi từng gác này thường nói với tôi cứ những đêm mưa gió thì lại nghe thấy tiếng khóc ở trong cái buồng ấy. Tôi hoài nghi: Chết thì thôi… Nhưng cô phì phà múi cùng đồng thanh: Thật đấy, tiên sinh ạ! Những người bị chết oan, chết uổng như thế linh thiêng lắm. Cô Wa-Phá lại trẻ, lại đẹp như tiên thì hẳn là phải thành tinh. Cậu Wu-Heng cũng trẻ nữa. Tôi lắc đầu: Ô, nếu họ thành tinh thì họ đã báo oán giựt đổ tòa nhà “Tai-Seng” này rồi. Tôi vừa toan đánh tiếng nữa thì tiếng khóc lại bật lên rất to. Hình như người ta đã cố nén mà không nổi. Nhưng chỉ một tí lại im ngay. Lúc ấy thì tôi đã hơi rợn: Quái, nghe như tiếng người thật. Lý tiên sinh mặt rầu rầu: Chả người thật thì người giả à. Hay có ai đến thuê ở đấy? Một cô phì phà múi nói ngay: Không, lúc tối em đi qua, cửa vẫn đóng, đã có ai thuê đâu. Lần này tôi toan đánh thì Lý tiên sinh cương quyết can: Như thế là cái điềm nó bảo nên thôi. Thôi tiên sinh đừng đánh nữa. Đánh nữa thì thua cho mà xem. Tôi nể Lý tiên sinh, nhưng tôi cũng vẫn còn mê bạc: Ta thử xem có đúng không nhé. Tôi đánh bé xem sao? Tiếng này ba nghìn thôi. Một nghìn chứ! Lâm tiên sinh ạ. Thì tiếng ấy tôi thua thật. Lý tiên sinh mừng quá: Đấy, tôi đã bảo mà. Đúng là họ Vũ linh thiêng báo hiệu cho chúng ta biết là nên thôi đi mà. Thôi được như thế là may rồi, ta hãy nghỉ. Tôi nghe. Và đêm ấy tôi thôi không đánh nữa. Sáng hôm sau, lúc chúng tôi đang điểm tâm thì Ả-Phắn vào báo cho chúng tôi có bà Thập Hữu ở buồng số 13 muốn hỏi Lý tiên sinh có việc cần. À thì ra hôm qua lúc đêm khuya, có người đến thuê buồng số 13. Mà tiếng khóc đêm hôm qua là tiếng người, chứ không phải là tiếng ma. Nhưng tại làm sao bà Thập Hữu khóc? Thì năm phút sau, chúng tôi biết duyên cớ. Bà Thập Hữu năm ấy chừng gần 60. Cái phong thái của bà làm cho chúng tôi kính nể ngay. Càng kính nể khi chúng tôi biết mối đau to lớn của bà. À, thế ra bà là mẹ cậu Wu-Heng, cô ruột cô Wa-Phá, và là chị vợ ông Vạn Ký. Bà Thập Hữu nấc lên khóc: Vâng chúng tôi cả gia đình bị thổ phỉ giết hại, chỉ còn có hai chị em, vì hôm ấy, sang ăn cưới người chị họ ở Hán Khẩu mà thoát chết. Em gái tôi thì về làm dâu họ Vũ, lấy ông Vạn Ký chỉ có một cháu gái. Tôi lấy chồng, rồi sang Mỹ, chồng tôi cũng đã mất, chỉ sinh được một cháu trai. Nay tất cả đều chết hết ở đây rồi, tôi chỉ còn trơ trọi có một mình thôi. Bà nói xong, khóc ngất đi. Tôi chưa rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, nhưng cứ nhìn và nghe bà Thập Hữu, tôi cũng cảm thấy rằng trong cảnh ấy, không còn gì làm vợi lòng cho con người ta bằng nước mắt. Có lẽ Lý tiên sinh cũng cảm nghĩ như tôi, nên tiên sinh cũng không tìm lời an ủi người xấu số. Chờ khi tiếng khóc đã hơi dịu, Lý tiên sinh mới ôn tồn: Những việc đau xót xảy ra cho gia đình bà, tôi có biết rõ. Chính vì việc ấy làm cho tôi xao xuyến, mà tôi thôi không làm nghề hồ lỳ ở sòng bạc này nữa. Tôi về quê tôi làm ăn. Nay tôi lên đây là đưa người bạn đi chơi thôi. Nếu có việc gì bà cần đến tôi, tôi xin hết sức giúp, không từ nan một điều gì. Nhưng tại làm sao bà lại thuê gian phòng số 13 ấy? Tất cả những người thân của bà đều chết ở gian buồng ấy đấy. Thảo nào, đêm qua, tôi cứ như người… thế nào ấy. Nào tôi có biết gì. Tàu cập bến thì đã khuya lắm. Tôi đến đây thuê buồng thì người ta đưa tôi lên đây. Thế ra tiếng khóc đêm qua tôi nghe là tiếng bà… Vâng, tôi không muốn khóc mà cứ phải khóc. Lòng tôi khổ quá, không tài nào mà nén được. Tôi hỏi người bồi buồng thì y nói cho tôi biết ông là người tốt và hồi đó, ông ở đây, ông cũng có trông nom hộ. Tôi muốn ông chỉ cho tôi biết mồ mả của người nhà chúng tôi để chúng tôi cải táng và xây đắp chế tử tế, chứ từ nay đất khách quê người… Chạm đến nỗi thương tâm, bà Thập Hữu lại khóc. Điều ấy, tôi có thể giúp bà. Chính tôi đã quyên tiền anh em để chôn cất tất cả tử tế. Lúc cậu Wu-Heng sang đến đây, cậu cũng có nhờ tôi giúp. Tôi cũng đã chỉ đường vẽ lối cho cậu. Nhưng số tiền bán cho mụ dầu những hơn hai vạn, mà lúc ấy thì cậu không sẵn có. Cháu có viết thư về bảo tôi xoay, nhưng tôi chưa chạy đủ để gửi sang thì đã được tin chẳng lành rồi. Từ lúc bé, chị em tôi nghĩ họ hàng chả còn ai, đã định cho chúng nó lấy nhau, ông Vạn Ký cũng bằng lòng. Tôi đã cho cháu sang ở với chú cháu bốn năm năm. Khi cha nó ốm ở Mỹ, tôi mới viết thư cho nó về. Tôi chỉ băn khoăn không hiểu tại sao chúng nó lại tự tử mà không chờ tôi gửi tiền sang để chuộc em nó ra. Lý tiên sinh ngập ngừng một giây để lựa lời: Cái cảnh nó éo le quá. Có lẽ cô Wa-Phá nghĩ cực thân và xấu hổ mà không muốn sống nữa. Còn cậu Wu-Heng sau khi thấy cô chết thì cũng thất vọng vì thương cô bị chết oan. Muốn hiểu rõ câu chuyện này và những chi tiết nó đã đưa đến tấn thảm kịch, chúng ta phải hiểu cái xã hội Trung Hoa hồi đó. Hồi đó, cái nạn quân phiệt, nạn thổ phỉ cùng với nạn buôn người, nạn đói làm cho người dân Trung Hoa như sống trong chảo dầu sôi. Họ hàng nhà bà Thập Hữu bị giết hết ở quê nhà bởi tay thổ phỉ. Hai chị em vì lên Hán Khẩu ăn cưới người chị họ mà được thoát. Bà Thập Hữu lấy chồng rồi theo chồng sang Mỹ làm ăn. Người em thì lấy ông Vạn Ký. Bà Vạn Ký vừa đẹp, vừa nết na, nên được chồng thương yêu vô cùng. Hai vợ chồng hiếm hoi, chỉ sinh được một mụn con gái. Theo phong tục bên Trung Hoa, những người nhà giàu lấy năm, lấy bảy. Ấy thế mà ông Vạn Ký không có con trai, ông cũng không lấy vợ lẽ thì đủ hiểu ông thương yêu vợ con đến thế nào. Năm con gái ông là cô Wa-Phá mười sáu thì bà Vạn Ký bị bệnh chết. Ông Vạn Ký thương xót tưởng chừng có thể chết theo được. Ông cũng không nghĩ đến sự tục huyền để mong có con trai nối dõi tông đường; bao nhiêu tình yêu vợ, ông trút cả vào tình thương con gái. Họ hàng đã không có ai ở Hán Khẩu, gia đình lại quạnh hiu chỉ có bố với con, ông bèn nghĩ đến sự đem con sang Mỹ để ở với bà Thập Hữu cho vui vẻ. Sở dĩ, ông nghĩ như thế, một là vì ở Hán Khẩu, sự sống không chắc chắn, không biết các ông tướng quân đánh nhau cướp tỉnh lúc nào, hai là ông đã hứa gả con gái ông cho cậu Wu-Heng là con trai bà Thập Hữu. Hai trẻ rất thương yêu nhau. Cậu Wu-Heng đã ở với ông trong bốn năm, mãi tới khi được tin ông Thập Hữu chết, mới trở về Mỹ. Bà Thập Hữu không giàu, nhưng đất nước Mỹ là nơi người ta có thể sống chắc chắn yên ổn, chứ không sợ bị bắt cóc hay bị những tai nạn bất ngờ gây ra bởi nạn quân phiệt như ở Hán Khẩu. Khi ông Vạn Ký ngỏ cái ý ấy cho con gái thì cô Wa-Phá mừng rỡ: Á, thế là từ nay đã có già trông nom cho con, trông nom cho cả pá nữa. Cô sung sướng nghĩ đến ý trung nhân, vui sướng nghĩ đến bà Thập Hữu, và cái đời sống tốt đẹp ở Mỹ mà cậu Wu-Heng thường tả cho cô nghe. Ông Vạn Ký muốn cho con gái chóng thành gia thất, vì ông biết cậu Wu-Heng có thể đem hạnh phúc đến cho đời con gái ông, nên ông thực hành ngay cái ý định ấy. Ông bán hết gia sản được hơn bốn trăm vạn, rồi hai cha con đem nhau đi. Lỡ một chuyến tàu! Tất cả thảm họa xảy ra chỉ vì lỡ một chuyến tàu. Chuyến tàu từ Hán Khẩu đi Ma Cao, ra tới bể thù gặp bão, chậm mất một ngày. Vì thế khi chiếc Nam Wa cập bến Ma Cao thì chiếc The California vừa nhổ neo đi sang Mỹ. Hai chiếc gặp nhau ở giữa bể rúc còi chào nhau. Tiếng còi báo hiệu của số mệnh. Ông Vạn Ký đã dự định rất kỹ càng trong cái chương trình xuất dương, nhưng ông không dự tính được đến trận bão ấy. Ông đã hỏi rõ các ngày giờ tàu chạy, ông định khi chiếc Nam-Wa cập bến là ông lên ngay tàu The California. Ai ngờ! Chiếc The California đi rồi, mười bốn ngày nữa mới lại có chuyến tàu khác sang Mỹ. Cái không may cho ông là ông lại vào trọ ở nhà “Tai-Seng”, một nơi vừa là khách sạn, vừa là sòng bạc. Gọi là không may cho ông thôi, nhưng thật ra những cái không may như thế là một sự cố ý của sòng bạc. Trừ những người đã nói rõ địa chỉ, còn thì bất cứ khách nào ở tàu xuống, cần phòng ngủ thì tất cả phu xe cũng đều kéo tới nhà Tai-Seng. Chúng nó được ăn tiền cơ mà. Ấy là chưa kể tới nhà Tai-Seng đã phát những tay rất thạo ra đón khách tại bến tàu.