rthur tỉnh dậy vào khoảng giữa trưa. Mặt trời đứng bóng ấm áp toả vào qua cửa sổ phòng khách. Anh tự làm cho mình một bữa sáng qua loa rồi gọi vào máy điện thoại di động của Paul. - Chào Baloo, - bạn anh nhấc máy nói – tớ thấy là cậu đã ngủ hết một vòng đồng hồ rồi đấy. Paul rủ anh đi ăn trưa, nhưng Arthur đã có một dự định khác trong đầu. - Tóm lại, - Paul bảo – tớ được chọn giữa việc để cậu đi bộ đến Carmel và việc chở cậu đến đó à? - Không phải thế! Tớ muốn rẽ qua xưởng của ông bố dượng cậu để lấy lại chiếc xe Ford rồi bọn mình cùng đi đến đó luôn. - Ôtô của cậu đã không chạy từ đời nảo đời nào rồi, cậu muốn ngày nghỉ cuối tuần phải ở trên đường cao tốc để đợi xe cứu trợ đến kéo đi hay sao? Nhưng Arthur nhắc bạn nhớ rằng chiếc ôtô này đã từng có những giấc ngủ dài hơn, thêm nữa, anh biết là bố dượng Paul vốn rất say mê xe cổ, thể nào ông ấy cũng đã sửa sang lại cái xe này rồi. - Cái xe Ford cũ kỹ đời 60 của tớ còn khoẻ mạnh hơn cái mui trần thời tiền sử của cậu đấy. Paul nhìn đồng hồ, anh còn vài phút để gọi điện thoại đến xưởng sửa chữa. Trừ phi có điều gì phản đối, Arthur cứ việc đến thẳng chổ đó gặp anh. Ba giờ chiều, hai người bạn gặp nhau trước cửa xưởng, Paul tra chìa khoá vào ổ vặn rồi đi vào xưởng. Giữa những chiếc xe cảnh sát đang sửa chữa, Arthur như nhận ra một chiếc xe cấp cứu cũ kỹ đang nằm im lìm dưới tấm vải bạt. Anh tiến lại gần để lật một góc bạt lên. Cái mũi xe có một vẻ gì gợi nhớ. Arthur đi vòng quanh chiếc xe, ngập ngừng rồi cuối cùng bèn mở cửa sau của xe ra. Phía trong khoang sau, dưới lớp bụi dày, có một chiếc cáng khơi dậy biết bao kỉ niệm, khiến cho Paul phải cao giọng để kéo Arthur ra khỏi những mộng mơ: - Quên cỗ xe bí đỏ ấy đi, Lọ Lem, ra đây, phải đẩy ba cái xe ra mới lấy được con Ford của cậu. Đi Carmel thì đi, nhưng không nên đến sau lúc mặt trời lặn! Arthur đậy lại tấm bạt, anh xoa nhẹ lên mui xe và thì thầm: “Tạm biệt Daisy”. Bốn cú nhấn chân ga, vừa mới khọt khẹt ba tiếng là động cơ của chiếc Ford bắt đầu kêu rù rù. Sau vài thao tác của Arthur và chừng ấy câu chửi thề của Paul, chiếc xe break rời xưởng và đi lên phía bắc thành phố để ra con đường số 1 chạy dọc Thái Bình Dương. - Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à? – Paul hỏi. Thay cho mọi câu trả lời, Arthur mở cửa sổ; một luồng gió ấm tràn vào buồng lái. Paul vỗ vỗ vào gương chiếu hậu, làm ra vẻ như đang thử micro. - Một, hai, một hai ba, a, được đấy chứ, thử lại lần nữa xem nào… Cậu vẫn nghĩ đến cô ta à? - Cũng có lúc – Arthur trả lời. - Có thường xuyên không? - Một chút buổi sáng, một chút buổi trưa, một chút buổi tối, một chút ban đêm. - Cậu đi Pháp để quên cô ta là rất phải, cậu có vẻ khỏi hẳn rồi đấy! Thế ngày nghỉ cuối tuần cậu cũng nghĩ đến cô ta à? - Tớ có bảo cậu là tớ tự bắt mình không được sống đâu, cậu muốn biết tớ có còn nghĩ đến cô ấy không, tớ đã trả lời cậu, vậy thôi. Tớ có vài cuộc dan díu, nếu như điều đó có thể làm cậu yên tâm ; mà thôi đổi đề tài đi, tớ không muốn nói đến chuyện đó. Ôtô chạy về hướng vịnh Monterry, Paul nhìn những bãi biển Thái Bình Dương lướt qua ngoài cửa sổ ; chặng đường tiếp theo trôi qua hết sức yên lặng. - Tớ hy vọng là cậu không định tìm cách gặp lại cô ta chứ? – Paul hỏi. Arthur không nói một lời và sự yên lặng lại ngự trị trong xe. Phong cảnh thay đổi luân phiên giữa những bãi biển và những đầm lầy với điền viền là con đường rải nhựa. Paul tắt cái đèn cứ kêu rèng rẹc mỗi khi xe ngang giữa hai quả đồi. - Tăng tốc lên, mặt trời sắp lặn mất rồi! - Mình còn những hai tiếng cơ mà, cậu có tâm hồn yêu thiên nhiên từ bao giờ thế? - Tớ cần quái gì ngắm cảnh hoàng hôn! Cái mà tớ quan tâm là các em gái trên bãi biển ấy chứ! Mặt trời đã bắt đầu xế bóng, ánh nắng lọt qua các tầng của giá sách nhỏ che khuất cửa sổ ở một góc phòng khách. Lauren đã ngủ một giấc dài buổi chiều. Cô nhìn đồng hồ rồi đi vào buồng tắm. Cô rửa mặt, mở tủ và đứng lưỡng lự trước một chiếc quần thể thao. Cô chẳng có mấy thời gian để ra chạy ở khu Marin nếu muốn đến ca trực đêm của mình đúng giờ, nhưng cô cần hít thở không khí ngoài trời. Cô mặc quần áo vào, thôi kệ bữa ăn tối, giờ giấc của cô chẳng ra làm sao cả, cô sẽ ăn tạm cái gì đó dọc đường vậy. Cô ấn nút trả lời tự động của máy điện thoại. Có tin nhắn của anh bạn trai nhắc cô tối nay hai người sẽ phải đến dự buổi chiếu bộ phim tài liệu mới nhất của anh ta. Cô xoá tin nhắn khi còn chưa kịp nghe đến đoạn Robert hẹn giờ. Chiếc Ford rời đường số 1 đã được một lúc. Hàng rào của các khu biệt thự đã hiện lên xa xa trên đồi, Arthur rẽ sang hướng đi Carmel. - Còn khối thòi gian, dừng lại nghĩ tí đã – Paul nói. Nhưng Arthur không chịu vòng xe lại, anh đã có dự định khác trong đầu. - Lẽ ra tớ phải mua lấy bộ quần áo – Paul nói tiếp – Thử tưởng tượng là chúng mình lách vào được giữa đám mạng nhện, thì trong nhà cũng hơi bốc mùi ẩm mốc nhỉ? - Có những lúc tớ cứ tự hỏi chẳng biết có khi nào cậu lớn lên được không. Cái nhà ấy được lau dọn thường xuyên, có cả vải trải giường sạch trong giường đấy. Ở Pháp người ta có điện thoại, cậu biết đấy, có cả máy tính, Internet và tivi nữa. Chỉ có ở căng tin của Nhà Trắng người ta mới còn tưởng rằng dân Pháp không có nước máy thôi! Anh rẽ vào con đường dẫn lên đỉnh một quả đồi, phía trước họ hiện ra hàng rào sắt của khu nghĩa địa. Arthur vừa xuống xe, Paul đã chui luôn vào ngồi sau tay lái. - Này, trong ngôi nhà kỳ diệu được lau dọn khi cậu vắng mặt ấy, bếp và tủ lạnh tuy thế cũng vẫn không đồng ý làm bữa tối cho chúng mình ăn phải không? - Không, việc này chưa được lo liệu trước. - Được, thế thì phải đi mua vài thứ trước khi hàng quán đóng cửa hết. Tớ sẽ quay lại sau, - Paul nói bằng một giọng vui vẻ - với lại tớ muốn để cho cậu có vài phút riêng tư với mẹ cậu. Có một cửa hàng thực phẩm cách đó hai cây số, Paul hứa sẽ về thật nhanh. Arthur nhìn chiếc xe đi xa dần, một làn bụi bốc lên sau bánh xe. Anh quay lại và bước về phía cổng. Ánh trời dìu dịu, linh hồn Lili dường như lẩn quất xung quanh anh, như điều vẫn thường xảy ra sau khi bà mất. Đi đến cuối con đường, anh nhìn thấy phiến đá trên mộ trắng lên dưới ánh mặt trời. Arthur nhắm mắt lại, hương bạc hà dại thoang thoảng trong vườn. Anh bắt đầu nói khẽ… Con nhớ một hôm trong vườn hồng. Con ngồi chơi trên đất, lúc ấy con sáu tuổi, cũng có thể là bảy. Đó là thời kì ngay trước năm cuối cùng của mẹ con mình. Mẹ từ trong bếp đi ra ngồi dưới mái hiên. Lúc ấy con chưa nhìn thấy mẹ. Bác Antoine đã ra bờ biển, con bèn lợi dụng lúc bác ấy vắng mặt để chơi một trò bị cấm. Con xén hoa hồng bằng cái kéo của bác ấy, to quá cỡ đối với tay con. Mẹ đã rời khỏi chiếc ghế xích đu và bước xuống bậc thềm để ngăn cho con khỏi bị đau. Khi con nghe thấy những tiếng bước chân mẹ, con cứ tưởng mẹ sẽ hét lên, vì con đã phụ lòng tin mà mẹ đã dễ dàng dành cho con, mẹ sẽ tước cái kéo khỏi tay con như tước tấm huân chương từ kẻ không còn xứng đáng. Nhưng hoàn toàn không phải thế, mẹ ngồi xuống cạnh con và mẹ nhìn con. Rồi mẹ cầm tay con đưa dọc theo cành hoa. Bằng một giọng nói đã được nụ cười làm dịu đi, mẹ dặn con bao giờ cũng phải cắt phía trên mắt cây để khỏi làm hoa bị đau ; rằng người ta không bao giờ nên làm đau một bông hoa hồng, phải thế không? Nhưng có ai nghĩ đến cái làm cho con người đau? Mắt mẹ con mình gặp nhau. Mẹ lấy ngón tay nâng cằm con rồi hỏi con có cảm thấy cô đơn không? Con lắc đầu để nói là không, với tất cả sức lực cần phải có để xua đi một sự dối trá. Không phải bao giờ mẹ cũng đến được với con trong cái khoảng cách tuổi tác giữa mẹ con mình như con tự sắp xếp theo cách của con. Mẹ ơi, mẹ có tin vào một định mệnh thúc đẩy con người ta lặp lại đúng những cách hành xử của cha mẹ họ không? Con nhớ những lời của mẹ trong bức thư cuối cùng mà mẹ để lại cho con. Con cũng thế, con đã bỏ cuộc, mẹ ạ. Con không thể tưởng tượng được là con có thể yêu như đã yêu nàng. Con tin nàng như tin vào một giấc mơ. Khi giấc mơ tàn, con cũng biến mất theo. Con đã nghĩ rằng mình hành động một cách dũng cảm, một cách hy sinh, nhưng lẽ ra con có thể không chịu nghe theo tất cả những người đã ra lệnh cho con không được gặp nàng. Tỉnh dậy sau một cơn hôn mê dài cũng giống như sống lại. Lauren cần có gia đình của nàng ở bên. Và gia đình duy nhất của Lauren là mẹ nàng và anh bạn trai mà nàng đã nối lại quan hệ. Con là ai đối với nàng nếu không phải là một người xa lạ? Dù thế nào đi nữa, con cũng không phải là người sẽ cho nàng biết rằng tất cả những người xung quanh nàng đã đồng ý để cho nàng chết! Con không có quyền phá vỡ sự cân bằng bấp bênh mà đang rất cần. Mẹ nàng đã van xin con đừng nói với nàng rằng bà ấy cũng đã bỏ cuộc. Bác sĩ phẫu thuật thần kinh khẳng định với con rằng điều đó sẽ gây ra một cơn sốc khiến cho nàng không thể hồi phục được. Bạn trai của nàng, người đã trở lại trong đời nàng, là rào cản cuối cùng dựng lên giữa nàng và con. Con biết mẹ nghĩ gì. Sự thật không phải là ở đó, nỗi sợ có rất nhiều. Con cần phải có thời gian để tự thừa nhận rằng con đã sợ không đưa được nàng đến tận cùng giấc mơ, sợ không xứng đáng với những giấc mơ ấy, sợ không thể thực hiện được chúng, sợ rốt cuộc chẳng phải là người đàn ông mà nàng chờ đợi, sợ phải tự thừa nhận rằng nàng đã quên con. Con đã nghĩ ngàn lần là sẽ tìm lại nàng, nhưng giờ đây con lại sợ rằng nàng sẽ không tin con, sợ không biết cách tái tạo tiếng cười chung cho hai người, sợ nàng không còn là người mà con đã từng yêu, và nhất là sợ lại mất nàng thêm lần nữa, điều đó, con sẽ không chịu đựng nổi. Con bỏ đi sống ở nước ngoài để tránh xa nàng. Nhưng chẳng có khoảng cách nào là đủ xa khi người ta yêu. Chỉ cần có một phụ nữ trên đường hao hao giống nàng là con lại nhìn thấy nàng đang bước đi, là tay con lại nguệch ngoạc viết tên nàng lên một mảnh giấy để làm nàng xuất hiện, là con lại nhắm mắt lại để nhìn thấy mắt nàng, là con lại thu mình trong im lặng để nghe giọng nói của nàng. Và trong lúc đó, con đã làm hỏng một cái đồ án đẹp nhất trong sự nghiệp của con. Con đã xây một trung tâm văn hoá có mặt tiền ốp toàn gạch vuông, trông như một bệnh viện! Khi bỏ đi đến nơi ấy, con cũng đã trốn chạy sự hèn nhát của mình. Con đã bỏ cuộc, mẹ ơi, mẹ có biết con giận bản thân mình đến thế nào không. Con sống trong sự mâu thuẫn của niềm hy vọng rằng cuộc đời sẽ lại đưa con và nàng đến bên nhau, mà chẳng biết rằng liệu con có dám nói với nàng không. Giờ đây, con phải tiến lên, con biết là mẹ sẽ hiểu con đang định làm gì với ngôi nhà của mẹ và mẹ sẽ không giận con. Nhưng mẹ đừng lo, mẹ ạ, con sẽ không quên rằng sự cô độc là một mảnh vường chẳng có gì đâm chồi trong đó. Dù rằng hôm nay con sống không có nàng, con cũng sẽ không bao giờ đơn độc, bởi vẫn có nàng ở một nơi nào đó. Arthur vuốt nhẹ phiến đá cẩm thạch trắng rồi ngồi xuống mép đá còn ấm ánh nắng ban ngày. Dọc bức tường cạnh mộ Lili có mọc một cây nho. Mỗi mùa hè cây đơm được vài chùm quả cho những chú chim của Carmel đến mổ. Arthur nghe thấy tiếng bước chân lạo xạo trên sỏi, anh quay lại và thấy Paul ngồi xuống trước một tấm bia cách anh vài mét. Anh bạn của Arthur cũng cất tiếng nói bằng một giọng tâm tình: - Tình hình không lấy gì làm tốt, bà Tarmachov nhỉ. Mộ bà ở trong tình trạng thế này thì thật đáng hổ thẹn! Cũng đã lâu lắm rồi, nhưng tôi chẳng có lỗi gì trong chuyện này đâu, bà biết đấy. Vì một cái cô mà hắn ta chỉ nhìn thấy phần hồn, cái thằng u mê kia đã quyết định bỏ rơi bạn thân nhất của hắn. Thôi được, đây nhé, muộn còn hơn không, tôi đã mang đến mọi thứ cần thiết đây. Paul lấy từ cái túi mua hàng ra bàn chải, xà phòng dạng nước, một chai nước và bắt đầu hùng hục cọ phiến đá. - Tớ có thể biết cậu đang làm cái gì không? – Arthur hỏi. – Cậu quen cái bà Tarmachov này à? - Bà ấy chết từ năm 1906! - Paul, cậu không muốn thôi những trò ngu ngốc của cậu đi mấy giây sao? Dù sao thì đây cũng là nơi mặc tưởng! - Thì tớ đang mặc tưởng, trong lúc lau chùi! - Trước mộ một người không quen? - Nào có phải là một người không quen đâu, ông bạn – Paul vừa nói vừa đứng dậy. – Sau bao nhiêu lần cậu bắt tớ đi với cậu đến nghĩa trang để thăm mẹ cậu, chẳng lẽ cậu lại còn định giở trò ghen tuông ra với tớ vì tớ đã làm thân đôi chút với hàng xóm của mẹ cậu hay sao! Paul giội nước rửa phiến đá đã trắng lại và ngắm nghía công trình cũng mình, vẻ tự bằng lòng. Arthur sửng sốt nhìn bạn rồi cũng đứng dậy theo. - Đưa tớ chìa khoá xe! - Tạm biệt bà Tarmachov, - Paul nói – bà đừng lo, hắn ta rời khỏi đây với cái vẻ thế này thì từ nay đến Noel ít ra ta còn gặp lại nhau hai lần nữa. Đằng nào thì chỗ bà cũng còn sạch được cho đến mùa thu. Arthur khoác tay bạn. - Tớ có những việc quan trọng muốn nói với bà ấy. Paul kéo bạn đi ra phía cổng lớn bằng sắt của nghĩa địa. - Nào, đi thôi, tớ đã mua một miếng sườn bò mà cậu sẽ phải nắc nỏm khen ngon cho mà xem! Ở phía dãy mộ nơi Lili yên nghỉ, thấp thoáng bóng ông già làm vườn đang cào sỏi. Arthur và Paul bước đến bên chiếc ôtô đậu ở phía dưới. Paul nhìn đồng hồ. Mặt trời sắp lặn xuống sau đường chân trời. - Cậu lái hay tớ lái? – Paul hỏi. - Lái cái xe Ford cũ của mẹ tớ ấy à? Cậu lại đùa rồi, lúc nãy là ngoại lệ thôi! Ôtô đi xa dần trên con đường dọc quả đồi. - Tớ cần quái gì phải lái cái xe Ford cũ rích của cậu. - Thế sao lần nào cậu cũng cứ hỏi tớ? - Cậu làm tớ ngứa tiết! - Cậu có muốn tối nay nướng miếng sườn bò của cậu trong lò sưởi không? - Không, tớ thích nấu ở trong phòng sách hơn! - Hay là sau khi từ bãi biển về, mình ra bến cảng chén tôm hùm nhỉ? – Arthur đề nghị. Chân trời đã biến thành một vạt lụa màu hồng nhạt kết từ những dải ruy băng dài nối bầu trời với đại dương. Lauren chạy đến hụt hơi. Cô dừng lại nghỉ lấy sức, ngồi xuống chiếc ghế băng đối diện với một bến cảng du thuyền nhỏ, ăn miếng xăng đuých. Những cột thuyền buồm đong đưa dưới làn gió nhẹ. Robert hiện ra trên lối đi, tay đút túi quần. - Anh đã biết trước là sẽ tìm thấy em ở đây mà. - Anh có tài nhìn xuyên suốt hay anh thuê người theo dõi em đấy? - Chẳng cần phải là thầy bói mới biết – Robert vửa nói vừa ngồi xuống ghế băng. – Anh biết em mà, khi em không ở bệnh viện hay ở trên giường, thì là em đang chạy. - Em phải giải toả! - Em giải toả cả anh nữa hả? Em không trả lời điện thoại của anh. - Robert, em không muốn nói lại chuyện này tí nào cả. Vào năm học mới, thời kỳ bác sĩ nội trú của em sẽ chấm dứt, em còn có bao nhiêu việc phải làm nếu em muốn có cơ hội được tuyển vào biên chế. - Em chỉ có mỗi tham vọng nghề nghiệp thôi. Từ khi em bị tai nạn, mọi sự đã thay đổi. Lauren ném mẩu bánh xăng đuých còn thừa vào một thùng rác bằng giấy, cô nhỏm dậy buộc lại dây giày thể thao của mình. - Em cần xả hơi, anh không giận nếu em tiếp tục chạy chứ? - Đi nào – Robert giữ tay cô lại, nói. - Đi đâu? - Thì cứ nghe theo anh một lần cũng tốt chứ sao? Anh rời chiếc ghế băng và khoác vai cô vẻ che chở, kéo cô ra chỗ đậu xe. Một lát sau, ôtô đi xa dần về phía Pacific Heights. Hai chiến hữu chiếm chỗ ở cuối đoạn đê chắn sóng. Những con sóng như loang loáng vệt dầu, bầu trời đã trở thành màu lửa. - Tớ không muốn xen vào những việc không liên quan đến tớ, nhưng phòng nhỡ cậu không nhận ra, thì mặt trời lặn ở phía kia cơ – Arthur nói với Paul khi anh chàng đang quay mặt nhìn lên trên bờ biển. - Cậu xen vào như thế là rất phải! Mặt trời của cậu có nhiều khà năng sẽ xuất hiện ở đây sáng mai, nhưng còn hai em gái kia thì không chắc là như vậy đâu. Arthur ngắm nhìn hai phụ nữ trẻ ngồi trên cát, họ đang cười. Gió thổi tung mái tóc một cô, cô kia đang dụi mắt vì bị cát bay vào. - Cái ý đi chén tôm hùm hay đấy – Paul vỗ vỗ vào đầu gối của Arthur, nói – Tớ ăn nhiều thịt quá, ăn một chút cá sẽ rất có lợi. Những ngôi sao đầu tiên đã mọc trên vòm trời của vịnh Monterrey. Trên bãi biển, có vài đôi còn tận hưởng khoảng khắc yên tĩnh. - Tôm hùm là loài thân giáp chứ - Arthur vừa nói vừa rời con đê. - Cái bọn tôm hùm này điêu thật! Thế mà chúng nó lại nói với tớ khác hẳn cơ! Này, em gái bên trái đúng là kiểu cậu thích đấy, em ấy trông hơi giống tiểu thư Casper, còn về phần tớ, tớ sẽ tiếp cận em bên phải – Paul vửa nói vửa bước đi. - Em có chìa khoá không? – Robert lục túi quần và hỏi. – Anh để quên chìa khoá ở phòng làm việc rồi. Cô bước vào nhà trước. Cô chỉ muốn tráng qua người cho mát, để mặc Robert ở phòng khách. Vừa ngồi xuống đi văng, anh đã nghe thấy tiếng nước chảy trong buồng tắm. Robert khẽ đẩy cửa phòng ngủ. Anh vứt lần lượt từng cái quần áo lên giường rồi rón rén đi sang buồng tắm. Chiếc gương phủ đầy hơi nước. Anh kéo rèm và bước vào khoang tắm hoa sen. - Em có muốn anh cọ lưng cho em không? Lauren không trả lời, cô áp sát người vào vách đá hoa. Một cảm giác dễ chịu lan trên bụng cô. Robert đặt tay lên gáy cô và xoa bóp vai cô rồi ôm cô thật dịu dàng. Cô cúi đầu xuống và thả mình theo những cái vuốt ve của anh. Người trưởng nhóm phục vụ xếp cho họ ngồi đối diện với khoang cửa kính. Onega cưới khi nghe Paul kể chuyện. Thời thơ ấu trải qua cùng với Arthur trong trường nột trú, những năm đại học, buổi ban đầu của công ty kiến trúc mà họ cùng nhau tạo lập… Câu chuyện đủ để Paul mua vui cho các vị khách của mình đến hết bữa ăn. Arthur ngồi lặng lẽ, cặp mắt mơ màng hướng ra biển. Khi người phục vụ mang những con tôm hùm to kềnh càng đến, Paul lấy chân đá một cú dưới gầm bàn vào Arthur: - Anh có vẻ đang để đầu óc ở chổ nào ấy nhỉ - Mathilde, cô gái ngồi cạnh Arthur, thì thầm, để khỏi ngắt lời Paul. - Cô cứ nói to hơn cũng được, cậu ấy không nghe thấy chúng ta nói gì đâu! Tôi rất tiếc, quả là tôi có hơi đãng trí, nhưng tôi vừa mới đi xa về, với lại tôi thuộc lòng cái câu chuyện ấy rồi, tôi là nhân vật trong đó mà! - Thế lần nào các anh mời phụ nữ ăn tối bạn anh cũng kể chuyện này à? – Mathilde thú vị hỏi. - Đúng vậy, với đôi chút thay đổi và thường là bằng cách tô vẽ thêm cho tôi – Arthur trả lời. Mathilde nhìn anh chăm chú hồi lâu. - Anh nhớ ai đó phải không? Điều này được viết bằng chữ cỡ to trong mắt anh – cô nói. - Chẳng qua chỉ vì nơi này có gì đó gợi lại một vài kỉ niệm thôi. - Tôi đã phải mất sáu tuần dài mới hồi phục được sau cuộc đoạn tuyệt gần đây nhất. Nghe nói để dứt hẳn khỏi một cuộc tình, phải mất một quãng thời gian bằng nửa thời gian mà cuộc tình đó diễn ra. Thế rồi một buổi sáng tỉnh dậy, gánh nặng của quá khứ sẽ biến mất như có phép màu. Anh không tưởng tượng được là lúc đó sẽ thấy nhẹ nhõm đến mức nào đâu. Về phần tôi thì bây giờ tôi tự do như khí trời vậy. Arthur lật bàn tay của Mathilde ra như để xem bói đường chỉ tay. - Cô may mắn lắm – anh nói. - Thế còn anh, thời kỳ hồi phục kéo dài bao lâu rồi? - Vài năm! - Anh và cô ấy yêu nhau lâu đến thế kia à? – Cô gái hỏi bằng một giọng cảm động. - Bốn tháng! Mathilde Berkane nhìn xuống và hùng hục cắt tôm hùm. Robert nằm dài trên giường, anh vươn người với cái quần jean. - Anh tìm cái gì thế? – Lauren vừa dùng khăn tắm lau tóc vừa hỏi. - Cái gói của anh! - Anh không định hút thuốc lá ở đây chứ? - Kẹo cao su đấy! – Robert vừa đáp vừa hãnh diện giơ lên cái gói nhỏ lấy từ túi quần dài của mình ra. - Anh làm ơn lấy giấy gói lại trước khi vứt nó đi nhé, người khác nhìn thấy trông ghê lắm. Cô mặc vào mình quần dài và một cái áo sơ mi màu xanh lơ, có kí hiệu của bệnh viện Memorial San Francisco. - Cũng buồn cười nhỉ - Robert lại nói, tay kê dưới đầu. – Em thấy toàn những thứ kinh khủng ở bệnh viện của em, vậy mà mấy cái kẹo cao su của anh lại làm cho em ghê được. Lauren khoác áo blouse vào và đứng trước gương sửa sang cổ áo. Nghĩ đến chuyện sắp được làm việc và trở về với không khí thân thuộc ở khoa cấp cứu, tâm trạng cô vui hẳn lại. Cô vớ lấy chùm chìa khoá trên bàn và bước ra khỏi phòng; cô dừng giữa phòng khách rồi bước trở lại. Cô nhìn Robert nằm khoả thân trên giường. - Đừng làm cái điệu bộ chó cụp tai ấy nữa, thực chất anh chỉ cần có một cô gái để khoác tay đến dự buổi chiếu ra mắt bộ phim của anh tối nay thôi. Anh đúng là chỉ biết nghĩ đến mình… còn em, em phải đi trực chứ! Cô đóng cửa rồi đi xuống chỗ đậu xe. Vài phút sau, cô lên đường trong trời đêm ấm áp, sau tay lái của chiếc xe Triumph. Những cây đèn đường lần lượt sáng lên trên phố Green, dường như chào đón khi cô đi qua. Ý nghĩ đó khiến cô mỉm cười.