Chương 2 phần 1
SA VÀO HÀNH LANG BẤT TẬN

     ăm xưa tôi cùng cha mình vì muốn lấy trộm viên ngọc khuyết Song Long Triều Thánh mà đã đi lạc vào một địa cung vô danh trong thành cổ Hàm Dương, bị khốn trong hành lang yến quy. Tôi thì mất đôi mắt, còn cha tôi thì mất mạng, đến cả thi hài cũng không thể lấy ra, may được anh cả đây cứu thoát. Nhưng anh cả này, hành lang yến quy khi đó không đi kèm với Điên phốc đạo và Bát trận đồ Gia Cát, so với hành lang này rõ ràng còn kém xa…

 

Chương 2.1 CÁNH CỔNG MỞ
Cách Thiên Đàn* tám trăm bước về phía đông có một rừng cây lớn rậm rạp. Đại thể là căn cứ theo nguyên lí thiên địa hợp ngũ phương, âm dương hợp Ngũ hành trong “Hà đồ,”** do trời ba sinh Mộc, đất tám làm thành. Cách rừng cây này khoảng sáu trăm bước về phía đông lại có một hồ nước, theo Ngũ hành thì Mộc khắc Thổ, Thủy khắc Hỏa, nên thông thường khi xây nhà, kị nhất là đất động lửa cháy. Mặt khác, Thủy có thể sinh Mộc, nên giữa rừng cây và hồ nước đã hình thành một con đường vận hoạt,*** là cục tướng đại cát trong kiến trúc. Lại nằm sát gần đàn tế trời của hoàng thất, chắc hẳn sẽ được trời cao phù hộ.
* Thiên Đàn là một công trình kiến trúc nằm ở phía đông Bắc Kinh hiện nay, nơi các hoàng đế triều Minh, Thanh dùng để cử hành lễ tế trời và cầu mưa. Đây cũng là quần thể kiến trúc tế tự có quy mô lớn nhất hiện tồn của Trung Quốc.
** Hà đồ là một đồ hình bí ẩn được tạo thành từ những chấm đen và chấm trắng với số lượng từ một đến chín, sắp xếp theo một trật tự số học nhất định. Tương truyền vào thời Phục Hy, có con long mã nổi trên sông Hoàng Hà, trên lưng có các đốm xoáy với số lượng khác nhau, Phục Hy căn cứ vào đó mà làm ra Hà Đồ.
*** Trong Phong thủy học có câu “Đạo hoạt tắc thông, đạo hoạt tắc chuyển” (đường sống thì thông, đường sống thì chuyển), đường vận hoạt là chỉ con đường phong thủy may mắn có thể mang lại vận khí tốt đẹp.
Nơi đây quả thực có một tòa nhà lớn, và cũng chỉ có duy nhất một tòa nhà đó, trông rất đồ sộ nguy nga. Nhìn từ bên ngoài, trông không giống vương phủ, cũng không giống dinh quan, nhưng xem quy cách của cổng Thanh Long mở tại mé đông nam, có thể biết được rằng đây chỉ là một tứ hợp viện, có điều lớn hơn rất nhiều lần so với những tứ hợp viện bình thường khác.
Phía trước tòa nhà cũng có thể coi là một nơi náo nhiệt hằng ngày đều có những con buôn nhỏ lẻ, thầy bói ăn mày tụ tập ở dây. Tại sao vậy? Bởi vì đây là con đường buộc phải đi qua nếu muốn vào cửa phía đông của Thiên Đàn. Từ thời Dân Quốc, thường dân đã dược phép ra vào Thiên Đàn để chiêm ngưỡng vẻ uy phong và hoa lệ của hoàng gia. Bởi vậy, việc chốn này trở nên tấp nập cũng là điều dễ hiểu.
Song không khí chộn rộn đó lại chưa bao giờ đến với khu trạch viện, thậm chí cánh cổng cũng chưa từng thấy mở, chẳng ai biết được trong ngôi nhà này có những ai sinh sống. Nơi đây vốn dĩ vô cùng tĩnh lặng song giờ đây triều đại đã đổi thay, trong ngoài thành Bắc Bình chẳng còn mấy nơi duy trì được không khí yên tĩnh nữa.
Lỗ Nhất Khí đã từng đến nơi đây. Cậu cũng đã chú ý tới tứ hợp viện này. Khi đó cậu vừa đọc xong những phần tàn dư của cuốn “Tứ tượng pháp điển.” Nhìn từ bên ngoài, ngôi trạch viện này rất phù hợp với thuyết “tứ tượng viên thông.” Hơn nữa, bức chiếu bích* chắn trước cổng chính, hay còn được gọi là “chiếu bích phản Bát tự” rất thu hút cậu. Do nó có kết cấu cấu tường mái rất hiếm gặp, đặc biệt, những hình điêu khắc trên nền gạch xanh của chiếu bích cũng rất quái lạ, khiến cậu có cảm giác rằng nơi này có chút gì đó rất khác thường.
* Chiếu bích, hay ảnh bích, là một đoạn tường ngắn và thấp được xây ở khu vực gần cổng chính, dùng để che chắn, cản sát, giữ sinh khí, thường xuất hiện trong các kiến trúc xưa.
Thế nhưng cậu không bao giờ có thể ngờ được rằng đây chính là nhà của cậu. Ngồi trong một quán trà nhỏ đối diện với cổng chính ngôi nhà, Lỗ Nhất Khí nhìn trân trân vào cánh cổng bằng gỗ tùng đóng đinh đồng sơn đỏ, trong lòng không có chút cảm giác giống như đang trở về nhà, mà ngược lại, cậu thấy nó chẳng khác gì hang hùm động rắn.
Lỗ Thịnh Hiếu có lẽ đã nhận ra được sự hoài nghi của cậu cháu, ông bèn nói:
- Đây vẫn chưa phải là nhà của con, nhà của con ở bên trong nữa kia. Cả khu nhà trước mắt con đây, thực chất chính là một khảm diện khổng lồ mà năm xưa người họ Chu đã xây nên nhằm bao vây tiêu diệt chúng ta. Trong căn nhà do tổ tiên chúng ta để lại có một gian mật thất, trong đó cất giữ di mệnh mà tổ sư gia Lỗ Ban đã ủy thác lại cho chúng ta, cũng là bí mật mà họ Lỗ chúng ta đời đời phải gìn giữ và bảo vệ. Người họ Chu vì muốn đoạt lấy bí mật đó nên đã tìm mọi cách để đuổi cùng giết tận người họ Lỗ. Khi đó, con vẫn nằm trong bụng mẹ, đã cùng với cha con, lão mù và ta liều mạng chạy thoát khỏi nơi đây. Đã hai mươi năm trôi qua, Chu gia vẫn chưa có động tĩnh gì, chắc hẳn là vẫn chưa tìm ra thứ mà họ muốn. Lần này, chúng ta trở về đây, là giành lại những thứ vốn dĩ thuộc về chúng ta trước họ một bước. Đó là bảo vật có liên quan tới vận mệnh của cả thiên hạ chỉ có truyền nhân đích mạch của Lỗ gia mới có thể hiểu được bí mật ẩn chứa trong đó. Người đó chính là con, Lỗ Nhất Khí!
Lỗ Thịnh Hiếu không thể nói thẳng với cậu về mức độ nguy hiểm của chốn này. Ông cũng không thể cho câu biết rằng, vì không muốn để đối phương có thời gian chuẩn bị, nên lần hành động này hết sức vội vàng gấp rút. Ông càng không thể nói cho cậu hay, lần này, số người mà ông mời đến giúp sức không chỉ có lão mù và Quỷ Nhãn Tam, song họ phần đông đều không tới. Một số là do đường sá xa xôi chưa tới kịp, song phần lớn là vì không muốn bị cuốn vào một trường ác đấu.
Lỗ Nhất Khí điềm nhiên uống nước, ăn điểm tâm, song đôi mắt cậu vẫn dán chặt vào cánh cổng, thi thoảng mới đưa ánh mắt đầy khâm phục liếc về phía lão mù tay ôm bình nước bằng da bò, miệng thao thao bất tuyệt xem bói cho khách vãng lai; và Quỷ Nhãn Tam co ro trong tấm vải đen rộng lùng bùng đang rên rỉ thảm thiết: “Xin bác, xin chú nhón tay làm phúc!” Hai người này ngồi cách nhau rất xa. Ngay từ lúc còn ở Mai Sấu hiên, Lỗ Nhất Khí đã phát hiện thấy họ có vẻ không hợp nhau, thậm chí còn có chút oán hận.
Về nhà là một chuyến đi vô cùng nguy hiểm. Ngay từ lúc chuẩn bị lên đường, khi thấy chú Tư mắt ngấn lệ giữ lấy tay Lỗ Thịnh Hiếu, và chuẩn bị cho mình một chiếc túi vải thô, bên trong đựng một khẩu súng lục và hai quả lựu đạn trứng vịt của Đức, cậu đã biết rõ chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Song cậu cũng hiểu rõ một điều, dù có gặp phải mối nguy hiểm đáng sợ đến đâu, cậu cũng không được phép lùi bước, bởi vì đó nhà của cậu, cậu cần phải quay về.
Mùa đông ngày ngắn đêm dài, lại thêm gió Bắc từng hồi lạnh buốt, ai chẳng muốn mau mau về nhà cuộn tròn trong chăn ấm. Đến lúc dẹp quán rồi, ông chủ quán trà đã liên hồi giục giã. Lỗ Thịnh Hiếu vác chiếc hòm gỗ lên vai, vừa bước ra khỏi quán chưa đầy năm bước, đã thấy chủ quán hạ xong lều bạt, xếp toàn bộ bàn ghế, ấm chén lên xe, trong nháy mắt đã đi mất hút. Nhìn theo bóng dáng vội vã của ông chủ, Lỗ Nhất Khí bất giác chau mày.
Màn đêm đã buông xuống, bầu trời không trăng tối thẳm. Đứng phía trước cổng lúc này chỉ còn hai bác cháu. Lão mù ngồi dưới gốc cây phía tây đã không còn xem bói nữa. Quỷ Nhãn Tam từ đầu tới cuối vẫn ngồi thu lu ở góc tường không xê dịch lấy nửa bước, giờ đã chìm lẫn vào màn đêm đen đặc.
Lỗ Nhất Khí không nhìn thấy hai người họ, song cậu cảm giác được rằng họ đều không động cựa. Đặc biệt là từ phía Quỷ Nhãn Tam, ở đó lẩn quất một làn thi khí nhàn nhạt, rất dễ nhận biết.
Lỗ Thịnh Hiếu đột ngột đặt chiếc hòm gỗ trên vai xuống, chạy vụt lên bậc tam cấp trước cánh cổng. Theo phản xạ, Lỗ Nhất Khí cũng định nhấc chân chạy theo song lão mù và Quỷ Nhãn Tam đã ập tới hai bên cậu từ lúc nào, giữ chặt hai tay cậu, không cho cậu chạy theo.
Cậu đã hiểu, bác cậu đang thực hiện một việc hết sức nguy hiểm. Tim cậu bỗng thắt lại, theo bản năng, cậu vùng khỏi hai người kia, rồi thò tay vào trong túi, nắm chặt lấy báng súng. Cậu không thể để bác mình gặp tổn thương, chỉ cần có chút gì bất thường, cậu sẽ lập tức rút súng bắn ngay!
Cậu biết bắn súng ư? Biết! Đó là lần chú Tư giúp phó quan Ngô Phương Thiên ở phủ đại soái kiếm được một số cổ vật, đã được phó quan Ngô trả ơn bằng cách dẫn hai chú cháu đi săn.
Lần đó, cậu đã bắn tám phát đạn. Lúc đầu là bắn bằng súng trường. Phát thứ nhất không biết bay đi đâu. Phát thứ hai cậu bắn trúng cổ một con hươu nhỏ, con hươu trúng đạn chạy tiếp khoảng trăm mét thì ngã vật xuống chết. Trong lúc mọi người đang hết lời khen ngợi cậu là một xạ thủ trời sinh, thì cậu tiếp tục giương súng bắn một con ngỗng trời đang bay qua, một phát xuyên qua đầu ngỗng. Lúc này, mọi người bắt đầu kinh ngạc, nhưng vẫn có người nói rằng đó là do cậu may mắn. Phó quan Ngô bèn đổi cho cậu khẩu súng lục, và với khẩu súng ngắn trên tay, cậu lại một phát đạn bắn chết một con cáo đang chạy thục mạng, hơn nữa còn bắn xuyên qua mắt, bởi vì có người hét lên với cậu đừng làm hỏng bộ da. Tiếp đó, cậu lại bắn xuyên mắt một con sóc, phát cuối cùng trúng đầu một con chim sẻ. Và còn có một điều chỉ mình cậu biết, đó là cách con chim sẻ này chừng hơn năm bước, còn có một con chim sẻ khác cũng đồng thời rớt xuống, cũng là bị đạn xuyên qua mắt.
Phó quan Ngô ngay lập tức định tiến cử cậu lên đại soái, muốn cậu theo nghiệp súng đạn. Song chú Tư đã hết lời thuyết phục, lại phải dấm dúi cho ông ta một đôi ngọc cổ đời Hán, ông ta mới chịu im miệng.
Giờ đây, bàn tay cậu đang nắm chặt khẩu súng mà chú Tư đưa cho trước lúc lên đường, và hiểu rằng đây chính là thời điểm cần dùng tới nó. Khẩu súng do phó quan Ngô kiếm giúp, là hàng Đức chính hiệu, báng súng mịn êm nằm vừa vặn trong lòng bàn tay, phần thân súng trơn bóng lấp lánh ánh sáng xanh trầm sẵn sàng tuột ra khỏi lớp vải thô bất cứ lúc nào để nhả đạn trong chớp mắt.
Lỗ Nhất Khí không quá để tâm tới khẩu súng. Nó đã ở trong tay cậu, cũng giống như một bộ phận trên cơ thể cậu. Cậu vẫn nhìn không chớp mắt vào bóng dáng của người bác, cái bóng đó đã ở phía trước cổng chính đang chậm rãi thực hiện một động tác có vẻ đơn giản, trông như đang gõ cửa, gõ cửa mà không phát ra tiếng động. Tay của ông không chạm vào cánh cửa, chỉ có độ gập của đôi chân là liên tục biến đổi, giống như đang mô phỏng các chiều cao khác nhau, về những chiêu này, Lỗ Nhất Khí hoàn toàn mù tịt. Cậu chỉ biết căng mắt tụ lực nhìn chằm chằm vào khối đen đó, trong cảm giác của cậu, bóng đêm đen đã dần trở nên sáng rõ.
Bỗng vang lên một chuỗi âm thanh loảng xoảng, rồi cánh cổng cọt kẹt mở ra. Lỗ Thịnh Hiếu thở phào, quay đầu lại nói khẽ:
- Được rồi!
Lão mù và Quỷ Nhãn Tam đều thở ra một hơi như rũ được gánh nặng. Đúng lúc Lỗ Nhất Khí cũng sắp thở phào theo thì đột nhiên phát hiện ra mối nguy hiểm đang tới: có hai vệt sáng mờ bay vụt từ hai góc mái ở hai bên chiếu bích thẳng về phía Lỗ Thịnh Hiếu.
Lỗ Thịnh Hiếu không kịp tránh nữa rồi! Rút súng cũng không kịp nữa. Tuy Lỗ Nhất Khí bắn súng cực nhanh cực chuẩn, thậm chí không cần ngắm bắn, chỉ cần dựa vào cảm giác, song thực sự đã không còn đủ thời gian để hành động nữa.
Viên đạn đã vụt ra kèm theo một tiếng nổ, không quá lớn, thoạt nghe như chỉ có một tiếng, nhưng cả hai vệt sáng đều đã đột ngột tắt ngấm ngay trong khoảnh khắc sắp chạm vào má Lỗ Thịnh Hiếu. “Sầm” một tiếng lớn, cánh cổng đóng sập lại như cũ.
Lỗ Nhất Khí đã nổ súng? Đúng vậy, cậu đã bóp cò ngay khi khẩu súng đang còn trong túi vải, nên tiếng súng không thật vang. Chỉ bằng một phát súng cậu đã dập tắt hai vệt sáng kia? Đương nhiên là không thể, vì viên đạn không thể tách làm hai ngả. Cậu đã bóp cò liền hai phát, song do tốc độ quá nhanh, nên hai tiếng súng gần như hòa làm một.
Trên tay Quỷ Nhãn Tam bật ra một đốm lửa, là một que diêm đang cháy, tuy chỉ lóe lên trong giây lát, song đã giúp họ nhìn rõ thứ quái quỷ gì đang nằm dưới đất.
Huống hồ lại có lão mù không cần nhìn cũng đã tỏ tường mọi sự. Lão lên tiếng trước, giọng gằn lên giận dữ:
- Rắn hoàng vĩ ống trúc! – Ngay từ lúc viên đạn bắn nát đầu hai con rắn, lão đã ngửi thấy mùi máu tanh xộc tới, lão nói tiếp – Đuôi lò xo như cung, thân thước thẳng như tên, răng chạm hồn về chầu địa phủ. Ông anh lần này sơ suất quá đấy!
Lỗ Thịnh Hiếu thất vọng nhìn cánh cổng đã đóng lại trước mặt, lẩm bẩm:
- Đúng vậy, đúng vậy, sơ suất quá! Chắc chắn không phải chỉ đơn giản là một nút thắt đuôi chó hai dơi* như thế này. May mà có Nhất Khí, nếu không, đi đứt cái mạng già này đã đành, lại còn mất mặt ngay lúc mở màn, đến cả cánh cổng cũng không qua nổi.
*Nguyên văn là “cẩu vĩ song bức,” cũng tương tự như nút thắt móng đạp bươm bướm, nhưng do một sợi dây hai vòng tròn đuôi chó xuyên qua hai nút thắt hình cánh dơi. Điểm khác biệt là ở chỗ phần đuôi chó liên tục vẫy, kéo theo hai con dơi đập cánh liên hồi. Khi tháo nút, nếu động tác hơi mạnh một chút, toàn bộ nút thắt sẽ di chuyển, lật vòng ngược lại, hình thức liên kết cũng biến đổi theo, nên càng khó tháo gỡ. Song tương tự, nếu có thể phá hủy cơ quan trung tâm dùng để kéo nhả dây thừng, sẽ tháo được toàn bộ nút thắt.
Rắn hoàng vĩ ống trúc là một loại rắn do con người nuôi dưỡng, nó chính là một biến thể của rắn hổ mang, tức là rắn hổ mang từ nhỏ đã được cho ăn rất nhiều độc tố, khiến cho độc tính trong nó mạnh hơn nhiều lần so với rắn hổ mang bình thường, lại không sợ mùa đông lạnh giá. Loài rắn này chỉ có một răng nanh rất lớn, mọi độc tố đều tích tụ ở đó, chỉ cần khẽ chạm phải chiếc nanh cực độc này, sẽ về chầu Diêm Vương ngay lập tức. Ngoài ra, người ta còn ngâm nó trong dung dịch thuốc, khiến cho nó không thể lớn lên, dài lắm cũng chỉ tầm một thước*. Phần đuôi cùa nó cứng như thép, nếu nhốt nó vào trong ống trúc, đuôi rắn tự nhiên sẽ xoắn lại thành nhiều vòng giống như một chiếc lò xo bị ép chặt. Khi nắp ống trúc bật mở, nhờ chiếc “lò xo” này mà nó sẽ bắn vụt ra như một mũi tên.
* Một thước tương đương khoảng 33,33 cm.
Lúc này tuy mới canh một, song nơi đây im lặng như tờ nghe rõ cả tiếng vi vu của từng làn gió Bắc. Chẳng ai nói một câu nào, những phát súng thần kì của Lỗ Nhất Khí cũng không hề khiến họ cảm thấy kinh ngạc như thể họ đã quá quen thuộc với điều này.
- Hãy nhìn những hình chạm khắc trên gạch và phần mái của bức chiếu bích kia, từ lâu con đã thấy có điều gì đó bất thường! – Lỗ Nhất Khí lên tiếng, cậu cảm thấy cần phải nói điều này cho mọi người biết.
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam nhìn về phía chiếu bích, song họ đều không có phản ứng gì. Lỗ Nhất Khí biết rằng đứng từ khoảng cách này chắc chắn sẽ không thể nhìn thấy, cho dù có đi tới sát gần, cũng phải có thần nhãn mới nhìn rõ được. Bởi vậy, chỉ có cách cử người không nhìn thấy gì đi lên xem thử.
Lão mù dò dẫm đi về phía chiếu bích ở mé phía tây gần chỗ lão, tỉ mẩn sờ mó từng nét chạm khắc trên gạch, động tác rất chậm, rất thận trọng, và cũng rất dứt khoát. Đột nhiên, lão ta loạng choạng lao sang chiếu bích phía đông, đưa tay sờ soạng mấy cái, rồi lại tấp tểnh chạy về phía Lỗ Nhất Khí.
Quỷ Nhãn Tam một bước dấn lên, chắn ở phía trước Lỗ Nhất Khí, cản lão mù lại mà hỏi:
- Lão định làm gì?
- Ta muốn xem bức chiếu bích phía nam. – Lão mù dừng bước trả lời.
- Ở chỗ này làm gì có chiếu bích, chỉ có hai bức ông đều đã xem cả rồi! – Lỗ Nhất Khí vừa nói vừa nhẹ nhàng đẩy Quỷ Nhãn Tam sang bên cạnh.
- Không, phải có, chắc chắn phải có! – Lão mù kêu lên, giọng khàn đặc.
- Thế thì nó là một chiếu bích vô hình ư? – Lỗ Nhất Khí cảm thấy hơi tò mò.
- Không, nó có hình thù! Nó là bức chiếu bích ma! - Lão mù vẫn quả quyết.
- Vậy nó ở đâu? – Lời nói cúa lão mù khiến Lỗ Nhất Khí có chút sợ hãi. Một bức chiếu bích ma hữu hình năm con mắt sáng đều không nhìn thấy, trong khi một người mù lòa lại khẳng định nó đang tồn tại.
Giọng nói khàn đục của lão mù lại vang lên, gằn mạnh từng tiếng:
- Nó, ở ngay dưới chân cậu!

 

Chương 2.2 TƯỜNG MA HIỆN
Lỗ Nhất Khí kinh hãi trước lời nói của lão mù, cậu nhảy dựng lên như thể giẫm phải cục than nóng, lông tóc dựng đứng.
Chiếu bích phía nam kì thực chính là bức chiếu bích ở bên ngoài cổng chính của tứ hợp viện, đối diện với cổng chính. Do nhà ở thông thường đều thiết kế quay mặt về phía nam, nên được gọi là chiếu bích phía nam. Thông thường, nó được xây cách phía trước tòa nhà đối diện một quãng, song đôi khi cũng được xây sát vào tường của khu nhà đối diện, chủ yếu là nhằm che chắn bố cục rối loạn của khu nhà phía trước, đảm bảo vẻ ngay ngắn và mĩ quan cho khu vực trước nhà mình. Trong phong thủy học cho rằng nó có tác dụng “tàng phong tụ khí,” đề phòng tán khí thất vận.
Tuy nhiên, ở phía đối diện với trạch viện này lại không hề có căn nhà nào, chỉ có một con đường lát đá, vài đám đồng hoang, nên không cần thiết phải xây chiếu bích. Hơn thế nữa, tại vị trí mà lão mù vừa chỉ, lại không hề có lấy một viên gạch.
Nhưng Lỗ Thịnh Hiếu lại không hề tỏ chút nghi ngờ, ông nói với Quỷ Nhãn Tam:
- Nghê Tam, cậu qua đó xem sao!
Lúc này Lỗ Nhất Khí mới biết Quỷ Nhãn Tam họ Nghê, và cũng cho tới lúc này, cậu mới nhìn thấy khuôn mặt của Quỷ Nhãn Tam.
Vì khi bác cậu còn chưa nói dứt câu, Quỷ Nhãn Tam đã nhanh chóng giật bỏ tấm vải choàng màu đen, để lộ ra một khuôn mặt xương xẩu, trắng bệch song còn khá trẻ, cùng một bộ trang phục gọn gàng với chiếc áo chẽn và vòng cổ tay cũng bằng da bò. Duy có con mắt bên trái vẫn ẩn phía sau miếng da hình bầu dục, hai đầu của miếng da được buộc lại bằng một sợi gân bò, thít chặt trên đầu.
Quỷ Nhãn Tam không nói không rằng, giắt tấm vải choàng vào chiếc thắt lưng da bò, quặt tay ra sau rút từ trong chiếc túi da đeo trên lưng ra một chiếc cuốc mỏ hạc bằng thép ròng, động tác nhanh như làm phép, chỉ một loáng sau, đã bổ xuống mặt đất lạnh cứng hơn hai trăm lỗ lớn bằng cỡ li rượu. Sau đó, hắn cất cuốc vào trong túi da, khi rút tay trở lại, đã thấy cầm theo một chiếc xẻng lưỡi cày, khua khoắng vùn vụt. Lại một chốc nữa, trên mặt đất đã xuất hiện một đường rãnh rộng ba thước, sâu hai thước rưỡi.
Lỗ Thịnh Hiếu không kìm được thán phục thốt lên:
- Công phu dời non phá núi của họ Nghê quả thực phi phàm!
- Họ Nghê với dời non phá núi gì kia? – Lỗ Nhất Khí ngơ ngác không hiểu, bèn hỏi lại.
Lão mù thấy cậu băn khoăn, bèn giải thích:
- Họ Nghê tại Giang Tây là gia tộc dẫn đầu của phái dời mộ trong tộc trộm mộ. Người trong gia tộc này đặc biệt sở trường về dời mộ phá mộ, với bảy tuyệt kĩ đào, khoét, bới, đục, gõ, trượt, phá, và bốn thuật là định thi biến, phá tà chú, độc âm văn, đoạn quỷ triền*. Bất kể là mộ của đế vương hay quan lại, chỉ cần họ tìm thấy huyệt, mọi thứ quý giá trong hầm mộ đều bị cuỗm sạch trơn. Tay Nghê Tam này là một cao thủ hiếm hoi trong thế hệ trẻ của gia tộc họ Nghê, biệt hiệu trong giang hồ là Quỷ Nhãn Tam, đào bới chút đất này đối với hắn là môt việc vặt chả thấm tháp vào đâu.
* Tức là ngăn ngừa xác chết biến thành xác sống (cương thi), phá vỡ Iời nguyền độc địa, đọc văn tự cõi âm, cắt đứt ma quỷ quấy nhiễu.
Lời giải thích đã nhanh chóng giải đáp được rất nhiều thắc mắc trong lòng Lỗ Nhất Khí, như tại sao tay của Quỷ Nhãn Tam lại chằng chịt vết sẹo? Tại sao hắn luôn mang theo viên đá Thi khuyển bên người? Tại sao trên cơ thể hắn luôn phàng phất mùi tử khí? Câu trả lời chỉ có một, đó là hắn kiếm cơm nhờ các xác chết lâu năm trong mộ cổ.
- Lão mù, lắm lời quá đấy! Lão làm việc của lão đi! - Quỷ Nhãn Tam vừa nhảy lên mặt đất, vừa lấc cấc nói với lão mù.
Lão mù thôi không nói gì nữa, huơ chiếc gậy, xác định vị trí, rồi bước xuống dưới rãnh.
Quỷ Nhãn Tam với thêm một câu:
- Bên vách đất phía nam!
Lão mù bèn ngồi thụp xuống, bắt đầu lần dò trên một bên của vách đất. Ở đó quả đúng là có một bức tường thấp, đúng hơn là một cái gờ bằng gạch, vì nó chỉ cao khoảng hai thước.
Lỗ Nhất Khí cũng khom lưng ngó đầu xuống xem, song cậu chẳng nhìn thấy gì cả. Lúc này, Lỗ Thịnh Hiếu cũng vươn người nhìn xuống, rồi ông rút từ ngăn kéo nhỏ trên hòm gỗ ra một chùm ánh sáng.
Lỗ Nhất Khí rất ngạc nhiên khi thấy bác cậu có một viên dạ minh châu lớn đến vậy, song cậu nhanh chóng phát hiện ra rằng đó không phải là dạ minh châu. Tuy nó rất sáng, song khí của nó không đủ, hơi thở rất yếu ớt.
Nhờ chút ánh sáng lạnh lẽo, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy bức chiếu bích. Nó đúng là một chiếu bích, một chiếu bích chỉ cao vỏn vẹn hai thước và bị chôn vùi dưới đất. Nó cũng có phần móng, có bích tâm, có mái che, chỉ có điều mái che đơn giản là do một hàng gạch rộng hơn xếp thành. Toàn bộ chiếu bích đều được xây bằng gạch xanh nhỏ nung kĩ, đen bóng, không hề có hình thù trang trí hay điêu khắc nào, cực kì đơn giản.
- Lão mù, cẩn thận đấy, tường ma vỡ, ma bủa vây! – Quỷ Nhãn Tam nói năng lúc nào cũng kiệm lời, giọng trầm và nhỏ.
Lão mù cười khẩy:
- Cậu lớn, đừng có dọa ta, lão mù này bị dọa quen rồi. Chỉ có họ Nghê các ngươi biết bày trò bắt ma đuổi quỷ? Còn lão mù này không biết? Thằng nhóc, nếu ngươi có bản lĩnh, thì đục cho cái lỗ đúng bích tâm, thả mấy con ma ra đây, ta với ngươi so tài cao thấp!
- Tôi không dám, kị nhất chuyện này! – Quỷ Nhãn Tam vẫn thì thầm đáp.
Lão mù thôi không đôi co với Quỷ Nhãn Tam nữa, tiếp tục sờ soạng trên bức tường ma quỷ.
Lẽ nào đây quả thực là bức tường của địa phủ, ngăn cách giữa nhân gian và cõi âm tào?
Nghe đoạn đối đáp giữa hai người họ, Lỗ Nhất Khí không hề cảm thấy sợ hãi. Nãy giờ cậu quan sát bức tường vô cùng chăm chú, không cảm nhận thấy ở đó có thứ gì khiến cậu phải sợ hãi cả.
Thế nhưng, đây có thực là bức chiếu bích ma không? Chính xác là như vậy!
Lỗ Thịnh Hiếu đứng thẳng người dậy, bước về phía Lỗ Nhất Khí, nói:
- Đừng nghe bọn họ nói càn! Chiếu bích ma chỉ là một thủ pháp để định phong thủy, nhằm ngăn chặn không để cho âm khí của địa phủ xung với cát khí tại cổng cửa. Bởi vậy nên người ta mới xây chiếu bích ở dưới lòng đất phía trước các ngôi nhà lớn.
Hóa ra chỉ đơn giản là như vậy. Lỗ Nhất Khí lại ngồi thụp xuống nhìn lão mù vẫn đang lần mò dưới rãnh. Nhưng cuối cùng, lão thở dài một tiếng, rồi đứng dậy, nét mặt lộ vẻ thất vọng, xem ra nãy giờ chẳng thu hoạch được gì. Mọi người lại chìm trong im lặng.
- Chú mù, tại sao chú lại biết được ở đây có một bức chiếu bích ma?
Lão mù lập tức rũ bỏ vẻ thất vọng trên nét mặt, nói:
- Cậu đừng có bắt chước Nghê Tam gọi bừa. Chú đây họ Hạ, cậu cứ gọi ta là chú Hạ!
Quỷ Nhãn Tam làu bàu:
- Hạ lưu thì có!
Xét về địa vị trong giang hồ thì lão mù là bậc tiền bối, song Quỷ Nhãn Tam rõ ràng không hề tỏ ra kính trọng lão.
Lão mù không thèm đếm xỉa đến hắn, nói tiếp:
- Hình điêu khắc trên gạch tại chiếu bích phía tây là cảnh mặt trời lên cao, song toàn bộ đều là đảo ngược lại, người ở phía đông, còn mặt trời lại ở phía tây, tức là mặt trời lặn. Hơn nữa, ngón tay của thiên quan không chỉ vào mặt trời, mà lại chúc xuống đất ba mươi độ. Chiếu bích phía tây khắc cảnh bái ấn phong hầu, ấn treo trên cây tùng, hình ảnh con khỉ đáng lẽ phải ngửa mặt lên vái, song nó lại vái chếch xuống phía dưới. Người thiết kế ngôi nhà này là một cao thủ, trình độ còn trên cả bác của cậu, nên chắc hẳn không phải là phạm sai lầm, mà có lẽ là ám chỉ điều gì đó. Mà phía trước cổng chỉ là một bãi đất bằng trống trải, nên chắc hẳn là ám chỉ cái gì đó ở dưới đất. Nếu là ngầm dưới đất, lại ở vị trí này, thì khả năng lớn nhất chính là một bức chiếu bích ma!
Lời nói của lão mù đã vô tình giúp Lỗ Nhất Khí biết thêm một chuyện, đó là bác cậu là một cao thủ về kiến trúc. Nhưng dường như thông tin này vẫn nằm trong dự liệu của cậu, nét mặt cậu bình thản không chút ngạc nhiên, cũng chẳng nói câu nào, chỉ đưa tay đón lấy khối sáng từ trong tay Lỗ Thịnh Hiếu rồi đi về bức chiếu bích phía tây. Cậu đã nhìn rõ, hình khắc trên nền gạch đúng như lời lão mù vừa miêu tả. Chỉ có điều ngón tay của thiên quan không chỉ vào chính giữa của chiếu bích ma, mà chỉ ra mé ngoài cùa bức tường. Hình điêu khắc trên bức chiếu bích bên kia cũng như vậy, tức là chúng đều không chỉ vào chiếu bích ma, mà chỉ vào hai thứ khác.
Vậy đó là thứ gì?
Lỗ Thịnh Hiếu đột ngột kêu lên:
- Cánh nhạn! Chiếu bích cánh nhạn*!
* Cũng là một dạng chiếu bích, nhưng không phải là một bức tường thẳng, mà ở phần giữa hoặc nửa sau có chỗ gấp khúc, giống như phần cánh của con nhạn đang bay.
Lời nói còn chưa dứt hẳn, Quỷ Nhãn Tam không để cho ai kịp nói gì, cây cuốc mỏ hạc và cây xẻng lưỡi cày đã múa tít như bay. Ở hai bên chiếu bích ma lại xuất hiện hai đoạn tường ngắn, đó chính là phần cánh nhạn của chiếu bích ma.
Lão mù không bước xuống rãnh, chỉ khua chiếc gậy quẹt quẹt vài cái trên cánh nhạn phía đông, rồi quả quyết nói:
- Nghê Tam, viên gạch thứ hai từ trên xuống, cách mép trái năm tấc*, phá nó ra!
* Một tấc tương đương khoảng 3,33 cm.
Một giọng nói điềm tĩnh vang lên:
- Khoan đã, để tôi!
Đó chính là Lỗ Thịnh Hiếu. Ông rút từ trong hòm gỗ ra một cây đục sắt dài và mảnh, sau đó vừa đi về phía cánh nhạn, vừa bảo Lỗ Nhất Khí:
- Dẫn chú Hạ sang phía tây ngoài mười bước!
Rồi ngoảnh sang phía Quỷ Nhãn Tam, nói:
- Cậu Tam, kiếm thứ đồ lề gì che chắn cho ta!
Lão mù không đợi Lỗ Nhất Khí đến dẫn, đã tự đi về phía tây mười lăm bước. Lỗ Nhất Khí đành đi theo sau lão. Sau đó cậu cố gắng giơ cao hết mức viên đá phát sáng trong tay, muốn nhìn cho rõ từng hành động của bác, bởi lẽ sự thận trọng của ông đã cho cậu biết rằng, đây lại là một lần mạo hiểm. Cảm giác căng thẳng giống như khi nhìn ông mở cổng lại trở lại trong cậu, bàn tay rịn mồ hôi lạnh tiếp tục lần đến báng súng.
Quỷ Nhãn Tam đứng sau Lỗ Thịnh Hiếu. Thoắt một cái, hắn đã rút ra một thứ gì đó từ chiếc túi da sau lưng, tay phải kéo, tay trái đẩy, “keng” một tiếng, bật mở ra.
Đó là một cây dù, một cây dù gọng thép, tán thép. Chỉ cần liếc qua, Lỗ Nhất Khí đã nhận ra đó là cây dù Vũ Kim Cương. Trước đây, trong một lần hiếm hoi Lỗ Thịnh Hiếu kể cho cậu nghe những chuyện thú vị trong giang hồ, có nhắc đến cây dù này.
Nghe nói cây dù này từng đựợc viết trong “Sát khí biệt sách” như sau: “Thu lại như côn kiếm giết người, mở ra như lá sen che phủ; cầm ở trên tay Kim Cương, che chắn một trời mưa máu.” Nó được chế tạo ra căn cứ vào cây dù báu Hỗn Nguyên trên tay của Đa Văn Thiên Vương, một trong Tứ Đại Kim Cương cư trú tại phương bắc, bởi vậy có tên là Vũ Kim Cương. Tuy rằng các bộ phận trên cây dù như đỉnh, cán, gọng, viền mép đều được thiết kế thành vũ khí sắc bén, nhưng tác dụng chủ yếu của nó vẫn là ngăn chặn các loại ám khí sát thương như tên, phi tiêu.
Chẳng có gì ngạc nhiên khi Nghê Tam luôn mang theo bảo bối này bên mình, bởi lẽ nó có tác dụng rất lớn khi phá giải các cơ quan trong lúc trộm mộ.
Sau khi Vũ Kim Cương mở ra, Lỗ Nhất Khí đã yên tâm phần nào, bàn tay nắm báng súng cũng thả lỏng đôi chút. Cậu không biết cây dù thép đó có thể chịu đựng được sức công phá lớn đến đâu, cũng không rõ tài sử dụng của Quỷ Nhãn Tam cao cường đến mức nào, thế nhưng trực giác vốn lúc một tự tin đã mách bảo với cậu rằng, nó khác nào áng mây lành che chư thần, đóa hoa sen hộ chư tiên.
Lỗ Thịnh Hiếu chưa vội hành động ngay. Ông lại ngồi xuống, kiểm tra cẩn thận vị trí mà lão mù vừa nói. Sai sót khi nãy đã khiến ông trở nên thận trọng hơn nhiều. Ông không cho phép xảy ra bất kì sơ suất nào nữa, nếu không, ông sẽ đánh mất mọi niềm tin còn lại, cũng sẽ khiến ông từ bỏ sứ mệnh cuối cùng.
Nhờ ánh sáng lờ mờ phát ra từ viên đá, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy tấm thân già nua của bác cậu bỗng chốc vươn thẳng, linh hoạt nhanh nhẹn không khác gì một tráng niên. Đôi tay ngày thường chỉ biết lật giở kinh sách, giờ nắm chặt cây đục sắt, các khớp xương kêu lên răng rắc. Ông đột ngột khai triển thân thể, chân phải choãi ra sau một bước, chân trái duỗi thẳng, chân phải uốn cong như cánh cung ngược, tay phải vung xéo lên, chiếc đục sắt trong tay văng ra, lao vụt đi.
Trúng rồi… có tiếng gạch vỡ…
Lặng phắc… vẫn lặng phắc…
Chờ đợi… tiếp tục chờ đợi…

 

Chương 2.3 THUYỀN ĐỖ CỬA
Mới hơn một phút trôi qua mà bốn người bọn đều cảm thấy lâu như hàng thế kỉ.
Một tràng những tiếng rung bỗng bật lên rào rào như mưa lớn.
- Tổng huyền* động rồi, tan rã hết rồi! – Lão mù lẩm bẩm.
*Tổng huyền, tức phần dây lò xo khống chế rất nhiều tầng nút lẫy, cũng là bộ phận trung tâm khống chế toàn bộ khảm diện.
Sau mưa lớn là cuồng phong, những tiếng rú rít bắt đầu dậy lên từng đợt.
- Ám thanh tử*, hắc cống tử** đều nhả cả rồi! – Lão lại lẩm bẩm.
* Ám khí kích cỡ nhỏ như phi tiêu, phi đao, tật lê, đinh, kim…
** Ám khí kích cỡ lớn như giáo mác, phi thương, đá tảng, lao, côn gậy…
Kì thực, nếu lão không nói, Lỗ Nhất Khí cũng đã nhìn thấy rõ. Từ dưới mái che của hai bức chiếu bích phóng ra hàng loạt những ám khí như tên, phi tiêu, giáo mác, còn kèm thêm hai hàng hỏa tiễn, vài chục ngọn lửa chiếu sáng rực khoảng đất trống trải phía trước cổng chính. Hướng bắn của tên, phi tiêu, giáo mác rất loạn xạ, không theo một quy luật nào, chỉ lác đác vài cái lao về phía Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam, song đều bị Vũ Kim Cương cản lại.
Sau cuồng phong, tiếp tục đến sấm sét nổi lên, vọng đến một tràng những tiếng nổ đùng đoàng vang dội, Lỗ Nhất Khí nhìn thấy toàn bộ phần mái của hai bức chiếu bích kì dị đang đổ sập xuống.
Lão mù kêu lên:
- Thế nào rồi? Thế nào rồi? Cửa mở rồi phải không?
Lỗ Nhất Khí cười thầm nghĩ bụng: “Thì ra cũng có những lúc chú không biết được,” sau đó điềm đạm nói:
- Mái che của chiếu bích sập hết rồi!
- Phần dầm đua ra của mái che dài hơn và thẳng hơn so với mái hiên thông thường đúng không?
- Đúng vậy, cháu đã nói mà, phần mái che của chiếu bích trông rất bất thường, đây chính là chỗ bất thường nhất.
- Đây là kiểu mái kéo cung, nếu không phá được tổng huyền, cho dù đứng ở góc độ nào trong phạm vi của nó, đều sẽ bị vật nhọn bắn trúng. Cách thiết kế đến bác của cậu cũng không nhìn ra được, thực là cao minh, thực là cao minh!
Nói xong, lão mù bất giác đưa tay phải ra túm chặt lấy ống tay áo của Lỗ Nhất Khí, như thể một người rơi xuống nước túm được con thuyền cứu mạng.
Lỗ Nhất Khí không dám cười nữa. Lời nói của lão mù đã cho cậu biết, đối thủ của họ quả thực vô cùng lợi hại. Động tác của lão mù cũng vô tình khiến cậu ý thức được về trọng trách lớn lao của mình. Trong cậu bắt đầu xuất hiện cảm giác về một mối đe dọa rình rập và cậu cũng ý thức được rằng, mối đe dọa chỉ vừa mới bắt đầu.
Lỗ Thịnh Hiếu đã rút cây đục ra, đi về phía cánh nhạn mé phía tây của chiếu bích ma. Trông bộ dạng của ông cũng đoán được, ông đang chuẩn bị phóng cây đục tiếp tục phá tường, bởi lẽ cánh cổng vẫn chưa được mở.
Tuy nhiên, khi đã đứng trước phần tường cánh nhạn ông vẫn chưa hành động ngay, mà ngẩng đầu nhìn về phía cánh cổng, rồi lại ngoảnh sang nhìn Lỗ Nhất Khí, trong mắt ánh lên vẻ quyết đoán và kiên nghị của một tráng sĩ sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Song Lỗ Nhất Khí không nói gì, đúng ra là cậu không biết nên nói gì.
Chính trong khoảnh khắc hai bác cháu nhìn nhau im lặng, thì lão mù dường như chợt ý thức được điều gì, vội vã kêu lên:
- Này anh cả, vẫn cứ phá đi là hơn, hôm nay có phải là thi đấu tài năng đâu!
Lão mù đã đoán đúng, Lỗ Thịnh Hiếu đang tính đến việc không phá tổng huyền mà trực tiếp giải nút thắt đuôi chó hai dơi, vớt vát lại chút thể diện vừa mới đánh mất trước mặt cháu trai.
Quỷ Nhãn Tam cũng nhanh chóng hiểu ý, bèn nói:
- Hay để tôi?
Lỗ Thịnh Hiếu không đáp, thu ánh mắt lại, bất thình lình giẫm mạnh chân phải. Viên gạch ở rìa mái đang nằm ngang bỗng chốc dựng đứng, tiếp đến, vọng lại một tràng những tiếng cót két khe khẽ. Bốn người lập tức quay đầu nhìn về phía phát ra âm thanh. Nhờ chút ánh sáng còn sót lại từ những chiếc hỏa tiễn sắp tắt lửa trên mặt đất, họ đã nhìn thấy một cảnh tượng quái lạ xuất hiện trên bức tường phía tây: bức hình điêu khắc trên gạch đang chuyển động, thiên quan từ từ di chuyển về phía tây, còn mặt trời di chuyển về phía đông. Khi chuỗi âm thanh chấm dứt, bức hình lại đứng im. Tiếp đó vang lên những tiếng nổ đanh như pháo phía trên cánh cổng, trên vòm cổng từ từ hạ xuống hai sợi dây thừng, một trái một phải, buộc lấy hai đầu của một khối đá xanh rộng chừng hai mặt ghế. Tiếng nổ như pháo khi nãy có lẽ là tiếng vỡ của các ống trúc nhốt rắn hoàng vĩ. Còn khối đá xanh này được giấu trên phần mái của cổng nếu có người công phá nút thắt đuôi chó hai dơi, nó sẽ không từ từ thả xuống như vừa nãy, mà sẽ giáng thẳng cánh từ trên xuống.
Một lát sau, Lỗ Thịnh Hiếu mới lẩm bẩm:
- Chắc là được rồi!
Nói đoạn rảo bước tới phía trước bức hình điêu khắc, đưa tay nắm lấy cánh tay đang chỉ vào mặt trời của thiên quan, bẻ mạnh một cái. Hai tiếng “rắc rắc” vang lên, bàn tay thiên quan đã chuyển hướng, chỉ về phía mặt trời ở đằng đông.
Lúc này, cơ quát* đã đến đúng vị trí, cánh cổng cọt kẹt lên một hồi, rồi từ từ mở ra.
* Cơ quát tức là toàn bộ những thiết bị dùng để dự trữ năng lượng và giải phóng năng lượng cho cơ quan.
Lỗ Thịnh Hiếu cười lớn, tiếng cười át cả tiếng cọt kẹt của cánh cổng. Trong thoáng chốc, Lỗ Nhất Khí thấy đôi mắt ông bừng sáng rạng ngời, hào khí muôn trượng.
Tiếng cười ngưng bặt, từ khuôn miệng hơi khuất dưới vệt râu bạc trắng, vang lên một giọng nói sang sảng:
- Vặn nghiêng Bát quái, Chấn Tốn đổi Càn Khôn, dùng dây bắn hoàng vĩ, dùng thừng giật đá xanh. Độc địa, độc địa thay! May mà đám người chúng ta vẫn chưa ai bỏ mạng!
Những lời hào sảng của ông như xé toang màn đêm dày đặc bên trong cánh cổng. Lỗ Nhất Khí hơi chau mày lại, cậu cảm thấy trong giọng nói hùng hồn của bác dường như có thoáng chút thiếu tự tin.
Dư âm câu nói còn chưa dứt, bên trong cổng bỗng bùng lên hai đốm sáng cỡ bằng quả trứng vịt, đối xứng nhau ở hai bên trái phải, sắc lam pha lục. Đốm sáng không mảy may lay động cho dù gió Bắc vẫn đang thổi liên hồi.
Lỗ Nhất Khí vốn ngỡ rằng đó là đèn điện, song cậu lập tức nghĩ ra, tuy hiện nay cũng có một số rất ít nhà đã sử dụng đèn điện, nhưng ở một nơi như thế này, điều đó chắc chắn là không thể. Sở điện lực chưa thể kéo dây điện tới khu vực hoang vu chỉ duy nhất một ngôi nhà trơ trọi như thế này. Vậy phải chăng chúng cũng là một loại đá phát sáng giống như viên đá cậu đang cầm trong tay? Cũng không thể, ánh sáng của đá không sáng đến mức như vậy.
Bốn người tụ lại với nhau, cùng tiến lại phía cánh cổng. Bởi vì họ biết, bên ngoài cánh cổng đã không còn nguy hiểm, nhưng ở bên trong cổng là cạm bẫy trùng trùng. Sau khi đi vòng qua khối đá xanh treo lơ lửng dưới vòm cổng họ cùng dừng bước, đứng lại trước bậu cửa.
Giờ đây khi đã đến sát gần, Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy rõ hai đốm sáng bên trong cổng quả thực là hai ngọn đèn, là hai đĩa đèn dầu treo phía trên cây xà dưới vòm cổng. Nhưng kì lạ là ở chỗ, ngọn lửa trên hai đĩa đèn không khác gì ngọc thạch lưu li, gió thổi cũng không lay động, không biết là được đốt bằng loại dầu gì.
Nhìn sang hai bên, không thấy có phòng bên cổng, một trạch viện quy mô lớn như vậy lại không có phòng bên cổng, mà chỉ có tường đặc. Lại nhìn vào phía trong, đường cổng sâu hun hút, có lẽ phải dài gấp ba, bốn lần chiều sâu của cổng Thanh Long trong tứ hợp viện thông thường. Phía cuối của đường cổng dường như là một bức tường chắn. Lẽ nào bên trong cổng không có đường thông? Hay là đường đi trước đây đã bị lấp kín? Hay là đang ngầm tuyên bố với những kẻ xâm nhập rằng, có vào rồi bất quá cũng chỉ đi được vài bước mà thôi, hãy mau mau trở ra là hơn!
Bấy giờ, viên đá phát sáng trong tay Lỗ Nhất Khí đã trở nên dư thừa, cậu đưa trả lại cho bác, song ông lắc đầu mà nói:
- Con hãy giữ lấy, về sau có lẽ sẽ cần dùng tới.
Lỗ Nhất Khí nghe vậy, bèn tiện tay cất nó vào trong túi vải thô.
Lão mù nghe Lỗ Thịnh Hiếu nói vậy, bèn hỏi:
- Sao thế anh cả? Có đèn à?
Lỗ Thịnh Hiếu bèn đáp:
- Đúng vậy, nhưng không biết chúng có ổn hay không!
Quả thực, Lỗ Thịnh Hiếu vẫn cảm thấy bất an. Trong trạch viện này, bất cứ vật gì đều có khả năng là một cái nút* trí mạng, huống hồ ngọn đèn này thực sự rất quái dị.
* Nguyên văn là khấu hay khấu tử, nghĩa là nút, nút thắt, tức là một hoặc một nhóm cơ quan được bố trí trong khảm diện, dùng để ngăn chặn hoặc giết chết những ai lọt vào trong khảm diện.
Lão mù lại hỏi:
- Anh cả, vậy giờ có vào không?
- Vào!
Đã tới nước này, đây là sự lựa chọn duy nhất.
Vừa nghe thấy lời đáp dứt khoát của Lỗ Thịnh Hiếu, Quỷ Nhãn Tam thoắt cái đã nhảy vào trong cổng, Vũ Kim Cương trong tay hắn nhanh chóng bật ra, che chắn toàn bộ cơ thể. Lỗ Thịnh Hiếu cười ha hả, nói:
- Này cháu, vội gì thế, đợi chúng ta cùng vào chứ!
Nói đoạn, nhấc chiếc hòm gỗ che trước ngực, sải bước vào trong. Nhưng khi ông còn chưa kịp bước qua bậu cửa, lão mù đã nhanh chân vào trước, rồi rảo thêm hai bước ngắn nữa, tới sát sau lưng Quỷ Nhãn Tam, vịn một tay lên vai hắn, tay còn lại cầm chiếc gậy chọc loạn xạ lên hai vách tường hai bên.
Lão mù đang chọc bừa chăng? Không, cả ba người gồm cả Lỗ Nhất Khí đều đã nhận ra, vị trí lão chọc gậy vào chính là phương vị thất tinh chính phản. Nó có tác gì? Ngoài Lỗ Nhất Khí ra, hai người còn lại đều biết, lão mù đang thăm dò cạm bẫy Đối hợp Thất tinh kháo*. Nếu ở đây quả thực có bố trí Đối hợp Thất tinh kháo khi giẫm phải vị trí chính Thất tinh hay phản Thất tinh, cơ quát đều khởi động, vách tường hai bên sẽ khép lại hoặc sập vào nhau, để giam giữ hoặc kẹp chết người sa chân vào đó. Thủ pháp của lão mù rất chuẩn xác, đứng tại vị trí ba sao rưỡi để điểm chính phản Thất tinh, nếu như có bố trí loại cơ quan này, cho dù không thể hóa giải, cũng có thể biết được sự tồn tại của nó. Nhưng lão đã thất vọng, vì ở đây không bố trí loại cạm bẫy này, lão bất giác đứng trầm ngâm. Bước vào sau lão mù nửa bước, Lỗ Thịnh Hiếu nhìn vào quỹ đạo điểm đầu gậy của lão mù, cũng nhận ra rằng ở đây không hề có cơ quan Thất tinh kháo, ông khẽ chau mày.
* Có nghĩa là Thất tinh khép lại, tức là hai bức tường hai bên có thể chuyển động khép lại với nhau, để giam giữ hoặc kẹp chết người sa vào khảm diện. Hai bức tường không phải xây bằng gạch thông thường, mà được đúc bằng đồng sắt, bên ngoài ngụy trang bằng đất bùn, gạch đá, giết người dễ dàng giống như dùng hai tay đập muỗi. Nó dùng vị trí Thất tinh trên mặt đất làm điểm khởi động, còn vị trí Thất tinh tương ứng trên vách tường là điểm hóa giải, chặn dừng.
Bớt đi một cạm bẫy chẳng phải là chuyện đáng mừng hay sao? Đương nhiên là không! Đây là điều mà các Khảm tứ gia* đều hiểu rõ, nếu như đối thủ bỏ qua một cách bài trí thường gặp, cũng đồng nghĩa với việc sẽ có một thủ đoạn ghê gớm hơn, tàn độc hơn đang đợi ở phía trước. Như vậy, còn ai dám vui mừng được nữa?
* Chỉ những môn phái chuyên bố trí Kì môn Độn giáp, cơ quan cạm bẫy.
Lỗ Nhất Khí đương nhiên là không hiểu được điều này. Cậu vẫn đứng bất động ở bên ngoài bậu cửa, không phải là không muốn, mà là không dám động cựa. Cậu cảm giác như có một cặp mắt đang nhìn mình chằm chằm. Một luồng khí lạnh từ vị trí xương cụt bò dần lên phía trên, nhích từng chút từng chút một, tựa như một con rắn lạnh buốt, cứng đờ, đã bò lên đến tận gáy. Cậu bất ngờ xoay người lại, rút súng nhắm về phía phát ra ánh nhìn đó, nhưng cậu phát hiện ở đó không hề có gì.
Hành động thình lình của cậu khiến cho ba người đang đứng phía trước thoáng ngạc nhiên. Lỗ Thịnh Hiếu vội hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
- Không có gì đâu, chắc là tại con căng thẳng quá! – Lỗ Nhất Khí đáp.
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam đi đầu tiên, hai người lại bước thêm hai bước vào bên trong. Lão mù tay vẫn bám trên vai của Quỷ Nhãn Tam, đi sát sau lưng hắn. Lỗ Nhất Khí đi sau cùng, không phải là cậu sợ, cũng không phải cậu nhát gan, mà là vì ba người ở phía trước đã xếp thành một hình tam giác ngược chắn hết đường, khiến cậu không có lí do và cũng không cần thiết phải đi chen vào giữa họ.
Khi họ tiến thêm một bước nữa, thì trên đầu bỗng nghe “phụt” một tiếng, trong nháy mắt lại thêm hai đĩa đèn dầu nữa bật sáng, giống y hệt cặp đèn dầu ở cổng. Chúng vụt sáng một cách quá đột ngột, khiến hai người đi đầu giật bắn mình. Toàn thân Quỷ Nhãn Tam rùng mạnh một cái, khiến lão mù ở phía sau cũng lập cập theo.
Bất động một lát, không có chuyện gì xảy ra, nên bốn người lại tiếp tục bước về phía trước. Khi bước được thêm năm, sáu bước, lại thêm một cặp đèn dầu nữa bừng sáng trên xà nhà. Lần này Lỗ Thịnh Hiếu, Quỷ Nhãn Tam và lão mù không còn giật mình nữa, dường như họ đã đoán được rằng chuyện đó sẽ xảy ra, bởi vậy họ gần như không có phản ứng. Nhưng vào lúc đèn sáng lên Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam rảo một bước dài về phía trước, bước chân này rõ ràng có phần gấp gáp hơn những nhịp bước trước đó…
Lỗ Nhất Khí chỉ muốn cười, nét cười đã rạng ngời trên gương mặt cậu. Cậu đã nhìn thấy một thứ ở phía trước. Thứ đó, tựa như duyên phận trong kiếp trước, tựa như định mệnh trong kiếp này, tựa như thứ mà cậu vẫn không ngừng tìm kiếm trong mơ.
Thứ đó, chính là một con thuyền! Một con thuyền gỗ với cột buồm cao vút và cánh buồm căng lộng gió.
Nét mặt cậu càng bừng lên rạng rỡ. Dường như cậu đã tìm thấy chốn êm đềm nhất trong cuộc đời mình. Cậu thấy dường như mình đang áo chùng đai lỏng, khoác giỏ ôm bầu, thung dung đẩy mái chèo trong gió nhẹ mưa bay. Cậu muốn lao về phía trước, giao sinh mệnh mình cho con thuyền nhẹ sắp rời bờ, băng băng rẽ sóng chốn mây ngàn, du ngoạn tới thiên khê.
Cậu đã đứng trên mũi thuyền, cậu đã sắp tháo được dây neo, cậu đã hào hứng dâng tràn, chống sào đẩy lái.
Chính trong thời khắc đó, thời khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời cậu, một dải màu đỏ chói bỗng phủ nhòa đôi mắt, khiến cậu phải chớp vội vàng lại rồi lại mở mắt ra. Và cậu nhìn thấy một thứ màu đỏ sẫm đang nhỏ máu lay động giữa hai con mắt, lướt qua trên ấn đường.
Thứ gì vậy?
Một chiếc lưỡi! Là một chiếc lưỡi ròng ròng những máu!

 

Chương 2.4 GIỮA HAI MẮT
Chiếc lưỡi nhỏ máu khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy ghê tởm và sợ hãi, muốn né tránh nó ngay lập tức, bèn vội ngửa đầu hết mức về phía sau. Thế nhưng một bàn tay gầy guộc song cứng như thép đã giữ chặt lấy cổ áo cậu, khiến cậu không thể nhúc nhích.
Đúng lúc Lỗ Nhất Khí sắp hét lên vì kinh sợ, thì chiếc lưỡi đột nhiên lùi lại, bàn tay đang túm chặt lấy cổ áo cậu cũng trượt xuống trước ngực áo, song vẫn kéo rất mạnh. Lỗ Nhất Khí theo phản xạ vô thức giật lùi về phía sau, hình thành thế giằng co với bàn tay đang lôi kéo.
Lúc này cậu mới nhìn rõ, lão mù miệng đầy máu tươi, lưỡi thè lè lủng lẳng bên ngoài miệng, tay phải túm ngang chính giữa cây gậy đang vắt về phía sau lưng, hai đầu gậy chặn lấy Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam ở hai bên, trong khi hai người đang cắm đầu lao thục mạng về phía trước như những con thiêu thân. Lão mù gồng hết sức để kéo họ ngược trở lại, song sức của một người sao thắng được hai người, xem ra lão mù đã không thế trụ nổi hai chân trượt lên phía trước, bàn tay đang túm chặt lấy ngực áo của Lỗ Nhất Khí cũng lỏng dần.
Thấy vậy, Lỗ Nhất Khí vội chụp lấy tay lão mù. Cái nắm tay này dường như đã truyền thêm một sức mạnh thần kì cho lão. Tay phải lão giật mạnh một cái, kéo hai người kia bật trở lại, sau đó mới vội vàng thở gấp được một hơi, ấm ớ kêu lên hai câu thảm thiết:
- Dập tắt đèn đi! Dập tắt đèn đi!
Lỗ Nhất Khí vừa nghe, tay trái còn chưa kịp buông, tay phải đã lập tức rút súng vung lên. Tiếng súng nổ vang, bốn đĩa đèn dầu bên trong đều tắt ngấm, chỉ còn hai chiếc sát ngoài cổng vẫn sáng. Cậu đã hết đạn.
Bàn tay đang túm chặt lấy ngực áo cậu đột ngột buông lỏng, cả ba người đều lao ngược về phía sau. Mấy người cùng ngã bổ nhào, tay chân cuống quýt đè cả lên người Lỗ Nhất Khí. Trong bóng đêm, cậu chỉ nghe thấy tiếng thở gấp nặng nề của họ. Hơi thở còn chưa kịp điều hòa, Quỷ Nhãn Tam đã bật dậy, “keng” một tiếng tung ra một bàn tay nối liền với sợi xích, giật mạnh, kéo đổ nốt hai ngọn đèn còn lại.
Ánh sáng vụt tắt, chỉ còn một màn tối bao trùm.
Lỗ Nhất Khí chưa kịp thò tay vào túi vải lôi hòn đá huỳnh quang Ba Tư ra, đã thấy trên tay Lỗ Thịnh Hiếu sáng lên một ngọn đèn “khí tử phong.”* Cậu bèn thả lại viên đá đã nắm trong tay vào trong túi, tiện tay lắp đầy đạn vào hộp đạn ổ xoay.
* Có nghĩa là “gió tức chết,” là một loại đèn dầu thời cổ đại, được sử dụng sớm nhất trong quân đội, chiếu sáng ổn định, gió thổi cũng không tắt, nên mới có tên gọi này.
Quỷ Nhãn Tam lấy tay vê vê ít dầu trong đĩa đèn, lại đưa lên mũi ngửi, rồi nói gọn lỏn:
- Mỡ lợn thiêng vùng Hoa Cốc, Vân Nam.
- Tranh thủy ngân Nam Từ! – Lỗ Thịnh Hiếu vừa thở hổn hển vừa buông ra một câu.
Chỉ hai câu nói ngắn ngủi vẻn vẹn hơn mười chữ, song không biết đã chứa đựng bao nhiêu nguy hiểm. Suýt chút nữa họ đã bỏ mạng chỉ vì hai thứ đó, có lẽ họ vừa mới cách cái chết chỉ trong gang tấc.
Lỗ Thịnh Hiếu đưa tay quệt mồ hôi túa ra trên mặt, nói tiếp:
- Nguy hiểm quá, không biết đối thủ kiếm đâu ra những thứ quái quỷ kia để làm ra một khảm diện như thế này!
- May mà có cậu ta! – Quỷ Nhãn Tam nói, đương nhiên là chỉ Lỗ Nhất Khí.
- May mà có chú ấy! – Lỗ Nhất Khí nói, đương nhiên là chỉ lão mù.
Mọi người đều đổ dồn ánh mắt về phía lão mù, lão đằng hắng khẽ một tiếng rồi giải thích:
Cả ba người đều đã trúng phải nút rồi, tôi phải dùng gậy để lôi giữ hai vị, tay còn lại thì túm lấy cậu cả. Nhưng một mình tôi sao có thể giữ nổi ba người, không còn cách nào khác, đành phải dùng máu để phá. Nên tôi cắn rách lưỡi, liếm trôi tấm màn che mắt của cậu cả. Còn việc bắn đổ đèn dầu sau đó đều là công của cậu cả đây!
Chỉ vài câu xem chừng điềm nhiên bình lặng, nhưng Lỗ Nhất Khí nghe mà trong lòng cuộn sóng đến mấy lần. Một người mù lòa đã dùng đôi tay gầy guộc một lúc kéo giữ những ba người, lại còn cắn rách lưỡi để liếm trôi tấm màn che mắt cho cậu. Trong khi ba người bọn họ hoàn toàn vô thức, chỉ phăng phăng kéo theo lão lao vào nguy hiểm và chết chóc. Một cuộc giằng co như thế, làm sao không khiến người nghe phải kinh sợ.
Nghĩ tới đây, cậu bất giác cảm thấy vô cùng khâm phục lão mù, cậu nói:
- Chú Hạ, chú thật tuyệt vời, không có chú, chúng ta chắc chắn không thể qua được cạm bẫy này. Chú đừng gọi cháu là cậu cả nữa, nghe ngại lắm, chú cứ gọi cháu là Nhất Khí thôi!
Lão mù nghe vậy, vội vàng nói:
- Không dám, không dám!
Song trên mặt lại bừng lên một nụ cười đắc ý.
Lỗ Thịnh Hiếu đứng bên cạnh vẫn đang trầm ngâm suy nghĩ, ông lẩm bẩm một mình:
- Dập tắt đèn thì dễ, còn bức tranh phải hóa giải thế nào đây? Hai thứ này kết hợp với nhau, kì diệu vô cùng, cho dù dùng riêng rẽ từng thứ, cũng cực kì lợi hại. Thế mà tại sao lão giặc mù kia lại không hề hấn gì nhỉ?
- Đúng rồi! – Trong đầu Lỗ Nhất Khí chợt lóe lên một tia sáng, cậu nói – Trong cuốn “Dị khai vật”* có viết rằng giống lợn thiêng vùng Hoa Cốc thích ăn trùng độc sinh ra từ các loài hoa thối rữa, sau đó mỡ tích tụ trong cơ thể nó, thứ mỡ này khi cháy không khói không mùi nhưng có thể thu nhiếp linh hồn của con người. Tranh thủy ngân Nam Từ nhờ hướng chảy đặc biệt, nếu mắt nhìn vào, sẽ bị câu nhiếp nhãn hồn, khiến ý thức rơi vào hoang tưởng. Do chú Hạ bị mù nên không bị bức tranh thủy ngân hút mất nhãn hồn. Nhưng chẳng lẽ ngay cả mỡ lợn thiêng cũng vô tác dụng với chú? Thật không hiểu nổi vì sao chú lại thoát được cạm bẫy linh hồn này?
* Một cuốn sách ghi chép về những thứ kì lạ hiếm có trong thiên hạ, không biết ra đời vào triều nào, tác giả là ai. Vào giữa triều Thanh, cuốn sách được xưởng in Kinh Lâm chỉnh lí và in ấn dưới dạng văn bạch thoại, đổi tên là “Kì dị vật thành lục.” Những ghi chép trong đó có bao nhiêu phần sự thực, vẫn chưa được kiểm chứng.
Lời nói của Lỗ Nhất Khí có lẽ đã thức tỉnh Lỗ Thịnh Hiếu, dường như ông cũng đã nghĩ ra được điều gì:
- Mỡ lợn thiêng không phải là khiến cho trí não mê muội, mà khiến cho tâm mê muội. Sức mạnh này rất trùng hợp với nguyên lí “rắc hoa trời cứu vạn sinh” của Đạo gia. Còn bức tranh thủy ngân Nam Từ lại vẽ cảnh “Tiêu diêu một lá thuyền,” cũng phù hợp với cảnh giới tự nhiên của Đạo gia. Ta và Nhất Khí đều đã từng tu Đạo học, còn cậu Tam đây tuy sống nhờ xác chết, nhưng cũng từng dùi mài thuật Mao Sơn* của Đạo gia, bởi vậy ba người chúng ta không những khó mà thoát khỏi cạm bẫy, mà còn sập bẫy rất nhanh chóng. Đương nhiên, khảm diện này cũng có hiệu quả tương tự với người bình thường không học Đạo, chỉ là phản ứng chậm hơn mà thôi. Cũng chính vì lão giặc mù này mắt đã không thấy gì thì chớ, lại còn tâm thuật bất chính, bản tính trộm cướp gian tà, nên mới lọt qua được cái bẫy chính môn pháp đạo này.
* Mao sơn thuật, hay còn gọi là Ngọc Nữ hỷ thần thuật, là một Đạo thuật thần bí trong truyền thuyết, có khả năng đuổi quỷ, hàng ma.
Lão mù đắc ý cười ha hả, hai người kia cũng cười theo. Chỉ có Lỗ Nhất Khí không cười, cậu biết rằng con đường của lão mù chắc chắn là hoàn toàn khác biệt với bọn họ. Cậu không hỏi, vì cậu biết sẽ có người nói cho cậu biết. Cậu bèn ngoảnh sang nhìn Quỷ Nhãn Tam.
Quỷ Nhãn Tam dùng đôi mắt độc nhất của mình nhìn lão mù với vẻ kính trọng bội phần, rồi nói:
- Khi còn sáng mắt, lão Hạ đây chính là Tây Bắc tặc vương!
Đúng vậy. Tây Bắc tặc vương Hạ Mang gia*, khinh công đâm chém không địch thủ, đó là danh hiệu lừng lẫy một phương trong chốn giang hồ.
* Tây Bắc tặc vương tức vua trộm cướp vùng Tây Bắc. Chữ “Mang” trong “Hạ Mang gia” có nghĩa là mũi nhọn, đồng âm với chữ “mang” là mù. Nên hiện nay cũng gọi là “mang gia,” nhưng có nghĩa là ông mù.
Lão mù không cười nữa. Lão tì người lên cây gậy dài và mảnh, khuôn mặt khẽ ngước lên. Năm xưa lão một người một ngựa tung hoành, một đêm trộm cắp cả trăm nơi, thật lưu luyến làm sao những năm tháng giang hồ sát phạt. Dường như mắt lão lại nhìn thấy đại mạc gió cát điên cuồng, rừng dương khói tỏa, bên tai lão văng vẳng những khúc dân ca lảnh lót của cô gái da nâu mặc chiếc áo chẽn đỏ. Khuôn ngực phập phồng của cô gái da nâu đã trở thành kho báu vĩnh hằng cùa lão. Cô gái ấy về sau đã trở thành vợ lão. Với lão, vẻ xinh đẹp của cô sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm. Lão không nhìn thấy cô gái da nâu năm xưa giờ đây đã mặt vàng như đất, mà suốt cuộc đời này, trong lòng lão vẫn giữ mãi hình bóng của cô gái trẻ hồn nhiên, hoạt bát ngày nào líu lo khúc dân ca.
Lão mù thở dài một tiếng, nét mặt tối sầm, bỗng nhiên lão nhớ nhà đến cồn cào, nhớ bà vợ đang lủi thủi ở nhà; nhớ ngày lão đi, bà đã tiễn chân đến năm dặm đường; lão nhớ tới mảnh lụa đỏ mà bà đã thỉnh cho khi đi thăm miếu.
Đúng rồi! Mảnh lụa đỏ, tại sao lão lại không nhớ tới mảnh lụa đỏ?
Lão mù gõ gõ ngón tay lên đầu, rồi thò tay vào trong ngực áo lôi ra một chiếc túi bằng lụa, kéo mạnh hai góc, lập tức bung ra thành một mảnh lụa đỏ, đỏ tươi như máu. Mảnh lụa đỏ vừa được giũ ra trước mắt Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam, hai người lập tức mừng ra mặt. Bức tranh thủy ngân Nam Từ đã có thể hóa giải được rồi!
- Anh cả, Nghê Tam, người nào sẽ thực hiện? – Lão mù hỏi.
- Để tôi! – Quỷ Nhãn Tam đáp.
- Phải rồi, để cậu ta làm đi, tôi già rồi, nhãn lực khó mà kham nổi! – Không phải Lỗ Thịnh Hiếu khách khí, mà quả thực ông đã bất lực. Ông ước gì mình có thể trẻ lại hai mươi tuổi. Nhưng cho dù có trẻ lại thật đi nữa, cũng có tác dụng gì. Hai mươi năm về trước, chẳng phải ông cũng chỉ biết bảo vệ em trai và em dâu đang bụng mang dạ chửa, vội vã tháo chạy khỏi chốn này hay sao?
Lỗ Nhất Khí đang ngơ ngác nãy giờ, đột nhiên cất tiếng hỏi:
- Con đi được không?
- Không được! – Cả ba người đều đồng loạt nói lớn.
Tiếng nói của họ rất vang, khiến mảnh lụa đỏ trong tay lão mù cũng rung lên lật phật. Không chỉ có lúc này, mà từ đầu đến giờ, họ đều nói rất to, lẽ nào họ không sợ đánh động đến thứ gì hay sao? Đúng là họ không sợ, bởi họ biết rằng, ẩn trong bóng đêm vốn dĩ có rất nhiều thứ vẫn luôn tỉnh táo, đang chờ đợi họ…
Mảnh lụa đỏ đã được phủ trên mặt Lỗ Nhất Khí, bởi lẽ cậu đã nói ra năm chữ, chỉ vỏn vẹn năm chữ, năm chữ mà cả ba vị cao thủ kia đều không thể phản bác, bởi vậy, chính cậu sẽ cần phải che mắt lại, cần phải để cậu đi đối mặt với bức tranh “Tiêu diêu một lá thuyền.”
Lỗ Thịnh Hiếu và Quỷ Nhãn Tam đều nghe thấy tiếng bước chân của Lỗ Nhất Khí đang tiến lại gần bức tranh ở phía sau lưng họ. Bởi vì họ không thể đối mặt với bức tranh, cho dù đã quay lưng lại, nhưng sức mạnh câu nhiếp nhãn hồn kia vẫn khiến họ tâm thần bấn loạn.
Tay xách chiếc đèn khí tử phong, đầu cúi thấp, chân rảo bước về phía trước, tuy mắt đã bị bịt kín bởi mảnh lụa đỏ, song Lỗ Nhất Khí vẫn không dám nhìn thẳng vào bức tranh. Bởi lẽ cậu không rõ tác dụng của “huyết hồng trệ ngân lưu”* hữu hiệu đến đâu.
* Có nghĩa là: máu đỏ làm ngưng trệ dòng thủy ngân. Tức là thông qua sắc đỏ như máu, có thể khiến cho tốc độ lưu chuyển của dòng thủy ngân màu bạc chậm lại, để mắt có thể nhìn rõ thứ mình muốn nhìn. Kì thực, nguyên lí của nó chính là tạo ra tác dụng tương tự như phân cực ánh sáng, giảm bớt ảo giác do những mảng màu trắng bạc chuyển động mang lại.
Lão mù đi sát phía sau Lỗ Nhất Khí, tay trái đặt lên vai cậu, giống như đã bám trên vai Quỷ Nhãn Tam khi mới bước vào trong cổng. Đi được ba bước, tới nơi họ vừa ngã, lão mù đột ngột vận lực vào bàn tay kéo Lồ Nhất Khí đứng lại, rồi sải một bước dài lên phía trước chắn trước mặt cậu, tiếp tục huơ cây gậy nhanh chóng điểm, vạch lên vị trí chính, phản Thất tinh ở hai bên tường. Trước mắt Lỗ Nhất Khí tóe ra từng chùm tia lửa, bên tai vọng đến từng hồi những tiếng leng keng. Tình hình lần này khác hẳn so với lần điểm Thất tinh lần trước. Tiếp đó, vách tường hai bên bỗng rung lắc liên hồi, vọng ra những tiếng “bình bịch” nghe giống như tiếng quả bóng da nảy trên mặt đất, âm thanh lúc một gấp và yếu dần, cho tới khi im bặt.
Lão mù quay đầu lại nói:
- Quả nhiên là có Đối hợp Thất tinh kháo, vừa rồi suýt nguy to, chỉ thêm nửa bước nữa là đã chạm phải cơ quan, mấy người chúng ta đã chết bẹp rồi. Bây giờ, cơ quan đã bị hóa giải, tiếp theo hãy xem cậu cả đối phó với bức tranh ra sao.
Lỗ Nhất Khí không dám tưởng tượng về một kết cục khác của sự việc vừa xảy ra, vì nó quả là khủng khiếp. Hành động vừa rồi của lão mù cũng đã khiến cậu nhận ra một số điều: thì ra cây gậy của chú Hạ được làm bằng thép, thảo nào trông nó mảnh khảnh như vậy mà khi nãy vẫn lôi giữ được những hai người. Còn nữa, môt người mù lòa như chú, tại sao có thể điểm trúng vị trí Thất tinh nhanh chóng đến vậy. À, phải rồi, độ cao của tường là cố định, tức là chỉ cần biết được tỉ lệ giữa Thất tinh và khoảng cách của một không gian, là có thể xác định được vị trí Thất tinh. Vị trí của các sao khác hình như cũng có thể xác định bằng cách này, đợi lúc nào có thời gian, cậu sẽ nghiên cứu thêm.
Kì thực, Lỗ Nhất Khí nghĩ lan man đến những chuyện này, cũng là muốn nhân đó phân tán sự chú ý, không để luồng ánh nhiếp hồn của bức tranh hút cậu lại gần. Những hoang tưởng vừa nãy vẫn khiến cho cậu cảm thấy chờn chợn, bởi vậy cậu không dám quá ỷ lại vào tác dụng của mảnh lụa đỏ trên mặt.
Tuy Lỗ Nhất Khí liên tục suy nghĩ lan man, song động tác cùa cậu không hề chậm chạp, chỉ sau hai, ba bước đã tới ngay phía trước bức tranh “Tiêu diêu một lá thuyền.” Qua lớp lụa đỏ như máu, cậu đã nhìn thấy tốc độ lưu chuyển của dòng thủy ngân trong bức tranh đã chậm lại rất nhiều, song trong thoáng chốc, cậu vẫn cảm thấy thần hồn bất định.
Cậu nhắm mắt lại để định thần một lát, sau đó từ từ hé mở đôi mi, hai mắt khép hờ giữ ánh nhìn thật thẳng. Nhưng cậu không tập trung tiêu điểm nhìn thẳng vào bức tranh, mà phân tán ánh nhìn, dần dần mở rộng khoảng cách giữa hai con ngươi, khiến chúng tách về hai phía. Lúc này, trong mắt cậu, con thuyền trong tranh bị tách thành hai cái bóng trùng điệp lên nhau. Sau đó, hai cái bóng dần dần rời xa nhau, lúc một xa hơn cho tới khi hai con ngươi tách xa tới cực điểm.
- Một mắt không nhìn chập!
Lỗ Nhất Khí không nói cho ba người kia biết mình sẽ phá giải bức tranh thủy ngân Nam Từ như thế nào song chỉ năm chữ này đã cho họ biết rằng, chắc chắn cậu là người duy nhất trong số họ có thể đảm đương được trọng trách này.
Bản thân Lỗ Nhất Khí cũng không biết mình có phá giải được hay không, thậm chí cậu còn chưa bao giờ nhìn thấy một bức tranh như thế. Song chỉ cần nó quả thực là bức tranh thủy ngân Nam Từ đã được nhắc tới trong “Dị khai vật,” rất có thể cậu đã biết cách phá giải. Bởi lẽ khi đọc cuốn “Dị khai vật,” cậu còn đồng thời đọc được một trang sách rách rời khác không rõ xuất xứ, trong đó có viết về cách hóa giải đối với một số thủ đoạn nhiếp hồn, đương nhiên cũng gồm cả bức tranh thủy ngân Nam Từ.
Giờ đây, hai chiếc bóng của con thuyền đã bị tách ra tới vị trí cực điểm mà hai mắt cậu có thể phân rẽ được, song cậu vẫn chưa phát hiện ra điểm huyệt, điều đó khiến cậu bắt đầu có chút ngờ vực về cách phá giải khảm diện mà mình đã đọc được. Bất giác cậu thấy toàn thân nóng phừng phừng.
Song nhờ vào định lực bẩm sinh, cậu mau chóng trấn tĩnh được tâm thái. Cậu lại tập trung ánh nhìn, dò xét kĩ lưỡng hơn một lượt nữa, song vẫn không phát hiện ra điểm huyệt ở đâu. Mồ hôi đã chảy túa ra trên trán cậu.
Rốt cuộc cậu đã sơ suất ở khâu nào?
Lỗ Nhất Khí lại nhắm mắt định thần lần nữa, hồi tưởng lại toàn bộ quá trình vừa trải qua. Cậu bỗng phát hiện ra rằng, nếu như có điểm nào sơ suất, chắc hẳn là khoảnh khắc hai chiếc bóng bắt đầu phân tách đã diễn ra quá nhanh, sai sót rất có thể là ở trong khoảnh khắc đó.
Thế là cậu lại mở mắt, gắng sức ghìm tốc độ đến chậm nhất có thể. Và cậu đã phát hiện thấy, cuối cùng thì cậu cũng đã phát hiện thấy, phần đỉnh cột buồm vào lúc vừa mới tách đôi, khi đường biên bên trái và đường biên bên phải của hai chiếc bóng cột buồm vừa trùng khít lên nhau, tại vị trí hai đường thẳng chồng lên nhau đó, có một đoạn trông hơi dày hơn một chút. Cậu đã hiểu rồi, điểm huyệt nằm trên đường biên bên phải của cột buồm. Mà không, nói đúng hơn nó phải là khe huyệt.
Cậu đã biết bước tiếp theo mình cần phải làm gì. Thế là cậu bước lên phía trước, đưa ngón tay vuốt nhẹ một cái. Khe huyệt rất mảnh, ngón tay cậu hầu như không cảm nhận được về sự tồn tại cùa nó. Cậu bèn đưa miệng lại gần, áp đôi môi sát lên khe huyệt, sau đó, cậu bắt đầu hút vào một hơi, thật nhẹ, thật dịu dàng tựa như đang khẽ hôn đôi môi mỏng đang khép chặt của người tình. Và một sợi tơ mảnh, dai và trơn bóng nhảy vào trong miệng cậu. Cậu nhẹ nhàng ngậm lấy nó, ngửa đầu ra phía sau lôi khẽ…
“Ục… ục…”
Bên tai cậu bỗng vang lên một chuỗi âm thanh tựa như tiếng nước rút, có điều chỉ đứng ở khoảng cách gần như cậu mới nghe thấy.
Thủy ngân trên bức tranh đang biến mất dần từ trên xuống dưới, cũng chỉ có đôi mắt bị che phủ phía sau lớp lụa đỏ của cậu mới nhìn thấy.
Bề mặt bức tranh bắt đầu có sự rung động rất vi tế, và cũng chỉ có cậu mới cảm nhận thấy.
Bức tường phía tây bất ngờ phát ra một tiếng động lớn rồi trượt mạnh sang một bên, mở ra một lối đi rộng rãi. Điều này thì mọi người đều nhìn thấy.
Bốn người bọn họ đều nhìn thấy.
Bên trong trạch viện cũng có người nhìn thấy.
Bên ngoài trạch viện cũng có người nhìn thấy.