Những tuần lễ sau đó, tôi vượt qua vùng cao nguyên Décan để đi xuống miền Nam. Tôi viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh, nhưng không gặp một nhân vật nào đáng kể. Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí mà tôi nhắm mắt tuân theo không suy nghĩ, thúc giục tôi tiến bước. Ngày nọ, tôi ngồi trên chuyến xe lửa đêm đi xuống Madras, và không tìm thấy giấc ngủ, tôi bèn ngồi dậy để thử kiểm điểm lại những kết quả đã thu lượm được. Tôi phải nhìn nhận rằng kết quả rất mỏng manh, và tôi chưa có dịp gặp gỡ một người đạo sĩ nào. Còn nói về hy vọng gặp một vị Chân Sư, thì tôi đành tạm thời gác lại một bên.Trái lại tôi đã gặp phải bao nhiêu những sự dị đoan mê tín và những tập quán cổ xưa lỗi thời. Bây giờ tôi mới hiểu những nụ cười nghi hoặc và những lời cảnh cáo của các bạn tôi ở Bombay. Lần đầu tiên tôi đã nhận thức được sự khó khăn của vấn đề tôi đang theo đuổi.Nói về những tu sĩ sùng tín và đạo hạnh, thì ở xứ này không thiếu gì; họ gồm một thành phần đông đảo không thể tưởng tượng. Nhưng họ có đáng để cho mình tốn công nhọc sức đi tìm hay chăng thì đó lại là một việc khác. Bạn đi ngang qua một ngôi đền cổ kính thâm nghiêm, bề ngoài có vẻ rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn, bạn bước vào trong với một tấm lòng sùng kính thiêng liêng và tiến đến gần nơi Thánh điện. Bạn nhìn vào trong và bạn thấy những gì? Những người hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện vừa rung một cái chuông nhỏ để làm cho những lời cầu xin của họ được thấu đến tai của những vị Thần trong đền!Thành phố Madras với những phong cảnh tưng bừng nhộn nhịp và màu sắc địa phương rực rỡ lạ mắt làm cho tôi rất thích thú. Tôi tạm trú ở một vùng ngoại ô cách thành phố hai dặm, nơi đây tôi sẽ được gần gũi với người bổn xứ hơn là ở khu sang trọng của người Âu.Tôi đi theo con đường cát, nhà cửa hai bên đường đều quét vôi trắng, trước mỗi nhà đều có hàng ba để trống cho mát. Chung quanh vùng có cây cối sầm uất, cảnh vật có vẻ ưa nhìn. Cách đó chừng nửa dặm, con sông Adyar uốn quanh, dòng nước chảy chậm chạp lờ đờ. Hai bên bờ sông có những vườn dừa che bóng mát rượi. Tôi định lúc rảnh rang, sẽ đi bách bộ dạo chơi dưới bóng những hàng dừa, hoặc ngồi ngắm cảnh trên bờ sông. Con sông Adyar chảy về ngoại ô phía nam thành phố Madras, trước khi đổ ra vịnh Coromandel.Một buổi sớm mai, tôi đi dạo trên bờ sông với một người thanh niên Ấn mà tôi mới làm quen và tôi đã có dịp thổ lộ với y về mục đích cuộc sưu tầm của tôi. Thình lình y nắm lấy tay tôi và nói:- Kìa! Ông hãy nhìn xem: Người đằng kia đang đi về phía chúng mình, là một người Yogi. Có lẽ ông sẽ muốn biết về người ấy, nhưng có điều rất tiếc là khó mà làm quen với y.- Tại sao vậy? - Tôi biết chỗ y ở, nhưng tôi chưa từng thấy ai dè dặt và kín đáo như người này.Người lạ mặt đã tiến đến gần chúng tôi. Y có cái vóc vạc cao lớn lực lưỡng, và trạc độ ba mươi lăm tuổi. Gương mặt y có điều làm cho tôi chú ý nhất, là những nét đặc biệt của giống dân da đen: Nước da rất sậm, mũi tẹt, cặp môi dầy, vai rộng. Tóc y dài và cột lại thành một búi tóc nhỏ trên đỉnh đầu. Y đeo hai cái khoen lớn khác thường dưới hai trái tai. Y vận một cái chăn quấn chung quanh thân mình, một đầu thì vắt lên vai trái, hai vai để trần và đi chân không. Y đi ngang qua chúng tôi với những bước đi chậm rãi, mắt nhìn xuống đất như tìm một vật gì, và dường như không nhìn thấy chúng tôi. Đằng sau đôi mắt đó, hẳn là có một tâm hồn sáng suốt linh hoạt, và tôi tự hỏi rằng trong cơn suy tư trầm lặng và đơn chiếc của y lúc ấy, không biết y đang suy nghĩ về vấn đề gì? Tôi bỗng có ý muốn phá tan bức rào ngăn cách giữa tôi và con người bí hiểm đó. Lúc ấy y đã đi qua khỏi chỗ chúng tôi đứng. Tôi bèn đề nghị:- Tôi muốn nói chuyện với y. Chúng ta hãy quay trở lại.Người thanh niên bèn ngăn tôi:- Ông sẽ mất thời giờ vô ích.- Hãy thử xem, biết đâu.Người bạn đi đường với tôi lại can ngăn tôi lần nữa:- Người này sống ẩn dật và cách biệt đến nỗi không ai biết gì cả về cuộc đời của y. Y tránh xa tất cả mọi người, thậm chí đến cả những người láng giềng. Tốt hơn, chúng ta đừng nên làm phiền rộn y.Nhưng tôi đã quay trở lại, và người bạn trẻ của tôi đành phải đi theo tôi. Không bao lâu, chúng tôi đã theo gần kịp người lạ mặt. Y vẫn tiến bước mà không tỏ vẻ gì biết rằng có chúng tôi đi theo; chúng tôi bèn cố gắng vượt lên. Tôi bảo người thanh niên:- Anh hãy nói là tôi muốn nói chuyện với y.Người bạn trẻ của tôi do dự và lắc đầu từ chối:- Tôi không dám.Không muốn bỏ qua một cơ hội tốt, tôi bèn đánh bạo làm quen. Tôi không còn cách nào khác, thôi đành bất chấp những luật lệ xã giao thông thường. Tôi bèn đứng chận đường người Yogi và thốt ra một câu ngắn ngủi rút trong số vốn sinh ngữ Ấn Độ nghèo nàn của tôi. Người lạ mặt ngước mắt nhìn lên, miệng hắn nở một nụ cười, nhưng lại lắc đầu tỏ vẻ không muốn bị phiền nhiễu. Người bạn trẻ của tôi thấy rằng đã đến lúc y phải can thiệp.Bằng một giọng do dự, y nói vài lời xin lỗi bằng tiếng Tamoul. Người Yogi không đáp lại, nét mặt y trở nên cứng rắn, cặp mắt lạnh lùng cách biệt. Người thanh niên luống cuống nhìn tôi, sự im lặng càng trở nên nặng nề và khó chịu. Làm sao thoát ra khỏi tình trạng đó? Trong cơn bối rối, tôi mới biết rằng thật không phải dễ gì mà làm cho một người ẩn sĩ mở miệng để nói chuyện với mình. Những người ấy hẳn là khônaid=1720&chuongid=11')">Đời Người Khắc Trên Tinh Tú
Một Cuộc Gặp Gỡ Lạ Lùng
Đạo Viện Trong Rừng Thẳm
Những Chân Lý Diệu Huyền
---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---
Ai Cập Huyền Bí
Đông phương huyền bí
!!!1720_4.htm!!!g thích bị ai phỏng vấn, đừng nói chi là tiếp đón một người ngoại chủng, tọc mạch muốn biết đời sống nội tâm của mình. Điều mà họ càng không thích hơn nữa, là phải nói chuyện với một người Anh, tức là hạng người mà họ đinh ninh rằng không hề có một chút thiện cảm hoặc hiểu biết gì về những điều huyền vi và tế nhị của pháp môn Yoga.Nhưng ý nghĩa đó bị xô đuổi bởi một ý nghĩa khác. Tôi cảm thấy rõ rệt rằng mình đang là cái đích đặt dưới sự dò xét tỉ mỉ và sâu sắc của người Yogi. Tôi chắc chắn rằng bên trong cái vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm của y, y đang để ý thăm dò những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi. Hay là tôi nghĩ lầm? Nhưng tôi không thể gạt bỏ cái cảm giác khó chịu đó: Tôi đang là một vật khám nghiệm dưới một ống kính hiển vi! Người thanh niên lấy làm bực mình và ngầm lấy cùi chỏ thúc vào hông tôi, như muốn nói rằng ta hãy nên lui bước. Y làm tôi khó chịu, và chỉ độ một phút nữa là tôi cũng đành nhượng bộ rút lui và nhìn nhận sự thất bại của mình.Ngay khi đó, người Yogi cử động; y đưa tay chỉ một gốc dừa gần bên và ra hiệu bảo chúng tôi cùng ngồi dưới bóng cây. Y ngồi sau hết và nói vài lời bằng tiếng Tamoul với người thanh niên. Tôi nhận xét giọng nói của y trong và ấm gần như tiếng nhạc.Người bạn trẻ của tôi dịch lại:- Đạo sĩ nói rằng người sẵn lòng tiếp chuyện với ông.Tôi mới hỏi quý danh đạo sĩ và được biết y có một cái tên rất dài. Tôi bèn gọi y là Brama cho tiện và dễ nhớ. Tôi nói với người thanh niên:- Anh hãy nói dùm là tôi rất chú trọng đến khoa pháp môn Yoga và tôi muốn được hiểu biết ít nhiều về khoa ấy.Người Yogi gật đầu mỉm cýời:- À! Tôi cũng đoán như vậy. Vậy ông muốn biết điều chi, xin ông cứ hỏi.- Đạo sĩ tu luyện theo pháp môn nào? - Tôi tu theo pháp môn Hatha Yoga, tức là phép chủ trị xác thân. Đó là pháp môn khó nhất. Thể xác con người và nhất là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa! Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con.- Tu theo pháp môn này đem đến những ích lợi gì? Cặp mắt mơ màng nhìn về cõi xa xăm, Brama đáp:- Sức khỏe, ý chí và sống lâu, đó là mới kể sõ vài ðiều. Người Yogi tu luyện đúng phép sẽ làm chủ được xác thân và làm cho nó trở nên cứng rắn như sắt. Sự đau đớn không còn phạm đến nó được nữa. Tôi biết một người Yogi chịu đựng một cuộc giải phẫu mà không dùng đến thuốc mê: Y chịu mổ tới cùng mà không rên một tiếng. Người Yogi cũng có thể phơi mình trần dưới một tiết trời lạnh lẽo nhất mà không sao cả.Tôi lấy sổ ra ghi chép, và câu chuyện bắt đầu bước qua một giai đoạn thú vị. Chữ tốc ký của tôi làm Brama mỉm cười, nhưng y không ngăn cản việc ấy.- Đạo sĩ có thể cho biết thêm vài chi tiết? - Được, nếu ông muốn. Thầy tôi đã từng sống ở chỗ lộ thiên trên dãy Hy Mã Lạp Sõn đầy tuyết phủ mà không có mặc gì khác hơn một manh áo mỏng. Người có thể nằm suốt nhiều giờ liên tiếp ở một nơi mà nước đông đặc lại trong tức khắc, nhưng vẫn không hề chi cả. Đó là cái mãnh lực nhiệm mầu của pháp môn Yoga.- Và đạo sĩ là đệ tử của Ngài? - Phải, nhưng tôi cũng chưa đạt tới mức cao tột, mặc dù tôi đã công phu cố gắng luyện tập không ngừng trong suốt mười hai năm.- Nhưng chắc đạo sĩ cũng đã đạt tới một trình độ nào rồi, và có được những quyền năng mà người ta gọi là phi thường? Brama gật đầu nhưng không nói gì. Y làm cho tôi còn tò mò hơn nữa, tôi bèn hỏi:- Xin ông có thể cho biết trong trường hợp nào ông đã trở nên một người Yogi? Im lặng. Cả ba người chúng tôi đều ngồi dưới bóng cây dựa bờ sông. Trên lùm cây bên kia sông, tiếng bầy quạ kêu vang pha lẫn với tiếng kêu chí chóe của vài con khỉ nhảy nhót trên cành.Bỗng nhiên, Brama nói "Xin vâng." Tôi đoán chắc y hiểu rằng những câu hỏi của tôi có một lý do sâu xa hơn là một sự tò mò của nhà học giả. Y choàng lại cái khăn vắt trên vai, đôi mắt mơ màng nhìn về phía bên kia sông và bắt đầu nói:- Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn. Tôi không thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi, vì thế tôi luôn luôn tránh họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn cây hay ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì đang diễn ra trong tâm hồn kín đáo của một đứa trẻ, tôi sống cách biệt với mọi người và tôi cảm thấy rằng đời không có gì vui. Vào năm tôi mười hai tuổi, tình cờ tôi nghe lóm được một câu chuyện giữa những người lớn, họ nói về vấn đề Yoga. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ đó, và những gì tôi nghe trong câu chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn nhiều người và góp nhặt được vài quyển sách nói về vấn đề Yoga, trong đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các nhà đạo sĩ Yoga. Cũng như con ngựa rong ruỗi trên sa mạc mong mỏi tìm đến ngọn suối mát ở tận chân trời, trí óc tôi khao khát sự hiểu biết, nhưng tôi chỉ có một mình và không làm sao tiến hõn được nữa. Một hôm, tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu: "Muốn tiến bộ trên đường tu luyệt pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ dẫn của một bậc danh sư." Những lời này làm cho tâm hồn tôi thắc mắc băn khoăn."Một danh sư! Tôi hiểu ngay rằng muốn tìm được Thầy, không có cách nào khác hơn là bỏ nhà ra đi ngao du thiên hạ. Tự nhiên là tôi không thể trông cậy nơi sự cho phép của cha mẹ tôi. Không biết phải làm thế nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã góp nhặt được những tài liệu trong các sách. Phép luyện này, thay vì có ích, lại làm hại cho tôi. Tôi không biết rằng phép khí công rất nguy hiểm nếu nó không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá nóng ruột nên không thể chờ đợi mãi được."Sau vài năm tập luyện lén lút một mình, cái hậu quả bất ngờ đưa đến là tôi bị đứt một gân máu trên đỉnh đầu, dường như đó là chỗ chịu đựng yếu nhất. Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức yếu dần, máu chảy lênh láng ở chỗ vết thương. Tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai giờ sau đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương mặt đạo mạo của một vị đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi:- Con thấy chăng, phép luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục, có thể đưa con đến một tình trạng nguy hiểm là dường nào! Con hãy nhớ lấy bài học này."Cái hình ảnh biến mất, nhưng lạ thay, từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không bao lâu sức khỏe của tôi hoàn toàn bình phục trở lại. Nhưng này ông hãy xem, cái thẹo hãy còn đây.Brama cúi đầu đưa cho chúng tôi xem một cái thẹo nhỏ hiện ra rõ ràng trên đỉnh đầu. Y nói tiếp:"Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc luyện hơi thở và chờ đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng buộc gia đình. Khi tôi được tự do, tôi liền từ giã gia đình và đi châu du khắp nơi để tìm Thầy. Tôi biết rằng phương pháp hay nhất để thử người Thầy mình chọn, là hãy sống chung với người ấy trong vài tháng. Tôi đã chọn hết vài người, và khi thì ở chung với họ, khi thì nhà, nhưng tôi luôn luôn bị thất vọng. Những vị ấy đều là những vị sư trưởng, cầm đầu các tu viện hoặc đạo viện, nhưng không có vị nào làm cho tôi thỏa mãn. Về phần lý thuyết thì có rất nhiều, nhưng còn về kinh nghiệm riêng của họ thì chẳng có gì cả. Phần nhiều chỉ lặp lại những điều đã có trong sách, còn về việc dìu dắt tôi trên phương diện thực hành, thì họ không làm được. Tôi đã biết tất cả mười người Thầy, nhưng không thối chí, sự sốt sắng của tuổi trẻ lại càng bồng bột thêm, và những sự thất vọng liên tiếp đó càng nung nấu thêm lòng cương quyết của tôi."Tôi đã đến tuổi trưởng thành. Tôi bèn quyết định ly khai nhà cửa gia đình, dứt bỏ cuộc đời thế gian và đi lưu lạc giang hồ để tìm Thầy. Tôi bước chân ra đi, phiêu lưu. Một ngày kia, tôi đến một làng nọ thuộc tỉnh Tanjore. Tôi bước xuống sông để tắm gội, xong rồi tôi mới đi dạo chơi trên bờ sông. Tôi thấy một ngôi đền nhỏ xây bằng đá màu đỏ. Hiếu kỳ, tôi nhìn vào trong và lấy làm ngạc nhiên mà thấy có một số người ngồi vây quanh một người khác mình trần. Họ nhìn người này với một sự kính mến vô cùng: Quả thật, trên gương mặt người này có một cái gì vừa huyền bí vừa tôn nghiêm. Tôi đứng ở trên thềm và nhìn xem với một sự say sưa, chăm chú. Tôi nhận thấy rằng cả bọn đang thụ giáo người này về một môn học nào đó, và tôi có cái linh cảm rằng người này là một vị đạo sĩ chân chính, một bậc danh sư mà tôi vẫn tìm kiếm chớ không phải là một học giả nhồi sọ đầy những lý thuyết."Bỗng nhiên, bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Tuân theo một sự thúc giục thầm kín bên trong, tôi bước vào trong đền. Vị tôn sư tiếp đón tôi một cách niềm nở, mời tôi ngồi và nói:- Con đây rồi! Đã sáu tháng nay, ta được lịnh thâu nhận con làm đệ tử."Thật là vừa đúng sáu tháng kể từ ngày tôi bước chân ra đi. Và tôi đã gặp Thầy tôi trong trường hợp đó."Từ đó trở đi, tôi theo Thầy tôi khắp mọi nơi. Có đôi khi, người xuống tỉnh thành, còn lúc thường thì Người ở tận trong rừng thẳm. Tôi bắt đầu thu hoạch được những kết quả tiến bộ mau chóng về khoa Yoga. Thầy tôi là một vị Yogi thượng thặng về pháp môn Hatha Yoga, tức là pháp môn tinh luyện và chủ trị thân xác. Khoa Yoga có nhiều môn phái khác nhau về phương pháp thực hành. Môn phái của tôi chuyên lo tinh luyện xác thân trước nhất, rồi sau mới tinh luyện về tinh thần. Phép luyện khí công, tức luyện hơi thở, cũng thuộc về pháp môn này. Có một lần, tôi phải nhịn đói suốt bốn mươi ngày liên tiếp để chuẩn bị một giai đoạn công phu đặc biệt và nhận lãnh một vài quyền năng của pháp môn Yoga."Một hôm Thầy tôi gọi tôi lại gần và nói:- Một cuộc đời xuất gia và hoàn toàn thoát tục chưa phải là của con. Con hãy trở lại thế gian và sống một cuộc đời bình thường. Con sẽ lập gia thất và sinh một đứa con. Đến năm con ba mươi chín tuổi, con sẽ được thấy nhiều ấn chứng và khi đó sẽ được tự do rút lui ra ngoài vùng thế tục. Chừng đó con sẽ trở lại nơi rừng thẳm để tu luyện cho đến khi công phu viên mãn. Thầy sẽ chờ đợi, con có thể trở lại với Thầy."Tôi vâng lời Thầy dạy và trở về quê hương. Tôi cưới một người vợ hiền và có một đứa con đúng như lời Thầy tôi đã nói trước. Sau đó ít lâu, vợ tôi qua đời, cha mẹ tôi cũng đã khuất núi, và tôi lại từ giã quê hương một lần nữa để đến ở nơi đây, tại nhà một bà lão góa bụa, người đồng hương với tôi và đã từng biết tôi từ khi tôi còn nhỏ. Bà lão này coi sóc nhà cửa bếp núc cho tôi, và vì tuổi già làm cho bà trở nên ít oi và kín đáo, nên bà để cho tôi bình yên sống cuộc đời ẩn dật mà môn phái của tôi đã chỉ định."Brama nói dứt lời, tôi cũng không hỏi thêm gì nữa. Sau vài phút im lặng, y đứng dậy và bước chậm rãi trở về nhà. Tôi và người bạn trẻ cùng đi theo sau. Chúng tôi đi qua một đám rừng dừa và những chòm cây cối sầm uất. Nước sông Adyar phản chiếu ánh nắng sáng ngời. Một hay hai giờ trôi qua trong khi chúng tôi đi dạo một cách thú vị theo bờ sông. Không bao lâu, chúng tôi đã về đến làng. Một ngọn gió nhẹ từ bờ biển thổi vào mát rượi. Đến một bên đường, một bầy lợn đi ngang qua, một bà lão chăn lợn cầm cái gậy phát những ngọn roi tre vào những con đi lạc bầy.Brama quay lại để từ giã chúng tôi. Tôi tỏ ý muốn gặp y lại lần nữa. Y gật đầu bằng lòng. Tôi bèn mời y lại nhà tôi chơi. Người bạn trẻ của tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy người đạo sĩ hẹn đến chơi nhà tôi ngay chiều hôm đó.Chiều đến, tôi ngồi đợi Brama và sắp đặt sẵn trong trí những câu hỏi mà tôi sẽ đưa cho y. Những điều y thuật lại về cuộc đời của y làm tôi thích thú và muốn tìm hiểu thêm về con người bí mật đó. Vừa nghe nói có y đến, tôi liền bước ra hàng ba và chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ để tỏ thiện chí của tôi đối với y và cũng bởi vì tôi muốn tôn trọng những phong tục bổn xứ mỗi khi tôi có thể.Sau cùng cái giờ phút đó đã đến. Tư tưởng đã tắt hẳn như một đóm lửa tàn. Lý trí đã rút lui về cái địa hạt của nó, và thần thức không còn bị chướng ngại. Bộ óc đã bước vào một trạng thái hoàn toàn ngơi nghỉ, cũng như trong giấc ngủ mê nhưng tâm thần vẫn tỉnh táo, tuyệt nhiên không chút mê muội. Tôi vẫn điềm tĩnh và biết rõ tôi là ai cùng những gì đang diễn ra ở chung quanh. Tuy nhiên cái ý thức của tôi đã rút lui ra khỏi những giới hạn chật hẹp của bản ngã, và thuộc về một cái gì huyền diệu vô cùng, nó bao gồm hết tất cả hơn nhiều cái bản ngã vô vị kém hèn mà từ trước đến giờ tôi vẫn tưởng là Tôi, một cái gì thâm sâu hơn, thiêng liêng huyền diệu hơn, hỗn hợp với tâm thức của tôi. Tôi cảm thấy được một điều mới lạ, đó là một sự tự do tuyệt đối hoàn toàn, và thoát ra khỏi sự hoạt động độc đoán của tư tưởng chẳng khác nào như thoát ra khỏi chốn ngục tù để thở bầu không khí tự do phóng khoáng bên ngoài.Tôi đã vượt qua khỏi giới hạn và bước ra ngoài vòng tâm thức của quả Địa Cầu.Bầu Hành Tinh vẫn dung dưỡng chứa chấp tôi thuở nay, đã biến mất dạng. Tôi đang phiêu diêu giữa một biển ánh sáng rạng ngời. Biển ánh sáng này, tôi cảm thấy hình như là chất Tiên Thiên. Khí làm căn bản cấu tạo nên các bầu thế giới, tức là trạng thái nguyên thủy của vật chất hồng trần. Nó bao trùm khắp nơi trong cõi không gian bao la vô tận, và sống động một cách không thể tả.Trong khoảnh khắc, tôi đã thấu rõ ý nghĩa tấn tuồng sinh hoạt nhiệm mầu của Vũ trụ nó diễn ra trong không gian. Tôi, cái Tôi mới, được tràn ngập một niềm hạnh phúc và an lạc vô biên. Tôi đã uống cạn chén nước cam thủy của giòng sông Léthe, tức giòng nước quên lãng. Những đắng cay của dĩ vãng, những phiền muộn của tương lai, thảy đều tiêu tan và đắm chìm trong sự lãng quên. Tôi đã đạt tới một sự tự do thiêng liêng và một niềm phúc lạc không thể tả. Tôi mở rộng hai tay đón lấy toàn thể vũ trụ và chúng sinh với một tình thương bao la thâm trầm, vì tôi đã hiểu một cách thâm sâu rằng: Hiểu biết tất cả không phải chỉ là tha thứ tất cả, mà còn thương yêu hết tất cả!Linh hồn tôi đã say sưa trong cơn đại định, thoát trần!... Làm sao tôi có thể ghi chép lại được một sự kinh nghiệm siêu linh và huyền diệu như thế, vì nó quá tế nhị để có thể diễn tả bằng ngòi bút của tôi? Tuy nhiên, những điều chân lý bất hủ mà tôi đã thu thập được cần phải được diễn tả bằng ngôn ngữ của trần gian, và sự cố gắng đó sẽ không phải là vô ích. Bởi vậy, tôi đã thử ghi chép lại, dẫu rằng một cách vụng về, một vài điểm ký ức của cõi giới diệu huyền mà người đời chưa từng thám hiểm, nó ở ngoài vòng giới hạn tâm trí của con người.Con người có thể tự hào rằng y thuộc về một giòng giống thiêng liêng: Một Đấng vô cùng cao cả hơn người mẹ của y vẫn chăm nom săn sóc y từ thuở ấu thõ. Trong những khi khôn ngoan sáng suốt hơn, y sẽ nhận biết điều này.Có một thuở, trong cái thời kỳ dĩ vãng xa xăm, con người đã từng thề nguyền chung thủy với Đấng Hóa Công, và trong một bầu không khí lộng lẫy huy hoàng, y đã nghe theo tiếng gọi của cuộc đời trần gian tục lụy, thì cũng có những người không hề quên lời thề nguyền thuở xưa, họ sẽ nhắc nhở cho y nhớ lại đúng vào giờ phút thích nghi.Trong con người, có một yếu tố bất diệt, đó tức là Chân Ngã. Y đã lãng quên mất Chân Ngã của mình, nhưng sự lãng quên đó không bao giờ có thể làm giảm bớt đi sự cao cả thiêng liêng của nó. Y có thể quên mất nó đi và ngủ mê trong sự truy hoan, nhưng một ngày kia nó vươn mình cho trỗi dậy và đánh thức y, y sẽ nhớ lại rằng y là ai và thu hồi lại được linh hồn của mình.Con người không tìm thấy cái chân giá trị của mình bởi vì y đã mất cái ý thức về Thiêng Liêng. Bởi đó, y chạy quàng xiên theo những lý thuyết của người khác, trong khi y có thể tìm thấy lẽ sống chân thật ở tự nơi mình. Hình biểu tượng Sphinx không nhìn cảnh vật bên ngoài. Cái nhìn khó lường của nó luôn luôn hướng vào bên trong, và ý nghĩa thâm sâu của nụ cười bí hiểm của nó là Tự Biết Mình.Người nhìn vào bên trong chỉ thấy có sự bất mãn, yếu đuối, vô minh và sợ sệt, chớ vội thất vọng và hoài nghi. Y hãy nhìn sâu hơn và lâu hơn, cho đến khi y nhận thấy những dấu hiệu thoáng qua nó sẽ xuất hiện khi cái tâm hoàn toàn vắng lặng. Y hãy cẩn thận dò xét những dấu hiệu đó, vì nó sẽ sống động và tăng trưởng lên thành những tư tưởng siêu việt vượt ra ngoài vòng giới hạn của lý trí, chẳng khác nào như những vị Thiên Thần tiền phong báo hiệu trước một tiếng nói huyền diệu sắp đến. Đó là tiếng nói của một vật ẩn dấu, huyền bí, thâm trầm nó ngự trong nội tâm của y, tức là tiếng nói của Chân Ngã.Mỗi người đều sẽ có lúc được hưởng ân huệ thiêng liêng trong đời mình, nhưng nếu y thản nhiên bỏ qua cơ hội, thì ân huệ đó cũng ví như một hột giống gieo trên bãi đá sạn. Không ai bị sa thải ra ngoài cái ân huệ thiêng liêng đó, mà chỉ là con người tự sa thải lấy mình. Con người đi tìm tòi khám phá cái ý nghĩa bí ẩn của cuộc đời, hãy nên biết rằng cái Nguồn sống sinh ra y vốn cao cả và thiêng liêng hơn là y có thể tưởng tượng. Y hãy tin tưởng nơi Thiên Ý và tuân theo những mệnh lệnh thâm trầm nhắn nhủ vào cõi lòng y bằng những linh cảm tế nhị và sâu sắc. Người nào tưởng rằng y có thể sống tự do theo ý mình, chiều theo tiếng nói của dục vọng mà khỏi phải chịu trách nhiệm về những hành động của y về sau này, thật là trói buộc cuộc đời y với điều mộng ảo. Kẻ nào phạm tội với người đồng loại hay với chính họ, ấy là tự họ tuyên án lấy mình. Họ có thể giấu diếm tội lỗi khuất mắt người đời, nhưng họ không thể che dấu các đấng Thần Minh. Nền Công Lý vẫn cai quản thế gian một cách đúng phép mặc dầu người ta không nhìn thấy những hành động của nó, và không phải lúc nào cũng tìm thấy nó ở những Pháp Đình của trần gian. Kẻ nào thoát khỏi luật pháp trần gian sẽ không thoát khỏi lưới công bình thưởng phạt của Thánh Thần.Những người đã từng chịu đựng đắng cay gian khổ, những người đã trải qua những cơn nghịch cảnh tối tăm, gan bầm ruột héo, lệ sầu tuôn rõi sẽ sẵn sàng hơn để tiếp nhận tiếng nói của Chân Lý. Nếu họ không nghe thấy gì khác hơn, ít nhất họ có thể nhận định rõ tính cách phù du giả tạm của cuộc đời, họa phước vô thường biến đổi. Nếu họ không bị phỉnh lừa bởi những ngày sáng sủa vui tươi, ho sẽ ít khổ hơn trong những giờ đen tối. Đời người gồm cả vui sướng lẫn đau khổ, không ai có thể tự hào rằng mình được trọn vẹn suốt đời. Người nào còn tự đắc, kiêu hãnh đối với kẻ đồng loại sẽ chuốc lấy điều tai họa hiểm nghèo. Trước sự hiện diện vô hình của các đấng Thần Minh, thì đức khiêm tốn là bộ áo duy nhất mà con người nên khoác lấy, vì các Ngài có thể lấy đi trong khoảnh khắc tất cả những gì mà con người đã thu thập trong nhiều năm. Số phận của mọi vật được định đoạt theo từng chu kỳ, và chỉ có những người vô trí thức mới không nhận biết điều đó. Trăng tròn rồi lại khuyết, hết nước lớn lại nước ròng, sự vật trong vũ trụ luân chuyển theo định luật tuần hoàn. Đời người cũng không ngoài cái định luật đó, hết thịnh đến suy, hết già đến trẻ; sức khỏe là một khách vô thường, tình yêu vừa mới đến thì đã ra đi. Hết cơn bỉ cực đến hồi thái lai, hết lúc suy vong đến hồi thịnh trị. Một bài học lớn về định luật đó là dù con người có biết hay không biết, nơi trú ẩn rốt ráo cùng tột của con người là ở tự nơi mình. Thuở xưa con người biết rõ điều ấy và đã tìm nguồn an ủi ở nơi đó. Nếu y quên đi cái nguồn gốc cũ của mình, thì sự thất vọng và đau khổ lại cùng liên kết với nhau để đem y trở về. Không ai có thể tránh khỏi được hai điều ấy tức là hai bậc Thầy của nòi giống nhân loại.Con người chỉ được che chở và an toàn khi nào y xét thấy rằng có những cánh tay thiêng liêng đùm bọc lấy y. Ngày nào con người chưa được giác ngộ thì những phát minh mới mẻ tân kỳ nhất của y sẽ trở nên những chướng ngại khó khăn nhất, và bất cứ điều gì thúc đẩy y tiến sâu thêm vào cõi giới vật chất sẽ trở nên những sợi dây trói buộc mà về sau y lại phải cởi mở để thoát ly. Vậy y hãy quên đi những điều lo âu phiền muộn về những sự vật trần gian để lo trau dồi Chân Ngã, chừng đó y sẽ được sống trong an vui và hạnh phúc.Người nào thấy được một lần cái Chân Ngã hay Chân Như Phật Tánh của mình sẽ không còn thù ghét được ai nữa. Không có tội ác nào lớn hơn lòng thù hận, không có đau khổ nào lớn hơn chiến tranh.Không ai thoát khỏi sự dò xét của các đấng Thần Minh, tuy im lặng và vô hình, nhưng các Ngài vẫn nhìn thấy mọi hành động của người trần gian. Sự thù hận sẽ biến mất trên thế gian khi nào con người tập nhìn thấy kẻ đồng loại không phải bằng cặp mắt phàm, mà bằng một cái biệt nhãn, nó cho thấy những khả năng thiêng liêng của họ, và khi nào y có thể nhìn họ với một lòng kính nể, vì trong lòng họ có ngự một quyền năng thiêng liêng mà người ta gọi là Thượng Đế.Những nhà học giả có thể bươi móc, lục lạo những chồng sách cổ kim chất hàng đống trong các thư viện, họ cũng không tìm được một Chân Lý nào cao xa và thâm trầm hơn cái Chân Lý tối trọng này là: "Chân Ngã con người vốn bất diệt và thiêng liêng. Những triển vọng thiết tha nhất của con người có thể phai mờ dần với thời gian nhưng cái hy vọng một đời sống trường cửu, một tình yêu toàn vẹn không dời đổi, một niềm hạnh phúc chân thật có ngày sẽ được thực hiện, vì nó được hứa hẹn với chúng ta bởi một cái định mệnh chắc chắn không bao giờ phỉnh lừa và không ai tránh khỏi."Con người hướng về những bậc Giáo Chủ và Hiền Triết thời xưa để tìm những tư tưởng siêu việt và những triết lý cao thâm, nhưng khi một người nhìn thấy được cái bản tính chân thật của mình, y sẽ được sống trong ánh sáng. Tất cả những gì tốt đẹp cao cả về tư tưởng và tình cảm đều đến với y một cách dễ dàng mà y khỏi phải tìm kiếm. Trong sự bằng an của tâm hồn y, hiện ra những linh ảnh thiêng liêng không kém gì những linh ảnh của các nhà tiên tri Do Thái hay Ả Rập thời xưa. Cũng do ánh sáng thiêng liêng đó mà đức Phật thoát nhiên đại ngộ và truyền lại cho hậu thế cái ý niệm về cõi Niết Bàn. Sự giác ngộ ấy cũng làm thức tỉnh một tình thương bao la rộng lớn đến nỗi nó hoán cải được cả một đời người, và chính vì đó mà nàng Marie Madeleine ngày xưa đã rửa sạch tội lỗi bằng nước mắt của nàng dưới đức Chúa Jesus.Không có lớp bụi mờ nào có thể bao phủ những điều chân lý cổ kính này, mặc dầu nó đã trải qua nhiều thế hệ từ khi con người bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu. Không có một dân tộc nào mà không nhận được từ buổi sơ khai những điều tiết lộ cao cả và thâm trầm này. Người nào sẵn sàng đón nhận những chân lý thâm sâu đó, không những hiểu nó bằng lý trí mà thôi mà còn phải mở rộng cõi lòng để thông cảm cho đến khi nhờ nó đem nguồn cảm hứng mà họ có được những hành động cao cả siêu việt.Một sức mạnh mà tôi không cưỡng lại được đã bắt buộc tôi quay trở về cõi đời thực tế. Trải qua những giai đoạn tuần tự và rất chậm rãi, tôi đã dần dần ý thức được cảnh vật chung quanh. Tôi nhận thấy rằng tôi vẫn còn ngồi trong tịnh xá của đức Maharichi, nhưng gian phòng vắng lặng như tờ. Đôi mắt tôi chợt nhìn đồng hồ trên vách và tôi nhận ra rằng giờ này có lẽ mọi người đã qua bên phòng ăn để dùng cơm chiều. Kế đó, tôi cảm thấy hình như có người ngồi ở bên cạnh tôi. Vị đệ tử già bảy mười lăm tuổi, làm xếp ga hồi hưu, vẫn còn ngồi lại bên cạnh tôi trên sàn gạch và chăm chú nhìn tôi một cách rất có thiện cảm.Y cho tôi biết:- Sư huynh ðã xuất thần nhập định được gần hai tiếng đồng hồ.Gương mặt của y có đầy những vết nhăn sâu hoắm, dấu tích sự tàn phá của thời gian. Y vừa nói vừa nở một nụ cười rất tươi, dường như y cũng chia sớt niềm hạnh phúc của tôi. Tôi định mở lời để đáp lại, nhưng lấy làm ngạc nhiên tôi không thể nói được nữa. Gần mười lăm phút trôi qua, tôi mới thu hồi lại được giọng nói của mình. Trong khi đó, ông lão lại nói tiếp:- Đức Maharichi đã theo dõi sư huynh một cách chặt chẽ trong suốt thời gian đó. Tôi chắc rằng Ngài dùng tư tưởng để dìu dắt sư huynh trong cơn nhập thiền.Khi đức Tôn Sư trở lại tịnh xá, những người đi theo Ngài cũng vào ngồi lại một chút trước khi sửa soạn đi ngủ. Ngài bước lên giường gỗ ngồi xếp bằng như thường lệ. Ngài ngồi nghỉ, khủyu tay mặt chống lên đùi, bàn tay mặt đỡ lấy cằm, hai ngón tay đặt bên gò má. Bốn mắt chúng tôi gặp nhau, và ngài tiếp tục nhìn tôi một cách chăm chú.Khi người tiểu đồng hạ thấp cái bấc đèn theo như lệ thường mỗi đêm, tôi lại ngạc nhiên mà thấy cái tia sáng lạ thường trong cặp mắt yên lặng của đức Tôn Sư. Ðôi mắt của Ngài chiếu sáng ngời như hai ngôi sao giữa đêm tối. Tôi chưa từng gặp một người nào có cặp mắt lạ lùng như nhà hiền triết này. Nếu cặp mắt con người có thể phản ảnh cái quyền năng thiêng liêng, thì đó là trường hợp của đức Maharichi vậy.Khói trầm bay lên nghi ngút tỏa mùi thơm khắp phòng trong khi tôi vẫn nhìn đôi mắt không chớp của Ngài. Bốn mươi phút trôi qua trong cái tình trạng đó, tôi với Ngài đều im lặng nhìn nhau không ai thốt ra một lời nào. Giữa lúc này, lời nói nào có ích gì. Bây giờ, chúng tôi hiểu nhau hơn trong im lặng, vì trong cái im lặng thâm trầm đó tâm hồn chúng tôi hoà hợp lẫn nhau một cách tuyệt diệu và trong cuộc giao cảm thâm trầm này tôi nhận được một thông điệp không lời nhưng rất rõ ràng. Sau khi tôi đã nhận thức được quan điểm của đức Maharichi về cuộc đời, từ nay đời sống nội tâm của tôi đã bắt đầu hòa hợp làm một với đời sống tinh thần của Ngài.Trong hai ngày kế đó, tôi phải chiến đấu với cơn sốt sắp đến và cố gắng giữ vững tinh thần. Vị đệ tử già bước đến chòi của tôi vào một buổi trưa và nói:- Thời gian chung sống của Sư Huynh với chúng tôi nay đã chấm dứt. Nhưng chắc có ngày Sư Huynh sẽ trở lại với chúng tôi chứ? - Lẽ tất nhiên tôi sẽ trở lại.Tôi đáp một cách tự tin. Khi y ra về, tôi đứng trước cửa nhìn lên ngọn Đồi Thiêng, Arunachala, nói theo tiếng Ấn Độ. Nó đã trở nên cái bối cảnh linh thiêng của cuộc đời tôi. Bất cứ lúc nào khi tôi đang làm gì, dầu là đang ăn uống, nói chuyện, đi bách bộ, hay ngồi thiền, tôi chỉ ngước mắt lên là tôi nhìn thấy cái hình dáng hùng vĩ của nó nhô lên trước mặt tôi, hoặc ở chỗ lộ thiên, hoặc xuyên qua khung cửa sổ. Người ta không thể quan niệm được rằng một nõi đạo viện thâm nghiêm như chốn này mà không có một ngọn đồi như thế, và tôi cũng đã chịu ảnh hưởng bởi cái sức hấp dẫn lạ lùng của nó.Chiều đến, tôi chào từ giã tất cả mọi người trong đạo viện, trừ ra đức Maharichi. Tôi cảm thấy nhẹ nhàng sung sướng bởi vì tôi đã thành công trong sự chiến đấu để đạt tới một kết quả chắc chắn về đường tâm linh, và cũng bởi vì tôi đã thắng trận mà khỏi phải hy sinh cái thái độ hợp lý của tôi cho một đức tin mù quáng. Tuy nhiên, khi đức Maharichi cùng với tôi bước ra đến sân đạo viện một lần cuối cùng,tôi cảm thấy sự sung sướng của tôi thình lình biến mất và nhường chỗ cho một nỗi buồn man mác. Tôn Sư đã chinh phục được tôi một cách lạ lùng và tôi cảm thấy buồn vô hạn khi phải từ giã Ngài ra đi. Ngài đã nối liền hai tâm hồn chúng tôi bằng những sợi dây nhân duyên vô cùng bền chặt tuy rằng Ngài không có ý muốn nào khác hơn là làm cho một người trở về nguyên bổn để giúp cho y tự giải thoát. Ngài đã giúp cho tôi thực hiện Chân Như Phật Tánh và diễn đạt cái danh từ vô nghĩa đó thành một kinh nghiệm sống động, độc đáo và vô cùng huyền diệu.Tôi cố kéo dài giờ phút từ biệt và không thể nào biểu lộ hết những nỗi xúc cảm thâm trầm trong lòng tôi. Nền trời xanh thẳm chiếu muôn ngàn ánh sao lóng lánh, vầng trăng non mới mọc giống như cái lưỡi liềm bằng bạc treo lủng lẳng trên không trung. Hàng nghìn con đom đóm lập lòe làm cho khu vườn trở thành một tấm thảm chói sáng rực như thêu kim cương, và những chiếc lá dừa đẩy đưa một cách dịu dàng trước ngọn gió chiều hiu hắt.Cuộc phiêu lưu kỳ diệu của tôi trên cõi giới tâm linh đã chấm dứt, nhưng biết đâu thế cuộc xoay vần, cái bánh xe thời gian lại chẳng có ngày đưa tôi trở lại chốn này? Tôi chắp hai tay đưa lên trán theo phong tục bản xứ và thốt vài lời từ biệt. Ngồi trên chiếc giường gỗ, Tôn Sư không nói một lời, dưới ánh đèn dầu leo lét, tôi còn thoáng thấy gương mặt trầm lặng của Ngài với màu da đồng bạch và cặp mắt sáng ngời, một cái chắp tay vái chào cuối cùng, một cái vẫy tay nhẹ của Ngài đáp lại, và thế là hết.Tôi trèo lên cỗ xe bò đợi ngoài sân, người phu xe đưa roi quất mạnh, cỗ xe từ từ lăn bánh, hai con bò dễ dạy bèn lầm lũi tiến bước trong đêm khuya thơm ngát mùi hương của vùng nhiệt đới.
HẾT