Ta có thể đọc thấy những báo cáo của các nhà thám hiểm nói về sự hiện diện của những người "Mọi" trên vùng cao nguyên, cũng cùng một cách như họ nói về những loài dã thú cùng sống với những con người này trong rừng, và đi đến kết luận là mong sao cho những "kẻ tàn hại chuyên đốt cháy hết rừng núi, những kẻ không có chút khả năng tiến bộ nào" đó sẽ bị tuyệt diệt hết đi cho xong. Trong thực tế, chính những kẻ đó lại sống sót chống lại cuộc triệt diệt mà họ là đối tượng. Nền văn minh của họ, đương nhiên là nguyên thủy, tinh tế hơn người ta tưởng rất nhiều. Họ không biết chữ viết, nhưng họ biết suy nghĩ. Những di sản giàu có trong họ cần được trình bày ra để tránh cho chúng khỏi bị mãi mãi mai một mất đi..., nếu không phải là đến một ngày nào đó chính tự họ sẽ biểu đạt chúng ra và thông đạt chúng đến với mọi người. Cơ thể nhịp nhàng của những thiếu niên Tây Nguyên, cao lớn, khỏe mạnh và mềm mại, gợi nhớ đến những lực sĩ trẻ từng làm mẫu cho các nhà điêu khắc Hy Lạp. Hình thể thanh nhã, đường nét tinh tế, cơ bắp dài, nước da mịn, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, đôi mắt thông minh. Khuôn mặt sáng rỡ của người thanh niên tắm ở sông, khối nổi hằn nơi cánh tay mà lối ăn mặc của người Tây Nguyên để lộ trần đến vai, vẻ tinh tế của những ngón tay dệt vải; toàn bộ thân hình uyển chuyển của người nhảy múa, dưới ánh trăng. Mái tóc đen, hơi lượn sóng, mà những người già và các bà để dài, cuộn thành búi. Vẻ hấp dẫn chẳng hề kém của các cô gái, khi buổi tối các cô xõa tóc, để cho mái tóc dài buông xuống trên gáy hay trên lưng. Làn da rám đều; ướt đẫm mồ hôi hay lúc tắm, ánh lên tựa đồng thau. Trang phục chẳng có gì, càng tôn những đường nét tuyệt hảo của đôi vai, lưng, và eo hông. Thường họ chỉ quấn một tấm chăn, đôi khi được thêu rất đẹp. Ðàn bà quấn một chiếc váy màu sẫm phủ đến dưới gối. Trước khi làm mẹ, họ thật duyên dáng; nhưng sau khi có đứa con đầu tiên, họ già đi nhanh, da nhăn, vú thõng. Chỉ cần thêm một nét bút cuối cùng nữa để có được một bức chân dung hoàn hảo: đối với đàn ông, một chiếc ống điếu ngậm nơi miệng, một chiếc dao phạt vác vai; các bà thì môi đỏ vì miếng trầu, nhét giữa lợi và môi, hay giữa răng và má, tùy theo tộc người. Người Tây Nguyên không hề xa lạ với việc làm dáng: họ thích trang điểm những chiếc vòng bằng đồng, kiềng thủy tinh, hoa tai, đôi lúc to đến quá cỡ, bằng ngà hay bằng kim loại, theo những nguyên tắc thẩm mỹ tất nhiên là không phải của phương Tây, nhưng hợp với vẻ quyến rũ riêng của xứ sở này và với vẻ đẹp của con người Tây Nguyên.
[2]Dich sát nghĩa theo tiếng Srê và Giarai: "Ði-làng-người" [3] Người ta nhận thấy ở người Khạ những căn lều kiểu dáng mêlanêdiêng[4] Xem Marcel Griaule: Thần nước - NXB. Chêne, Paris 1948.
°
Một vài chân dungNgười mẹ - Bà địu con trong một tấm chăn, siết chặt vào người. Bà không thể xa rời đứa bé, trong những năm đầu bà cảm thấy nó là da thịt của chính mình da diết mức nó còn là da thịt dính chặt vào cơ thể bà. Khi bà đi làm lụng, đứa trẻ theo bà, bám chặt trên lưng. Khi bà giã gạo, nó không hề rời bà, được ru theo nhịp chày. Khi bà ở nhà, ngồi cạnh bếp lửa, đứa bé lúc này được địu về phía trước ngực, mải mút vú mẹ. Lúc nào cũng bám sát vào mẹ, đứa bé từng trải và lớn mạnh dần lên. Bà sẽ còn địu nó mãi rất lâu bên mình, cho nó bú. Nếu có thêm một đứa khác được sinh ra, không ít khi người mẹ địu cả hai đứa, một đứa trước ngực một đứa sau lưng, để không bỏ rơi đứa lớn khiến nó khóc. Trong những lúc cãi vã, tranh chấp, bà có thể tỏ ra cau có, độc đoán, cứng nhắc; nhưng, một lúc sau, chỉ còn thấy ở bà một niềm dịu dàng trìu mến đối với đứa bé đang nhè. Suốt ngày bà làm đủ các thứ công việc, lấy nước, chẻ củi, giã gạo, cho gia súc ăn. Buổi tối, mệt nhoài, bà chẳng hề cáu gắt, đứa bé chẳng hề khiến bà khó chịu. Nó là niềm thư giãn của bà, đem lại cho bà nụ cười. Già trước tuổi, nhăn nheo, bà xấu đi rất nhanh. Nhưng đối với các con, bao giờ bà cũng đẹp. Một vị giáo sĩ có lần phải xử một mụ thầy cúng bị cả làng ghét bỏ, coi là kẻ bị ma ám, và muốn đốt cháy cả nhà bà. Một người thanh niên đã kiên quyết bênh vực bà thầy cúng già ấy; anh nồng nhiệt nói bao nhiêu điều tốt đẹp về bà, và cuối cùng bảo: "Xin cha hãy thương lấy bà, đấy là mẹ tôi!" Bà có vai trò to lớn và được kính trọng. Trong phương ngữ Srê, từ me (mẹ) được dùng làm phụ tố chỉ bộ phận lớn nhất của một tổng thể nào đó (bônha me: ngôi nhà chính; gung me: con đường lớn). Trước ngày cưới, các quan hệ (nam nữ) được tự do; nhưng sau đó, người đàn bà là thiêng liêng. Loạn luân, hiếm khi xảy ra, bị phạt rất nặng. Chuyện ly hôn cũng rất hiếm, khi đã có con. Bọn nhóc - Ðược vui mừng chào đón, chẳng bao giờ quá nhiều, chúng là những nốt cao của giai điệu trong ngôi nhà Tây Nguyên. Nhưng, hoàn toàn trần truồng trong những năm đầu tiên, bám trên lưng mẹ và theo mọi di chuyển của mẹ: trên các con đường mòn, dưới nắng chang chang, trên đồng ruộng, trong mưa, chúng nhanh chóng bị lạnh và ốm. Ngay từ lúc chào đời, chúng đã phải đấu tranh. Trong mười đứa thì đến sáu hay bảy đứa sẽ chết rất sớm, đôi lúc trước khi được đặt cho một cái tên. Nước da sáng, tóc nâu như mái tranh của căn nhà sàn, đôi mắt to và tươi cười, tiếng kêu đầu tiên của các cháu là hướng về người đã sinh ra các cháu trên đời này: "Maa!... mee!...", tiếng nói đầu tiên của các cháu cũng giống hệt như trên toàn thế giới. Cô nàng thanh lịch - Cô làm giám thị ở đồn điền của một người da trắng. Cô hiểu một ít tiếng Việt và bập bẹ đôi ba tiếng Pháp. Cô thường vênh vang ở chợ, làm ra dáng bà lớn với những người phụ nữ Tây Nguyên khác, họ có sợ cô đôi chút nhưng chẳng mến chuộng cô chút nào. Cô Việt hóa, cũng như các cô gái Việt Tây hóa. Ở đây người Pháp bỏ cái mũ cối thuộc địa để diện chiếc mũ bê-rê Bát, bỏ cái ống điếu để ngậm điếu xi-gà Ăng-lê, và bỏ con ngựa để cưỡi chiếc Jeep... Người Việt thì bỏ chiếc nón lá để đội chiếc mũ cối bằng điền điển, bỏ bộ quần áo dài để diện chiếc quần sooc của người da trắng, bỏ chiếc xe bò để cưỡi chiếc ô-tô bán hạ giá. Cô gái Tây Nguyên đeo các vòng trang sức của người Việt, diện áo sơ-mi bó sát người và cài cúc đến cổ; cô mua một chiếc ô với giá cắt cổ, mà cô không biết cách dùng, và bây giờ cô cũng đã biết chửi mắng bố mẹ. Một người đàn bà bình dân Tây Nguyên thấy người đồng hương của mình đi qua, mặc quần áo trắng bong và bó sít cả người, nhận xét: "Bây giờ người Cau (người Tây Nguyên) học đòi người Yoan (người Việt), còn người Yoan thì học đòi người Pháp". Thanh niên - Ðôi mắt to, đen, sáng ngời, đẹp như những chiếc hồ trên núi dưới ánh trăng. Những đôi mắt làm bừng sáng niềm vui trên khuôn mặt của những chàng trai trẻ, cứ như họ sinh ra chính là vì niềm vui sống đó. Ở tuổi này, mọi thứ đều được phép. Ðấy là ý kiến của các bậc làm cha mẹ, vốn nhớ rằng chính mình cũng đã từng trải qua cái thời ấy. Không gì có thể ngăn trở tự do của họ. Thỉnh thoảng họ gây những chuyện khó chịu trong gia đình vì người ta muốn họ phải làm việc siêng năng hơn; nhưng biết nói thế nào nữa đây? Ðâu có phải là lười biếng khi người ta muốn lang thang đâu thì tùy thích, muốn tận hưởng cuộc đời này mà người ta đã chào đón bằng một nụ cười. Nhöl, có nghĩa là chơi, tận hưởng, lang thang, lượn lờ, đối với họ là tất cả. Vẻ đẹp rạng rỡ của cơ thể thiếu niên, tỉ lệ hài hòa của đôi tay và đôi chân, đường nét tuyệt diệu của lưng, ánh đẹp của nụ cười; họ có tất cả để có thể thành công trong các cuộc chinh phục - và họ biết rõ điều ấy. Ðương nhiên, họ được hoàn toàn tự do trong quan hệ với các cô gái trẻ, trước khi cưới (cùng lắm thì bố mẹ cô gái có thể bắt đền một món nhỏ nếu lời hứa không đi đến hôn nhân). Thậm chí có những thời kỳ trong năm, trước mắt mọi người, trai gái có thể tha hồ vui thú. Như trong lễ hội ban đêm sau lễ ăn cốm mới, vào cuối vụ thu hoạch. Nhưng kẻ nào biết hiểu những chàng trai này, chiếm được lòng tin của họ, thì có thể trông cậy mọi thứ ở họ. Họ có thể làm được những việc to lớn, đến độ anh hùng. Anh chàng tân tiến - Chưa kịp nhuốm đậm những màu sắc của Truyền thống, anh ta đã chịu ảnh hưởng của các nền văn minh láng giềng, bị vẻ bên ngoài của chúng hấp dẫn. Anh ham thích những thứ lăng nhăng mà các bậc già làng quá hiền minh biết chẳng qua chỉ là những trò hão huyền. Anh cho rằng người Việt và người Pháp cái gì cũng biết. Mọi sự họ làm đều hay. Cho nên anh chỉ có việc bắt chước theo, nghĩa là bắt chước những gì anh nhìn thấy, những gì trông thấy bên ngoài - đôi khi chẳng hề là điều hay nhất. Anh thường ra chợ và xài món tiền mà anh hay bố mẹ anh có thể kiếm được ở đâu đó. Anh phải đi giày, trầy cả chân cũng mặc; không thể đi chân trần trên những con đường giành cho ô-tô. "Ngày xưa thì được, chứ bây giờ ai lại..." Răng bằng vàng giả do người Tàu bịt cho, là tột đỉnh sang trọng. Mỗi lần có được bảy mươi lăm đồng (tiền Ðông Dương) là anh lại phải trồng thêm cho được một chiếc. Mặc tất cả những thứ đó, vẫn phải công nhận trông anh cũng khá bảnh: áo sơ-mi trắng, quần cộc màu sẫm, mũ bê-rê đội lệch... Ðể cho thật lịch sự, còn phải bỏ tiền mua một cây bút máy cố tình cắm lộ ra trên túi áo sơ-mi, ở đấy thay vì chiếc khăn cài túi ngực là một mẩu giấy bất kỳ nào đó, mặc dầu và nhất là anh chẳng hề biết viết. Nhưng chẳng phải mọi chuyện ở chợ đều hay - tuy đó chẳng phải là ý kiến của anh. Trong khi, ngày lễ ở làng những người thân của anh tụ hội trong nhà sàn quanh ché rượu cần, thì anh lại đi nếm rượu cồn ở hàng quán bán lẻ cắt cổ. Tùy theo tộc người, anh ta là một trường hợp ngọai lệ hay là điển hình của cả giới thanh niên. Dẫu sao, coi thường các hình thức văn minh cổ truyền, từ bỏ các tập tục của cha ông, quên tiệt Truyền thống tôn giáo, anh ta chẳng được ai ưa. Ðám trẻ nghe theo anh ta, các cô gái nhìn ngắm anh ta, nhưng các Già làng không còn công nhận anh ta. Hoặc anh ta tự loại mình ra khỏi làng, hoặc anh ta chinh phục được làng theo những ý tưởng mới mẻ của mình. Nhưng cái kiểu chạy theo những hình thức vật chất đó của văn minh, bất chấp tôn giáo, là một tai họa: sự tiến bộ về khoa học, kể cả về trí tuệ, không thể nâng con người lên trong sự tiến hóa nếu nó không đi đôi với một sự phát triển về đạo đức. Con người Tây Nguyên biết lái một chiếc xe ô-tô có tiến bộ lên chăng, trong khi anh ta đồng thời lại đánh mất đi hết mọi sự tôn trọng đối với thế giới tinh thần? Họ không biết rằng đó chẳng phải là một sự tiến bộ chân chính, là cái điều mà thế giới ngày nay đang cảm thấy, hoảng hốt vì những khám phá quái dị do trí tuệ của mình đem lại. Anh chàng đi buôn - Lão M. đi buôn, lot ka'. Phương thức mua và bán lại của lão khiến lão trở thành vừa là người giàu nhất vừa là người nghèo nhất xứ. Làm ruộng thì lão quá lười biếng, mặc dầu người Tây Nguyên vốn rất dũng cảm trong lao động khó nhọc khi họ làm việc cho chính mình. Vả chăng, lão chẳng nên nhọc công làm ruộng làm gì, bởi lão có thể làm giàu bằng cách khác. Bằng những cuộc mua bán đổi chác khôn khéo, trong một ngày lão có thể tạo nên cả một gia tài so với người Tây Nguyên, cái gia tài sẽ chảy tan hết thành rượu chỉ trong một đêm. Lão mua mấy đồng bạc muối ở chợ, và trang bị món hàng ấy, lão đi đến xứ người Mạ, cách đấy hai ngày đường, tức khoảng năm chục cây số. Ðổi muối, lão lấy được một tấm chăn bông đẹp, do những người Mạ này dệt và thêu. Rồi lão trở về làng. Ở làng, có người sẵn sàng trả rất đắt để có được một tấm chăn như vậy. M. bán tấm chăn gấp mười lần giá mua. Lão lại trở lên xứ Mạ, ở đó lão đã để ý một cái ché rất cổ, mà người chủ lại không biết rõ giá trị. Lão tậu được chiếc ché với giá rất hời và mang đi đổi lại cho một cụ Già làng rất hiểu giá trị của nó, lấy hai mươi lăm con trâu. Vậy là chẳng phải khó nhọc, lão M. đã tậu được một gia tài kếch xù. Một vụ việc rủi ro nào đó xảy ra, hoặc giả lão uống rượu nhiều quá, thế là lão M. lại mất tất cả. Trong lúc ấy, ở làng, vợ lão đói. Kẽ lữ hành - Anh ta hằng ngày sống thế nào thì cứ thế mà ra đi, hoặc gần như vậy. Buổi tối, anh quyết định mờ sáng hôm sau sẽ lên đường đi đến một làng xa nào đó, cách hai hay ba "đêm" đường, để mua cái này cái nọ, đòi một món nợ, hay thăm một người họ hàng. Mặt trời vừa ló, anh đeo gùi lên lưng, chỉ mang theo đúng một nhúm gạo, và cũng có thể thêm một cái chăn. Anh cầm theo cái xà gạc, đôi khi là một ngọn giáo. Nhưng chủ yếu là phải có cái ống điếu. Bao giờ anh cũng có thể tìm được thuốc và thức ăn ở các làng hiếu khách mà anh sẽ đi qua. Ðối với anh không hề có chuyện phải dự tính trước này nọ, phải mang theo thức ăn, đồ dự phòng, quần áo để thay. Anh vốn là sao thì cứ thế mà ra đi, theo nhịp bước quen thuộc của mình, lúc nào đến thì đến. Không bao giờ anh đi một mình - aram (không an toàn) - anh sợ lũ thú dữ. Vậy nên, dẫu hầu như chẳng bao giờ trò chuyện với nhau trên đường, thì đi cùng nhau hai hay ba người vẫn là dễ chịu hơn. Ðiều đó tạo nên sức mạnh và không phải bẽ mặt khi đến các làng xa lạ. Nhưng số người đi có đông đến đâu, họ vẫn đi theo hàng một, bước chân người đi sau dẫm đúng vết chân người đi trước; bề ngang con đường chẳng cho phép lối đi nào khác được. Một người trẻ tuổi đi trước, đàn bà đi giữa, Già làng đi sau. Khi sắp đến làng, người ta thay đổi vị trí: Già làng đi lên trước, để là người đầu tiên bước vào làng; những người khác theo sau. Kỷ luật đi đường rất nghiêm nhặt; những chặng đường dài hai đến ba mươi cây số mỗi ngày, rất ít khi dừng lại nghỉ: chỉ hai hay ba giờ một lần. Nếu người lữ hành chưa kịp đến một làng mà đêm đã đổ ập xuống, thì anh ta sẽ dừng lại nghỉ trên đường. Anh dọn một chỗ để ngã lưng, đốt lửa bốn bên, trừ chỗ gần đầu, "sợ làm óc chảy tan ra mất", cắm cây giáo sát tầm tay, đặt chiếc gùi cạnh đầu và nằm xuống. Suốt đêm, thỉnh thoảng anh trở dậy, để thổi lửa. Và sáng ra, lại sảng khoái, sẵn sàng đi tiếp một chặng đường mới. Lot bbon cau... nau pôleng arang [2] . Người Tây Nguyên rất khoái chuyện ấy. Khi công việc đồng áng đã xong, khi thóc đã đóng kho và thời tiết còn khô, là mùa lữ hành đã đến. Ấy là lúc anh thích thú lên đường, rảo theo các con đường mòn, gùi trên lưng và dáo cầm tay. Bất cứ chuyện gì cũng có thể là cái cớ để đi thăm nhau và lại đáp lễ. Gùi trên vai và dáo cầm tay. Cụ Già làng - Nguyên xưa là một thủ lĩnh, là "Vị Già làng" trong làng của mình, là ông-cậu-nhiều tuổi-đứng đầu-hội đồng-gia đình, hoặc chỉ là một cụ già bình thường đã nhiều con cháu tóc bạc xóa đi vì lao động và năm tháng, cụ già Tây Nguyên là một bậc hiền minh; cụ đã sống nhiều, và cụ đã biết mọi sự. Trong các cuộc bàn luận lời nói của cụ có trọng lượng; một số những câu châm ngôn của cụ được các thế hệ nối tiếp lặp lại, như những đoạn khúc của Luật tục. Sau khi qua đời, cụ đi vào thế giới của yalyao, của ký ức, của Truyền thuyết. Người ta đến tham vấn cụ trong một vụ mua bán, người ta xin ý kiến cụ khi có chuyện bất đồng, người ta phải nhờ đến kinh nghiệm của cụ khi pha chế các món thuốc hiệu nghiệm. Ðêm đêm, người ta lắng nghe cụ yalyao, kể lại những thời xa xưa, hát Truyền thuyết về những người anh hùng, những vị bán thần. Kỳ thực cụ ít tuổi hơn vẻ bề ngoài, do từ bé đã phải chịu đựng một cuộc sống khắc nghiệt luôn phải chống chọi với các lực lượng của tự nhiên: thời tiết thất thường dữ dằn, cái lạnh đốt cháy da thịt, sự hùng mạnh của rừng mà cụ phải khai phá suốt đời, cụ lao động cho đến tận hơi thở cuối cùng. Nếu cụ không còn sức đi lên núi hay ra ruộng, thì cụ ở lại trong làng. Ở đấy, chỉ có cụ mới biết được cách uốn cong một chiếc cán xà gạc, bện dây, dệt chiếu, đan gùi, khoét những chiếc ống điếu. Ðôi mắt đã yếu, sung huyết, ướt nhèm của cụ vẫn biết cách đọc ra giá trị thực của một con trâu người ta gạ mua, đánh giá độ cổ xưa của một chiếc ché, phẩm chất của một thỏi sắt và biết có thể đem rèn nó được không. Quá già rồi, cụ hầu như chẳng còn bước ra khỏi nhà; mà, lặng lẽ, cụ vẫn bận bịu trăm công nghìn việc. Và đôi khi cụ vẫn thích nếm đôi ngụm törnom (rượu cần). Chính đấy là dịp để ta có thể nhận ra một nghịch lý trong tâm trạng của cụ, lẫn lộn giữa một thứ mặc cảm thua kém người với một niềm kiêu hãnh vô thức. Chính con vừa mới ngay trong ngày hôm ấy khúm núm trước một vị cấp trên không đáng kể nào đó, đến buổi tối, ngồi chễm chệ bên ghè rượu lại biểu hiện một vẻ kiêu hãnh đầy tự hào và hết sức tự nhiên thích thú bày tỏ giá trị của mình. Chỉ có bọn trẻ mới lười biếng, còn cụ, bao giờ cụ cũng có một việc gì đó để mà làm. Nếu ta thấy cụ có vẻ nhàn rỗi, ấy là cụ đang vừa rít tẩu thuốc vừa ngẫm nghĩ, nhớ lại hay đang mưu tính một sự vụ gì đấy. Rất ít ngủ về đêm, cụ giữ cho bếp lửa luôn cháy để đỡ bị lạnh mà sinh ho và sưởi ấm cho mọi người trong nhà đang ngủ say. Thức dậy rất sớm, lại ăn ít, cụ nêu gương cho những kẻ sẽ nối nghiệp cụ, sẽ ngợi ca những ân huệ của cụ, như một vị thần ngày xưa.°
Người Tây Nguyên từ đâu đến?Do vị trí địa lý của nó, Ðông Dương là một ngã tư về nhân chủng, ngày nay phô bày một sự đa dạng về hình mẫu và một sự rối mù về tộc người khiến nhà bác học phải hoang mang. Mêlanêdiêng, Inđônêdiêng, Môngôlôlốit, xô đẩy nhau, chồng lên nhau. Người Chàm, người Tây Nguyên, người Khạ, người Phnong, người Khơme, người Mường, người Thái xô đuổi nhau hay giao chéo với nhau. Lúc này chưa thể đặt vấn đề phân loại rạch ròi; vấn đề quá ư phức tạp và tình hình nghiên cứu còn quá kém phát triển. Tuy nhiên, hình như có thể phân biệt các nhóm tộc người chính, có thể định vị trong không gian, nhưng khó xác định sự tiếp nối trong thời gian. Còn về các mối quan hệ của họ với nhau, thì chỉ có thể đưa ra những giả thuyết. Ở đây chúng tôi không có ý định giải quyết vấn đề này đối với người Tây Nguyên. Loại hình thể chất của họ (nhiễm sắc tố, thân hình, hình dáng sọ) khiến họ khác biệt người Da vàng cũng như người Da trắng. Họ gần với người Da đen hơn, dù có điều nghịch lý về mặt địa lý. Dường như họ gắn với chủng tộc da màu đồng "inđônêdiêng", còn ít được biết đến, nếu như họ là một chủng tộc khác với chủng tộc da đen. Quan điểm của chúng tôi chủ yếu là quan điểm của nhà dân tộc học, khiến chúng tôi đặt ra câu hỏi này, mà câu trả lời sẽ rất bổ ích cho sự hiểu biết về tính độc đáo và giá trị nhân loại học của người Tây Nguyên: họ thuộc nhóm tộc người nào? Nhiều phương diện trong nền văn minh của họ, các phong tục của họ, tôn giáo của họ, và ngay cả ngôn ngữ của họ, một số nghi lễ, các truyền thuyết, các kỹ thuật của họ rất giống với những người nguyên thủy ở các đảo Thái Bình Dương [3], những người trên các dãy núi Trung bộ, những người châu Phi da đen [4]. Nhiều người, đến Tây Nguyên sau khi đã sống một thời gian ở châu Phi, thấy các ký ức của mình sống dậy và nhìn những người Tây Nguyên như những người đã quen biết. Ðôi khi ngay cả một số từ trong từ nguyên của người Tây Nguyên khiến họ nhớ đến Oubangui hay Congo. Chừng như tất cả những người này đều thuộc về một họ nhân chủng lớn nối từ những người Mêlanêdiêng châu Ðại Dương đến những người Nguyên thủy châu Phi xích đạo, qua toàn bộ thang màu những người bản địa vùng Sonde, vùng Malêdi v.v., mang khá nhiều những tính chất chung khiến ta có thể nhận ra một nhóm tộc người duy nhất mặc dù các khác biệt và sự phân tán của họ, trong đó các tộc người khác nhau ở Tây Nguyên là một tiểu nhóm. Những nghiên cứu dân tộc học so sánh chuyên biệt, đặc biệt về tôn giáo, ủng hộ đề xuất này. Người Tây Nguyên chỉ có điểm chung với những người Môngôlôít ở dáng vẻ bên ngoài, sản phẩm của những cọ xát và mài nhẵn do những tiếp xúc của hai nền văn minh cùng hiện diện. Gắn người Tây Nguyên với họ nhân chủng người da màu đồng, coi họ là một tiểu nhóm tộc người của người Inđônêdiêng, thì vẫn chưa nói được họ đã đến chiếm vùng rừng núi Trung bộ này như thế nào, bởi vì dù họ là những cư dân xưa nhất ở khu vực này của Ðông Dương, không phải họ đã từng sống mãi mãi ở đấy. Trước đó họ ở đâu? Có người cho là họ đến từ Thái Bình Dương, những người khác thì cho rằng họ đến từ Trung Quốc. Bác sĩ Huard, trong khi nghiên cứu các nhóm tộc người Ðông Dương, viết: "Vào kỳ thứ hai thời đại đồ đồng, một nền văn minh biển có ranh giới phía bắc là Nhật Bản và phía nam là Madagascar, đã đến vùng Insulinde và các bờ biển Ðông Dương. Nó có đặc điểm là gia đình loại hình mẫu hệ và tục nhuộm răng đen, còn lưu giữ, theo những mức độ hoàn toàn khác nhau, cho đến thời kỳ hiện nay..." Chúng tôi muốn ghép người Tây Nguyên vào nhóm người này, mặc dầu tác giả vừa nói trên đã tách ra khỏi đó "những nhóm cô lập các dân tộc lạc hậu". Chúng tôi không thể có lập trường rõ ràng. Chúng tôi chỉ muốn mang đến đây một bằng chứng, (không phải để khẳng định, mà là để làm rõ hơn những hiểu biết hiện nay, gợi ý những nghiên cứu khác), bằng cách sử dụng Truyền thuyết xưa của người Tây Nguyên. Bởi vì người Tây Nguyên, tự trong chính họ, có những điều gì đó có thể định hướng cho các nghiên cứu. Quả là họ không biết chữ; không có một văn bản hay một công trình kiến trúc nào có thể dùng làm điểm mốc. Nhưng, tự trong tâm hồn họ, họ có Truyền thuyết cổ xưa, mà những người già vẫn hát để dạy bảo cho các thế hệ trẻ. Những cụ già làng ấy "biết" họ từ đâu đến. Sử thi truyền thống rất giàu những chi tiết về thời xa xưa khi người Tây Nguyên chưa sống trên rừng núi ngày nay; nó cho phép ta phục dựng lại lịch sử của họ. Là giả thuyết, đương nhiên, song mỗi đề xuất đều có nhiều truyện kể Truyền thuyết làm chỗ dựa. Ðây là lịch sử của Tây Nguyên, như người Tây Nguyên kể lại. Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 2003[2]Dich sát nghĩa theo tiếng Srê và Giarai: "Ði-làng-người" [3] Người ta nhận thấy ở người Khạ những căn lều kiểu dáng mêlanêdiêng[4] Xem Marcel Griaule: Thần nước - NXB. Chêne, Paris 1948.