Vị tăng đương nói chuyện ở trong phòng của ba người thì một đạo nhân hoảng hốt chạy vào báo:- Thằng ấy lại đến đây rồi!Vị tăng từ giã ba người, cùng đạo nhân đi ra và hỏi đạo nhân:- Có phải cái thằng Long Tam khốn nạn đấy không?- Chứ còn ai nữa! Lần này hắn đến đây định giở trò gì còn kỳ lạ hơn trước nữa kia. Thầy ra mà xem!Vị tăng xuống lầu, đi qua phòng trà. Những người hầu đang quạt trà ở ngoài cửa. Thầy tăng đến chỉ thấy một người đang ngồi trên ghế: hắn mặt đen, mắt vàng, râu ria xồm xoàm, đầu đội một cái mũ phượng cắt bằng giấy, mình mặc một cái áo đàn bà bằng vải lam, một cái quần vải trắng chân đi một đôi hài rộng thêu hoa. Hai người khiêng kiệu đang đứng ở sân trong đòi tiền. Người lạ mặt này thấy vị tăng liền cười nhăn nhở. Hắn nói:- Này mình! Hôm nay mình có việc vui cho nên tôi đến đây thật sớm để giúp đỡ mình. Mình trả tiền người khiêng kiệu cho tôi đi!Vị tăng cau mày nói: - Này Long Tam! Mày lại đến đây làm gì thế? Làm cái trò gì thế này?Và vội vàng trả tiền cho những người khiêng kiệu để cho họ đi.Vị tăng lại nói: - Long Tam! Mày còn chưa cởi thứ áo quần ấy đi à! Mày ăn mặc gì kỳ quặc thế kia?Long Tam nói: - Mình ơi! Sao mình lại tệ thế? Bây giờ mình làm quan rồi thế mà mình không cho tôi một cái mũ phượng bằng vàng cho tôi đội, không may cho tôi một bộ áo thêu đỏ để tôi mặc cho ra vẻ một bà quan, đến nỗi tôi phải mang một cái mũ phượng bằng giấy. Người ta cười mặc kệ người ta! Tại sao mình lại bảo tôi cất nó đi?- Mình ơi, mình lại nói sai rồi! Vợ chồng với nhau thân thiết, tôi giận mình làm gì?- Tao nhận rằng hôm nay tao có lỗi vì tao không mời mày, nhưng mày phải thay áo quần đi rồi vào bàn mà uống rượu. Chứ cứ ăn mặc như cái thằng điên như thế này thì thiên hạ người ta cười cho!- Nếu vậy thì tôi có lỗi! Tôi là bà vợ thì phải ngồi ở phòng trong để chuẩn bị các thức ăn, gọt trái cây và lo công việc nhà cho mình chứ! Có lẽ nào lại có đàn bà ngồi ngoài nhà khách như thế này? Người ta mà vào thì người ta cười rằng ở đây đàn ông, đàn bà chẳng có gì phân biệt cả. Vừa nói xong, hắn liền chạy tọt vào phòng. Vị tăng cản không được, chạy vào phòng nói:- Long Tam! Cái lối đùa như thế bây giờ không được đâu. Nếu quan trên người ta biết thì cả hai người còn ra thể thống gì nữa.- Mình ơi, mình cứ yên tâm! Cổ nhân đã có câu: “Các quan không thể bàn đến việc nhà người khác”.Vị tăng giận dữ giẫm chân đành đạch. Long Tam ngồi điềm nhiên trong phòng và gọi người đạo nhân vào bảo:- Mày bảo người hầu trà đem trà vào đây cho bà nghe không?Vị tăng đi ra, trong lòng bực bội. Ra đến ngưỡng cửa thì gặp ba người là Tiêu, Gia Cát và Quý. Vị tăng không thể cản họ vào. Quý nói:- A! Bà này ở đâu đến đây?“Bà” kia đứng lên cười và nói:- Mời ba vị ngồi.Vị tăng tức bực nói không ra lời, ba người khách nhịn cười không được. Vừa lúc ấy, người đạo nhân chạy vào báo:- Ông Vưu ở nha môn quan phủ đã đến.Vị tăng đành phải ra tiếp khách. Vưu và Quách là hai người thư biện ở nha môn. Họ bước vào vái chào và ngồi uống trà. Nghe tiếng người nói ở phòng bên, họ lại bước vào xem, vị tăng không làm sao cản được. Hai người bước vào trông thấy Long Tam liền giật mình hỏi:- Cái gì thế?Vừa hỏi vừa nhịn cười không được. Bốn năm người đồng thời cười rộ lên. Vị tăng lại càng tức lồng lộn, không biết làm sao, nói:- Thưa các vị, nó là một thằng lường gạt, nó đã nhiều lần lường gạt tôi.Vưu cười hỏi:- Tên nó là gì?- Tên nó là Long Tam.Quách hỏi:- Này Long Tam! Hôm nay vị tăng của chúng tao có việc vui mừng, mày đến đây làm náo loạn để làm gì. Mau mau cởi quần áo ra và xéo đi ngay.- Việc này là việc riêng của chúng tôi không liên quan gì đến các ông.Vưu nói:- À mày lại còn nói láo à? Mày chẳng qua là muốn lường gạt ông ta. Làm như thế không được đâu!Tiêu Kim Huyễn nói:- Chúng ta mỗi người cho cái thằng xúc sinh này một ít tiền để nó đi cho rảnh khỏi làm ồn ào ở đây.Nhưng Long Tam cũng không chịu.Trong lúc mọi người đang bàn bạc thì đạo nhân lại vào báo:- Ông Đổng và ông Kim đều đến.Đang nói thì Đổng làm thư biện và Kim Đông Nhai đã bước vào phòng. Kim Đông Nhai nhận ra Long Tam liền quát:- Mày là thằng Long Tam phải không? Đồ chó chết! Ở kinh đô mày đã cướp của tao mấy mươi lạng bạc rồi bỏ đi. Nay mày lại còn dám đến đây ăn mặc như thế này à! Rõ ràng mày là đồ lường gạt, đồ khả ố!Rồi quay ra bảo những người đầy tớ:- Giật ngay cái mũ phượng trên đầu nó đi, lột ngay áo quần nó ra, đuổi nó ra ngoài cho tao.Long Tam thấy Kim Đông Nhai thì sợ hãi, cất mũ phượng thay quần áo và nói:- Tôi đến đây để chờ các ngài thôi.Kim Đông Nhai nói:- Ai mượn mày đến đây? Mày lại đến lường gạt vị tăng phải không? Rồi đây, ta sẽ nói với ông ta cho mày ít tiền để mày làm vốn kiếm ăn, nhưng nếu còn gây sự như thế thì tao lôi mày đến nha môn cho mày biết tay!Long Tam thấy thế không dám làm gì, cúi chào Kim Đông Nhai rồi đi ra. Vị tăng đưa các vị khách xuống lầu lại vái chào, mời ngồi, đặc biệt cảm ơn Kim Đông Nhai. Khi những người hầu trà đã bưng trà lên, Quách nói:- Ông Kim, mấy lâu nay ông vẫn ở Kinh, thế ông về Giang Nam bao giờ thế?- Gần đây tôi gặp phải nhiều việc rắc rối tốn tiền, nên phải nghĩ đến việc về nhà. Về nhà, đứa con của tôi may mắn thi đỗ tú tài, không ngờ lại gây ra nhiều chuyện bàn tán nọ kia. Mặc dầu cái thực bao giờ cũng không thể giả được nhưng cũng mất mấy lạng bạc. Ở nhà buồn không có việc gì, tôi lên Dương Châu thăm cụ Tuân(1) là chỗ quen biết cũ ở Kinh. Cụ Tuân có lòng tốt giao cho tôi làm một chức trong sở muối, kiếm được mấy trăm lạng bạc.Đồng hỏi: - Ông có biết cụ Tuân hiện nay có việc mới xảy ra không?- Không, việc gì thế? - Ông ta vừa mới bị bắt mấy hôm nay về tội ăn hối lộ. Kim Đông Nhai nói:- Thật là họa phúc sớm chiều không ai biết trước được.Quách hỏi: - Bây giờ ông ở đâu? Đồng nói:- Ông Kim đã mua được một cái nhà bên bờ sông gần cầu Lợi Thiệp.Mọi người nói:- Như thế thì hôm nào chúng tôi sẽ đến thăm.Kim Đông Nhai bèn hỏi họ tên ba người khách. Ba người này đều nói họ tên của mình. Kim Đông Nhai nói:- Thế ra tất cả các vị đều là những danh sĩ cả. Tôi cũng có chú thích “Tứ Thư” “Ngũ Kinh”. Hôm nào tôi sẽ đem đến để xin chỉ giáo.Một lát sau, mấy chục người khách đến, cuối cùng là ba người đội mũ vuông và một người đạo sĩ đi vào. Mọi người không biết vị đạo sĩ này là ai. Một trong những người mới đến, đội mũ vuông hỏi:- Ở đây có ai là ông Quý Điềm Dật không?Quý Điềm Dật nói:- Chính tôi! Tiên sinh có việc gì dạy bảo?Người kia lấy ở trong ống tay áo một bức thư:- Ông bạn của tôi là ông Quý Vi Tiêu gửi lời thăm ông.Quý Điềm Dật mở thư cùng đọc với Tiêu và Gia Cát biết rằng bốn người ấy là Tân Đông Chi, Kim Ngụ Lưu, Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ. Quý nói:- Mời các vị vào!Bốn người thấy ở đây có việc nên xin cáo từ. Vị tăng giữ họ lại nói:- Bốn vị từ xa đến đây, chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp, xin mời các vị ngồi vào bàn.Biết là không thể từ chối, bốn người đều ngồi xuống. Kim Đông Nhai bèn hỏi đến việc cụ Tuân xem có đúng hay không. Quách Thiết Bút nói:- Ông ta bị bắt đúng hôm tôi xuống thuyền. Họ ăn tiệc, diễn tuồng.Đến tối, Tân Đông Chi và Kim Ngụ Lưu trở về thành nghỉ ở am Đồng Hoa Viên. Những người khách khác cũng đều về nhà. Quách Thiết Bút và Lai Hà Sĩ ở lại một đêm với Gia Cát Thiên Thân. Hôm sau, Lai đạo sĩ đến Thần Lạc Quán để tìm một vị đạo sĩ khác. Quách Thiết Bút thuê một cái phòng ở cửa chùa Báo Ân và mở một hiệu khắc dấu ở đấy.Quý Điềm Dất và hai người kia bắt đầu ghi sổ ăn chịu tại hiệu Tụ Thăng Lâu ở trước cửa chùa. Mỗi ngày mua cơm, đồ ăn và uống rượu ở đấy, tất cả độ bốn năm mươi đồng tiền. Khi việc làm ăn tuyển đã xong, họ thuê bảy tám người thợ đến khắc mua chịu độ một trăm cuốn giấy và chuẩn bị in. Độ năm tháng sau thì số tiền của Gia Cát không còn lại bao nhiêu nữa. Nhưng họ vẫn tiếp tục ăn chịu như thế. Hôm ấy, Quý Điềm Dật và Tiêu Kim Huyễn cùng nhau dạo chơi quanh chùa. Quý nói:- Số tiền của anh Gia Cát đã gần hết, chúng ta đã mắc nợ rồi đấy! Còn sách thì chưa biết bán chạy hay không. Bây giờ làm thế nào mà trả?Tiêu nói: - Việc này là do ông ta tình nguyện làm, không ai ép buộc cả. Nếu hết tiền thì cố nhiên ông ta phải về nhà mà lấy chứ! Cứ mặc kệ ông ta!Đang lúc nói chuyện thì Gia Cát đến. Hai người không nói nữa. Ba người đi dạo chơi một lát rồi cùng về phòng thì thấy một cái kiệu, với hai người mang hành lý tiến về phía họ. Ba người cũng đi theo đoàn người này vào chùa.Rèm kiệu vừa mở, trên kiệu là một người thanh niên đội mũ vuông. Gia Cát nhớ mang máng là một người mình quen. Nhưng kiệu chạy như bay. Gia Cát nói:- Tôi nhớ tôi có quen người ngồi trong kiệu kia. Và chạy theo hỏi người đầy tớ:- Các ông ở đâu đấy?- Ông chủ chúng tôi là ông Đỗ ở Thiên Trường. Gia Cát quay trở lại. Ba người thấy cái kiệu và những người mang hành lý đến nhà hòa thượng sát vách với cái nhà ba người nghỉ trọ. Gia Cát Thiên Thân nói với hai người - Người vừa đi qua là cháu Đỗ thượng thư ở Thiên Trường. Tôi đã gặp ông ta. Ông ta là một vị danh sĩ ở đất chúng tôi. Không biết ông ta đến đây có việc gì? Ngày mai tôi phải đến gặp mới được!Hôm sau, Gia Cát Thiên Thân đến thăm, nhưng Đỗ không ở nhà. Ba hôm sau, Đỗ mới đến đáp lễ. Ba người cùng ra đón. Hôm ấy là một ngày cuối xuân đầu hạ. Trời đã dần dần ấm áp. Đỗ mặc áo sa màu da cam, tay cầm một cái quạt đề thơ, chân đi giày tơ bước vào. Khi Đỗ đến gần, máy người nhận thấy Đỗ mặt trắng như dồi phấn, mắt đen lay láy, dáng người nho nhã, thật là một vị thần tiên giáng thế. Đỗ đẹp trai như Phan An(2), thơ hay như Tào Tử Kiến(3), là người danh sĩ nổi tiếng nhất nhì ở đất Giang Nam. Sau khi vái chào, tất cả ngồi xuống. Đỗ hỏi họ tên hai người, và ở đâu đến. Đỗ lại nói: “Tôi là Đỗ Thuyến tự là Thận Khanh” và quay lại phía Gia Cát nói:- Anh Thiên Thân, từ khi gặp nhau năm ngoái lúc đi thi, đến nay đã quá nửa năm rồi nhỉ?Gia Cát Thiên Thân nói với hai người:- Năm ngoái, cụ Thân làm học đài ở phủ tôi có ra đầu đề thơ phú cho danh sĩ hai mươi bảy châu huyện trong khi thi chung ở phủ. Quyển của ông Đỗ đứng đầu.Đỗ Thận Khanh cười nói:- Đó chẳng qua là việc làm để tặng nhau trong một lúc, kể nó làm gì! Vả chăng hôm đó tôi mệt, phải mang thuốc đến trường; làm qua loa cho xong chuyện thôi.Tiêu Kim Huyễn nói:- Gia thế ông nổi tiếng phong lưu khắp cả Giang Nam chẳng kém họ Vương họ Tạ(4) đâu đâu cũng khâm phục.Ông lại là bậc tài giỏi nhất ở trong gia đình, hôm nay may mắn được gặp, rất mong được chỉ giáo.- Các ngài đều là những bậc danh sĩ một thời, tôi đáng lý phải thỉnh giáo mới phải chứ, nói như thế sao được?Mấy người ngồi xuống uống một chén trà rồi vào trong phòng. Nhìn thấy trên bàn đầy cả những bản văn tuyển khắc chữ đỏ, trông loạn cả mắt, Đỗ Thận Khanh nhìn qua rồi để sang một bên. Đột nhiên giở đến một bài thơ của Tiêu Kim Huyễn làm ngày trước nhan đề “Đi thăm đầm Ô long vào mùa xuân”. Đỗ nhìn xong, gật đầu nói:- Nếu ông cho phép, tôi cũng xin mạn phép nói liều. Theo tôi thơ lấy khí làm chủ: hai câu này của ông: Hoa đào tội gì thắm như vậy Dương liễu bông dưng xanh dễ thươngviết như thế này thì e nó quá công phu và, cố ý. Bây giờ ta thêm một chữ “hỏi” ở câu đầu.(Hỏi) hoa đào tội gì thắm như vậy?thì thành một câu từ rất hay theo điệu “Hạ Tân Lương” ngay. Bây giờ tiên sinh lại đem viết nó thành thơ và thêm vào đằng sau một câu gò ép thành ra nó phạt.Lời phê này làm cho Tiêu Kim Huyễn sợ toát mồ hôi.Quý Điềm Dật nói: - Ông bàn về thơ như vậy, nếu gặp ông bạn của tôi là ông Vi Tiêu thì chắc chắn là tâm đầu ý hợp!Đỗ Thận Khanh nói:- Ông Vi Tiêu có phải bà con của ông không? Tôi có được đọc thơ của ông ta. Ông ta cũng có tài.Ngồi một lát Thận Khanh xin từ biệt.Hôm sau, Đỗ Thận Khanh viết thiếp đề “Ở nhà tôi hoa mẫu đơn nở nhiều. Tôi đã sửa soạn mấy chén trà nhạt mời các vị đến nói chuyện chơi”. Ba người vội vàng mặc áo đến. Thấy một người nữa ngồi với Đỗ. Sau khi vái chào nhau, họ mời người ấy ngồi ghế đầu. Đỗ Thận Khanh nói:- Ông Bão đây là người trong nhà chúng tôi. Ông ta không dám ngồi trước các vị.Quý Điềm Dật nhận ra người kia là Bão Đình Tỷ đã đưa thư từ Dương Châu đến cho mình. Và nói với hai người:- Đây là ông chú của ông Vi Tiêu.Bèn hỏi:- Ông đến đây có việc gì?Bão Đình Tỷ cười và nói:- Ông Quý không biết đấy thôi. Gia đình tôi vốn là môn hạ Đỗ Phủ mấy đời nay. Cha tôi và tôi chịu ơn nhà cụ Thượng Đỗ rất nhiều. Nay nghe tin ông Mười bảy ở đây, chúng tôi dám đâu không đến thăm.Đỗ Thận Khanh nói:- Bất tất phải nói việc đó, thôi bảo người nhà đem rượu ra đây!Bão Đình Tỷ và một người đầy tớ mang bàn đến. Đỗ Thận Khanh nói:- Hôm nay tôi muốn bỏ hết những món ăn tục. Chúng ta chỉ dùng cá, anh đào và măng Giang Nam để nhắm với rượu. Chúng ta vừa uống rượu vừa nói chuyện suông.Lúc bưng lên, quả nhiên chỉ thấy có mấy đĩa sơ sài như thế thôi. Rượu rót đầy chén, toàn là rượu quất thượng hạng ở phố Vĩnh Ninh, Đỗ Thận Khanh là một tay tửu lượng rất khá. Đỗ không ăn gì, sau khi nâng đũa mời khác, Đỗ chỉ gắp mấy miếng măng và vài quả anh đào để nhắm rượu. Cốc rượu cứ cạn lại đầy, uống mãi tới quá trưa. Đỗ gọi mang đồ điểm tâm lên. Bánh nhân thịt, bánh nhân thịt vịt quay, bánh rán mỡ ngỗng; bánh ngọt được mang lên. Sau khi dùng điểm tâm, mỗi người uống một chén trà Lục An pha với nước mưa, riêng Thận Khanh chỉ ăn một cái bánh ngọt và uống một chén trà. Y bảo thu dọn bàn tiệc, lại bảo đem rượu lên uống.Tiêu Kim Huyễn nói:- Lúc này ngắm hoa nở, gặp bạn hiền, không lẽ không có thơ! Chúng ta hãy chọn vần có được không?Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:- Việc này các thi xã hiện nay vẫn thường làm, nhưng theo ý tôi, cái đó là việc của bọn tục khách để tỏ ra mình phong nhã. Chúng ta thì cứ nói chuyện suông thế này là hơn.Nói xong, Đỗ liếc mắt nhìn Bão Đình Tỷ. Bão Đình Tỷ cười và nói:- Tôi xin góp vui.Bão liền đi vào phòng, lấy một cái sáo ở trong bao gấm ra rồi ngồi ở bàn tiệc bắt đầu thổi. Trong khi đó, một đứa trẻ đứng bên cạnh Bão Đình Tỷ vừa vỗ tay đánh nhịp, vừa hát bài “Thanh bình điệu” của Lý Bạch. Tiếng sáo khi trầm khi bổng, réo rắt như xé trời xanh. Ba người dừng chén ngây ngất lắng nghe. Thận Khanh lại một mình uống luôn mấy chén. Họ uống mãi đến lúc trăng lên, ánh trăng chiếu vào hoa mẫu đơn làm cho sắc đẹp của hoa lại tăng thêm bội phần, cả cái vườn trắng như tuyết. Ba người ngây ngất như muốn đứng dậy nhảy múa. Thận Khanh đã say mềm. Vừa lúc ấy, một vị hòa thượng chậm rãi bước vào, tay cầm một cái hộp bọc gấm. Mở hộp ra, trong ấy có một tràng pháo Kỳ Môn. Hòa thượng nói:- Bần tăng đến đây để thức các ngài tỉnh rượu. Bèn đốt pháo ở bàn tiệc, pháo nổ nghe đùng đùng. Đỗ Thận Khanh ngồi dựa vào ghế cười vang. Hòa thượng đi rồi, khói pháo mùi lưu hoàng vẫn còn phảng phất trên bàn tiệc. Ba người khách đã say mềm đứng dậy chân đi không vững, xin cáo từ để về.Đỗ cười: - Tiểu đệ say rồi; xin lỗi, không thể tiễn các vị được, ông Bão! Ông tiễn ba vị hộ tôi rồi trở về đây nghỉ.Đình Tỷ cầm một cây đèn sáp, đưa ba người ra ngoài và đóng cổng lại.Ba người về nhà, bàng hoàng như đi trong giấc mộng. Hôm sau, người bán giấy đến đòi tiền. Không có tiền, hắn làm ồn một trận. Rồi đến người chủ quán ở hiệu Tụ Thăng Lâu đến đòi tiền ăn. Gia Cát phải cân hai nắm bạc vụn đưa cho hắn để cho hắn đi. Ba người bàn nhau mời Đỗ Thận Khanh ăn tiệc để đáp lễ. Vì không thể dọn tiệc ở nhà, họ đành phải mời Đỗ Thận Khanh đến quán Tụ Thăng Lâu.Hai ngày sau, trời trong gió mát, ba người ăn cơm xong đến nhà Đỗ Thận Khanh. Bước vào cửa đã thấy một bà chân to đang ngồi trên ghế dài nói chuyện với một người gia nhân. Người gia nhân thấy ba người đến, liền đứng dậy. Quý Điềm Dật hỏi người gia nhân: “Bà ấy là ai?”.Gia nhân nói: - Đó là một bà mối tên là bà Thẩm chân to. - Bà đến đây có việc gì?- Bà ấy đến đây có việc riêng.Ba người đoán biết rằng Đỗ muốn lấy vợ lẽ cho nên không nói nữa. Bước vào nhà, thấy Đỗ đang dạo chơi ngoài hành lang. Thấy ba người đến, Đỗ liền mời vào nhà ngồi và bảo người nhà pha trà.Quý nói: - Hôm nay đẹp trời, chúng tôi muốn mời ông đi chơi với chúng tôi.Đỗ mang một tiểu đồng đi theo. Ba người kéo Đỗ đến quán rượu Tụ Thăng Lâu. Đỗ không từ chối, đành phải ngồi xuống. Quý biết tính Đỗ không thích thịt lợn cho nên bảo dọn thịt vịt, cá, thịt bò tái, nem và rượu. Uống hai chén rượu xong, họ mời Đỗ ăn đồ nhắm. Đỗ Thận Khanh gượng ăn một miếng thịt vịt, nhưng vừa bỏ vào miệng thì đã nôn ra, mọi người cũng không tiện mời. Trời còn sớm, họ không uống nhiều rượu mà ăn cơm ngay. Đỗ đổ một chén trà vào bát cơm rồi cố gắng ăn nhưng không thể ăn hết, liền đưa cho người tiểu đồng ăn. Ba người ăn cơm và uống rượu xong, xuống lầu, trả tiền, đi ra.Tiêu Kim Huyễn nói:- Anh Thận Khanh, chúng ta cùng đi đến đồi Vũ Hoa Đài đi.Đỗ Thận Khanh nói:- Vâng, như thế thì thích lắm.Mấy người cùng đi lên đồi vào trong đền thờ, thấy bàn thờ Phương Hiếu Nho và Cảnh Thanh(5) rất là nguy nga. Họ lại trèo lên đỉnh đồi. Xa xa, nhìn thấy khói ở các mái nhà trong thành bốc lên. Con sông Trường Giang trắng xóa như một dải lụa bạch. Những ngọn tháp lợp ngói lưu ly thiếp vàng sáng chói cả mắt. Đỗ Thận Khanh đi đến trước điện nhìn bóng của mình dưới ánh mặt trời, trong lòng bồi hồi khôn xiết. Họ ngồi xuống cỏ. Gia Cát Thiên Thân thấy ở xa có một cái bia nhỏ liền chạy đến xem. Xem xong chạy về ngồi xuống nói:- Trên cái bia này khắc mấy chữ “Nơi đây đã giết mười họ”.Đỗ nói: - Nói rằng mười họ thì không đúng. Đời Hán bị tội nặng thì giết ba họ là họ cha, họ mẹ và họ vợ. Chín họ cùng bị giết với Phương Chính Học là Cao, tằng, tổ, khảo, tử, tôn, tằng, huyền(6). Đó đều là họ cha cả. Còn họ mẹ, họ vợ đều không bị liên quan. Còn nói việc giết cả học trò là vô lý. Vả chăng, hoàng đế Vĩnh Lạc không tàn nhẫn đến như thế. Triều đại ta, nếu không có vua Vĩnh Lạc chấn chính lại mà cứ để vua Kiến Văn nhu nhược trị vì thì thiên hạ còn lắm chuyện không kém gì thời Nam Bắc Triều(7)Tiêu Kim Huyễn nói: - Theo ý ông, Phương Chính Học là người như thế nào? - Theo ý tôi, ông ta là người viển vông không làm nên việc gì. Trong khi thiên hạ còn bao nhiêu việc lớn phải làm, tại sao chỉ lo đến việc truyền ngôi mà thôi. Bị chém giữa chợ trong khi mang triều phục là không oan uổng chút nào!Họ ngồi chơi mãi cho đến khi mặt trời xế bóng. Bỗng thấy hai người gánh phân quảy hai thùng không cùng lên núi nghỉ. Một người vỗ vai người kia nói:- Này anh, hôm nay công việc xong rồi, chúng mình đi uống một bình nước ở suối Vĩnh Ninh rồi về Vũ Hoa Đài ngắm mặt trời lặn đi.Đỗ Thận Khanh cười mà rằng:Thật là phong khí Lục Triều(8) để lại đến nay vẫn không phai chút nào! Những người nấu ăn và những người gánh phân mà cũng thanh lịch như thế!Họ xuống đồi về nhà. Đến cửa chùa, Gia Cát nói: - Mời ông vào nhà chúng tôi chơi.Đỗ Thận Khanh nói:- Cũng được.Tất cả đi vào. Vừa bước đến cửa đã thấy Quý Vi Tiêu ngồi ở trong phòng. Quý Điềm Dật mừng rỡ nói:- Anh Vi Tiêu! Anh đã đến đấy à!Quý Vi Tiêu nói:- Anh Điềm Dật! Tôi tìm anh ở hiệu khắc chữ mới biết anh ở đây. Hai vị này là ai?Quý Điềm Dật nói:- Vị này là Gia Cát Thiên Thân, người ở Vu Thai. Vị này là Tiêu Kim Huyễn đồng hương với chúng ta. Chắc thế nào anh chả biết.Quý Vi Tiêu nói:- Ông ở cửa Bắc phải không?Tiêu Kim Huyễn nói:- Vâng.- Còn vị này?Quý Điềm Dật nói:- Vị này mới đến, nghe tên thì anh lại càng thích. Đây là ông Đỗ Huyến, cháu thứ mười bảy của cụ Thượng Đỗ ở Thiên Trường tự là Thận Khanh. Ông biết ông này chứ?Quý Vi Tiêu nói:- Có phải ông Đỗ đứng đầu kỳ thi năm ngoái trong tất cả hai mươi bảy châu huyện ở phủ này không? Bấy lâu khao khát, nay mới được gặp mặt.Vi Tiêu đứng dậy vái chào. Đỗ Thận Khanh cũng cúi đầu đáp lễ. Mọi người thi lễ xong ngồi xuống, vừa lúc ấy một người cười rộ bước vào, nói:- Đêm nay các vị có ở lại uống rượu cho vui không?Quý Vi Tiêu nhận ra người ấy chính là Bão Đình Tỷ bèn nói ngay:- Chú làm sao lại đến đây?Bão Đình Tỷ nói:- Tôi là người nhà ông Đỗ thứ mười bảy. Tôi là môn hạ nên đến đây là lẽ dĩ nhiên. Anh cũng biết ông Đỗ sao?Tiêu Kim Huyễn nói:- Chúng ta quả đều là những kẻ “một cười cũng đủ nên tri kỷ, đâu phải thờ ơ khách giữa đường”.Quý Vi Tiêu nói:- Mặc dầu tiểu đệ ít tuổi, cũng đã đi du lịch giang hồ và được gặp nhiều người. Nhưng chưa bao giờ tiểu đệ thấy một con người sang trọng, xinh đẹp như Đỗ tiên sinh. Thật là một vị tiên trên trời. Ngày nay được gặp mặt tiên sinh thì tiểu đệ cũng là một vị thần tiên vậy.Đỗ Thận Khanh nói:- Tiểu đệ gặp tiên sinh cũng giống như chuyện Thành Liên chèo thuyền trên biển(9). Thật là một việc thú vị. Chỉ nhân phen này, khiến cho:Phong lưu hội cả, Giang Nam lại thấy dấu kỳ;Trác lạc tự trời, thiên hạ đều truyền phong nhãMuốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.----------(1) Tức là Tuân Mai nguyên học trò Chu Tiên. (2) Phan An tức là Phan Nhạc người đời Tấn rất đẹp trai, lúc đi ra đường con gái thường ném quả cây vào đầy cả xe cho anh ta.(3) Tào Tử Kiến tức Tào Thực, con Tào Tháo nổi tiếng về thơ.(4) Vương Đạo, Tạ An đời Tấn, những người phong lưu đời Đông Tấn. (5) Phương Hiếu Nho còn gọi là Phương Chính Học và Cảnh Thanh là hai nhà nho có tiếng đời Minh, chống lại Minh thành tố và bị giết. Đoạn này tác giả nói đến, có ý ám chỉ những vụ tàn sát đời Thanh lúc tác giả còn sống. (6) Ông ba đời, ông hai đời, ông, cha, con, cháu, cháu hai đời, cháu ba đời; có thể dịch là ông sơ, ông cố, ông, cha, con, cháu, chắt, chút.(7) Nam Bắc triều (thế kỷ IV - thế kỷ VI) thời gian Trung Quốc bị chia cắt làm hai, ở phía nam Dương Tử có Đông Tấn, Tề, Lương, Trần gọi là Nam triều, về phía Bắc có Nguyên Nguỵ, Chu, Cao Tề gọi là Bắc Triều. Sau nhà Tuỳ thống nhất cả Nam Bắc. Thời gian này chiến tranh liên miên, nhân dân điêu đứng. (8) Lục Triều: Thời Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Tần những thời này đều đóng đô ở Kim Lăng và nổi tiếng Thanh Lịch. (9) Thành Liên người đời Xuân Thu - Bá Nha học đàn cầm với ông, ông đưa đến một hòn núi giữa bể, rồi chèo thuyền đi mất, để cho Bá Nha theo trong cảnh tĩnh mịch tự nhiên, mà hiểu biết cái hay của nhạc.