CHƯƠNG 31

    
hite Sands
  Vào lúc 7:52 phút sáng, giờ tiêu chuẩn miền núi, Peter Godin rơi vào tình trạng nguy kịch. Ravi Nara không có mặt tại kho chứa máy bay dùng làm bệnh viện, nhưng y ngủ ngay gần đó, và chỉ mất chưa đầy hai phút y đã đến bên giường Godin. Y đã chờ cho ông già tịch. Không rẽ tắt dòng để giảm bớt áp suất trong não thất thứ tư thì tràn dịch màng não là không thể tránh khỏi. Nhưng khi y đến Bong bóng, y thấy Godin đang lên cơn nhồi máu cơ tim thông thường.
  Hai y tá của Godin đã luồn ống ôxy vào khí quản và một người đang xoa bóp để phục hồi nhịp tim. Ravi đọc điện tâm đồ và xác nhận chẩn đoán của họ: nhịp nhanh thất. Họ đang phải sốc điện vì không thấy mạch của lão. Cần đến hai liều thuốc kết hợp và phải sốc điện 360 jun để đưa tim về nhịp xoang. Ravi lấy máu để kiểm tra các enzym đặc trưng của tim, xem cơ tim đã bị hủy hoại đến mức nào. Sau đó, vì Godin vẫn còn bất tỉnh, Ravi ngồi xuống nghỉ một lát.
  Y ghét y học lâm sàng. Luôn thường trực bất ngờ khiến anh phải ngạc nhiên. Godin đã được bắc cầu nối mạch vành cách đây mười lăm năm và được cấy ống dẫn tuần hoàn từ năm 1998. Nguy cơ nhồi máu cơ tim luôn còn đó, nhưng dưới áp lực phải cố sức xử lý u thần kinh đệm thân não, Ravi tạm quên đi nguy cơ về tim. Các y tá đã thấy y ngập ngừng trong khi cấp cứu. Không rõ họ có thể chờ mong gì ở một người được giải Nobel y học. Sau nhiều năm làm việc ở phòng thí nghiệm nghiên cứu, y đã không hành nghề chữa bệnh. Thế thì đã sao? Thậm chí một bác sĩ thú y cũng có thể lập phác đồ xử lý các ca nguy kịch.
  Khi một y tá vừa chạm đến ống thở của Godin, ông già cố nói, nhưng cố gắng của lão chỉ tạo nên những tiếng kêu the thé.
  Ravi ghé xuống sát tai Godin. “Đừng cố nói, Peter, ông hơi bị loạn nhịp tim, nhưng sẽ ổn định ngay thôi.”
  Godin giơ tay đòi vật gì để viết. Một y tá đưa cho lão chiếc bút và giữ một tấm bìa cứng gần sát tay lão.
  Godin viết nghệch ngoạc: “ĐỪNG ĐỂ TÔI CHẾT! SẮP THÀNH CÔNG RỒI!!!”
  “Ông không chết đâu.” Ravi trấn an lão, mặc dầu chính y còn lâu mới tin điều đó. Giảm ôxy sẽ dễ gây ra cơn tràn dịch màng não chết người mà y đang chờ đợi. Y bóp vai Godin, rồi ra lệnh cho các y tá đặt thông khí. Việc này sẽ làm ông già khiếp sợ, nhưng lão có thể chịu đựng được.
  Để tránh sự phản đối của Godin, Ravi rời Bong bóng. Khi y đóng cửa sập lại, y thấy Zach Levin đang lao vào bệnh xá.
  “Cái gì thế?” Ravi hỏi. “Đã xảy ra chuyện gì?”
  Levin phải dừng lại lấy hơi mới nói được. “Mẫu thần kinh của Fielding đang giải thuật toán cuối cùng! Ông ta đã liên kết được vùng ký ức với vùng xử lý, và đang tạo ra một mạch giao diện hoàn toàn mới. Tôi chưa từng thấy điều gì như thế.”
  “Ý cậu muốn nói mẫu thần kinh của Fielding đã làm tất cả những việc đó.”
  “Đúng, đúng. Nhưng tôi phải nói cho anh biết, ngay khi cỗ máy mới chỉ vận hành năm mươi phần trăm công suất, tôi đã có thể cảm thấy ông ta ở đó. Cứ như nói chuyện với một người tôi đã từng cùng làm việc suốt hai năm qua. Như thể ông ta đã sống lại vậy.”
  “Cậu đã đạt được năm mươi phần trăm công suất?”
  Levin cười ngoác miệng. “Và đang tăng lên. Lẽ ra tôi nên tin tưởng hơn vào linh cảm của Godin.”
  Ravi cố gắng giấu cơn sốc. Chín mươi phần trăm hiệu suất là điểm mà Godin đã dự tính một mẫu thần kinh có thể trở thành ý thức đầy đủ - một trạng thái mà lão gọi tên bằng thuật ngữ trạng thái Trinity.
  “Cậu vừa bảo ‘nói chuyện’,” Ravi nói to suy nghĩ của mình. “Hay là bộ đồng bộ hóa giọng nói đã làm việc? Fielding nói với cậu à?”
  “Ông ta cố gắng nói. Ông ta không thể giải thích việc ông ta đang làm. Nhưng hiệu quả đang tăng lên vững chắc. Chúng tôi đã đặt được lịch trình xác định.”
  Bất chấp hoàn cảnh cá nhân phức tạp, Ravi vẫn không chế ngự nổi cơn phấn khích. “Bao lâu?”
  “Mười hai đến mười sáu tiếng.”
  “Đến trạng thái Trinity ấy à?”
  Levin gật đầu. “Và tôi cá sẽ ngắn hơn mười hai tiếng. Chúng tôi đã đưa một nhóm trực đến nhà Cách ly.”
  Ravi nhìn đồng hồ. “Cậu chắc chắn chứ?”
  “Chắc như mọi việc đã làm ở công trình này. Tôi phải đi báo cho Godin biết chuyện đang xảy ra.”
  Ravi không muốn Godin nghe chuyện này cho đến khi y nói cho Skow biết. “Cậu không vào ngay bây giờ được. Ông ấy không nghe được đâu. Peter lên cơn nguy kịch cách đây hai mươi phút.”
  Levin cứng người lại cảnh giác. “Ông ấy chưa chết chứ!”
  “Chưa. Nhưng đang được thông khí.”
  “Có tỉnh không?”
  “Không đủ tỉnh để hiểu cậu nói. Mà ông ấy cũng không nói được.”
  “Nhưng ông ấy phải biết việc này! Nó sẽ tăng bội ý chí chiến đấu của ông ấy.”
  Ravi cố tỏ vẻ đồng cảm. “Ông ấy chưa bao giờ thiếu cái đó.”
  “Đúng. Nhưng việc này sẽ làm thay đổi tất cả.”
  “Rất tiếc, Levin. Tôi không thể cho cậu vào được”
  Levin khinh bỉ nhìn xuống Ravi. “Anh không thể có một quyết định như vậy được. Hạn chế Godin tiếp cận với những thông tin vô cùng trọng yếu ư?”
  “Tôi là bác sĩ của ông ấy.”
  “Vậy thì anh đang làm một việc chó đẻ. Chẳng cần phải là bác sĩ mới biết điều tốt nhất ta có thể mang lại cho sức khỏe của Godin hiện giờ là cho ông ấy biết thông tin này.”
  Levin quay đi và bước tới bộ khử trùng cực tím. Ravi định cãi nhưng người kỹ sư đã ấn nút khởi động, làm cho cuộc đấu khẩu trở nên vô ích.
  Nếu Levin cứ khăng khăng vào Bong bóng, Ravi không thể ngăn cản anh ta. Godin có thể gọi anh ta bất cứ lúc nào.
  Ravi hối hả chạy ra cửa. Y cần báo với Skow ngay lập tức. Bởi vì Zach Levin có lý: nếu chỉ còn mười hai đến mười sáu tiếng nữa Trinity trở thành hiện thực, Godin gần như chắc chắn còn sống để thấy điều đó. Và như thế mọi chuyện sẽ thay đổi. Skow đang lập kế hoạch cho tổng thống thấy thất bại của Trinity, đổ mọi trách nhiệm lên đầu Godin, và dùng Ravi để giúp gã làm việc đó. Nếu Skow đi quá xa, và Godin vào giờ thứ mười một đưa ra được chiếc máy tính cách mạng mà lão đã hứa hẹn - thì Ravi sẽ rơi vào tình trạng hiểm nghèo. Peter Godin sẽ không nhẹ tay với kẻ phản bội. Lão sẽ tự đưa ra phán quyết của mình. Hình ảnh Geli Bauer lướt qua đầu Ravi. Hú hồn là ả đang nằm viện ở Maryland.
  Jerusalem
  Rachel ghì chặt thành xe cấp cứu khi nó chật vật nhúc nhích giữa dòng giao thông tắc nghẽn. David nằm bất tỉnh trên tấm băng ca đặt trên sàn xe. Người hộ lý ngồi phía sau biết tiếng Anh đủ để trò chuyện với Rachel, nhưng anh ta chỉ có thể nói rất ít, thậm chí còn nói ít hơn về tình trạng bệnh nhân của anh ta.
  Khi David gục ngã trong nhà thờ, Rachel biết ngay rằng anh bị tai biến ngập máu. Nàng quỳ xuống đỡ lấy đầu anh khỏi đập xuống sàn, nhưng đó là tất cả những gì nàng có thể làm được. Việc nạn nhân tai biến tự nuốt lưỡi mình chỉ là chuyện tưởng tượng, nếu thò tay vào mồm để ngăn có thể mất ngón tay như chơi. Ibrahim đã dùng điện đàm gọi cấp cứu, nhưng Rachel có cảm tưởng ông ta đã gọi trước đó rồi.
  Đám lính Israel nhanh chóng chạy đến lập hàng rào quanh nhà nguyện. Lúc xe cấp cứu đến, cơn tai biến của David đã qua, nhưng anh vẫn chưa tỉnh. Các hộ lý đo đường huyết của anh, thấy mức glucose vẫn bình thường. Trong trường hợp hôn mê, đấy là giới hạn những gì họ có thể làm tại chỗ, nên họ lắp nẹp cổ cho anh, đặt anh lên cáng, rồi gọi lính khiêng anh ra xe cấp cứu trong sân.
  Khi họ luồn lách qua phố xá, tâm trí Rachel lướt nhanh qua các nguyên nhân có thể gây hôn mê. Nguyên nhân thông thường nhất là hạ đường huyết, nhưng David không có tiền sử lạm dụng chất gây nghiện. Đầu anh chạm đất không mạnh lắm nên không thể bị chấn thương, bốn mươi mốt tuổi thì cũng khá lớn tuổi để mắc chứng động kinh khởi phát muộn, mặc dầu nàng đã nghi ngờ điều đó ngay từ khi nghe về chứng ảo giác. Ravi Nara đã loại trừ bệnh động kinh, nàng nhớ lại.
  Một cơn đột quỵ có thể gây tai biến và hôn mê, nhưng rất hiếm. Đầu độc? Nàng nghĩ đến chất bột trắng trong chiếc phong bì Fielding gửi qua FedEx. Liệu có thứ chất độc nào lẫn trong “cát” mà các nhà khoa học ở trường Duke không tìm ra? Có khả năng là virus viêm não ở phía Tây sông Nile chăng? David có thể từng bị muỗi độc đốt ở Tennessee mà mãi đến bây giờ mới phát bệnh viêm não? Anh cũng có thể nhiễm vi khuẩn viêm màng não ở sân bay Kennedy. Có thể là ung thư não, nhưng nếu thế thì Siêu-MRI của Trinity đã ph&aaguyện tối om, rồi bỗng thấy mình đang đứng trong một cái sân chật cứng người trước nhà thờ Romanesque. Khách hành hương, linh mục, nữ tu đi đi lại lại dưới con mắt canh chừng của hàng chục lính Israel đeo súng máy.
  “Đây là nhà thờ Mộ Chúa,” Ibrahim vừa nói vừa vẫy tay về phía tòa nhà. “Do những người Thập tự chinh xây trong năm mươi năm, từ 1099 đến 1149. Ban đầu nhà thờ với hai dãy cột do Nữ hoàng Helena, mẹ của Constantine, xây nên, bà đến đây năm 325 và phát hiện ra những mảnh của chính cây thánh giá trong chiếc hang sâu dưới lòng đất.”
  Tôi thất thần nhìn dòng du khách trước cửa nhà thờ.
  “Lượng khách du lịch như thế này không đến nỗi tệ,” Ibrahim nói. “Vào mùa này du lịch kém lắm. Chiến sự làm mọi người sợ chả ai dám đến, ngay cả trong Tuần Thánh. Tốt cho các vị nhưng xấu cho chúng tôi. Ngài vẫn ổn đấy chứ? Tôi có thể kiếm ít nước cho ngài trong khi chờ đợi.”
  “Tôi không sao đâu.”
  “Anh có thể tựa vào em,” Rachel nói trong khi chỉnh lại dáng đi đi dưới cánh tay tôi. Tôi dựa vào nàng mạnh hơn một chút. “Cám ơn em.”
  Nàng chạm mu bàn tay vào má tôi. “Giá mà em đo được huyết áp của anh lúc này.”
  “Phía bên phải cổng vào là trạm thứ mười,” Ibrahim nói. “Tại đó Jesus trút bỏ y phục của Người. Năm trạm thánh giá cuối cùng nằm ngay trong lòng nhà thờ.”
  “Thật kỳ lạ, phải không?” Rachel khẽ nói. “Hàng triệu người kéo đến để xem một ngôi mộ rỗng không?”
  Cố hết sức tôi cũng chỉ có thể gật đầu.
  “Đây là ngôi mộ rỗng duy nhất trong bất kỳ nhà thờ Thiên chúa giáo nào trên thế giới,” Ibrahim nói. “Thiên sứ hỏi các bà Mary, ‘Các người tìm kiếm gì?’ ‘Jesus xứ Narareth,’ họ đáp. ‘Người không có ở đây,’ thiên sứ nói. ‘Người đã phục sinh rồi.’ ”
  Mảnh sân bỗng dưng mờ đi trước mắt tôi, và tôi thấy chân tay mình nhẹ bẫng. Tôi tưởng như đang bềnh bồng trên cánh tay Rachel.
  “David?” nàng hỏi. “Anh có nghe em nói không?”
  Tôi chớp chớp mắt và thấy mình đang nhìn lên trần nhà bằng đá. “Chúng ta vào trong nhà thờ rồi à?”
  “Anh đang mộng du,” nàng thì thầm, mắt nàng đầy vẻ lo lắng. “Phải đưa anh trở lại khách sạn thôi.”
  “Chúng ta đã tới đây rồi. Chúng ta làm được rồi. Anh phải nhìn nó.”
  “Nhìn gì?”
  Giờ thì tôi đã biết. “Ngôi mộ.”
  Nàng quay sang Ibrahim. “Mộ Jesus ở đâu?”
  “Phía này. Trong nhà thờ này mọi điểm đều gần nhau.” Ông ta chỉ phiến đá cẩm thạch ánh đỏ trên nền nhà. Mấy ông bà bận trang phục đường phố quỳ áp mặt vào phiến đá. Phía trên họ, một người phụ nữ rót thứ nước gì đó lên phiến đá. Một làn hương ngọt đến nôn nao xộc vào mũi tôi.
  “Cái gì thế?” tôi hỏi.
  “Đá xức dầu Thánh,” Ibrahim nói. “Nơi thân thể Jesus được xức dầu và bọc trong tấm vải liệm sau khi Người được hạ từ trên thánh giá xuống.”
  Tôi đến gần hơn nhưng không cảm thấy gì. “Có phải đây là phiến đá đầu tiên?”
  “Không phải đâu thưa ngài. Phiến đá này có ở đây từ năm 1810 thay thế cho phiến đá từ thế kỷ mười hai. Xa hơn thời điểm đó thì ta không biết chắc. Đi lối này, thưa ngài.”
  Ông ta dẫn chúng tôi sang trái vào nhà tròn mái vòm của nhà thờ. Ánh sáng tuôn xuống từ mái vòm rực rỡ màu vàng và trắng. Bên dưới vòm là một tòa kiến trúc đồ sộ hình chữ nhật bằng đá cẩm thạch, thứ đá trông như từng được đóng thùng nẹp đai kim loại dày cộp để chở bằng tàu biển. Trên đỉnh là một cái chóp giống như ở điện Kremlin.
  “Đây là cái gì?” tôi hỏi.
  “Đây là Mộ Thánh, thưa ngài. Gọi là Edicule, tức là ngôi nhà nhỏ. Vì Jesus là nhân vật cực kỳ quan trọng nên người Byzantine và quân Thập tự chinh đã tiêu tốn vô số tiền bạc để xây ngôi mộ này cho Người. Đây là trạm thứ mười bốn và là trạm cuối cùng của con đường thánh giá. Theo phong tục của dân Do Thái, họ luôn luôn chôn người chết bên ngoài thành phố. Mặt ngoài của đá cẩm thạch đã bị rã ra nên người ta phải dùng đai sắt để nẹp lại. Vào chứ, thưa ngài? Thưa bà, bà đứng vào hàng chứ?”
  Ibrahim tiếp tục bài diễn thuyết liến thoắng của ông ta, nhưng tôi đã bị phân tán không còn theo dõi được. Tôi cứ tưởng mộ Jesus phải là một thứ hang động nào đó ngoài trời, chứ đâu phải lăng mộ trong một nhà thờ Trung cổ như hầm ngục thế này.
  “Hàng người đang di chuyển,” Rachel nói và đỡ tôi tiến lên.
  Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đứng trước cửa Edicule. Tại đây Ibrahim nói với giọng kính cẩn mà tôi đã chờ đợi từ đầu.
  “Bên trong nhà mồ chúng ta sẽ thấy hai căn phòng. Ta vào thôi.”
  Trong phòng đầu tiên chúng tôi thấy một chiếc bục, trên đặt một hộp kính. Trong hộp có một viên đá.
  “Phòng này chúng tôi gọi là phòng thiên thần,” Ibrahim nói. “Là nơi người chết đợi để người ta dọn chỗ chôn cất. Ở đây cất giữ một hòn đá lăn, nơi các thiên thần mở cửa mộ để Jesus phục sinh.”
  Tôi chú ý đến hai lỗ thủng trên bức tường bên phải. Ibrahim nói, “Khi mọi người không có lửa để châm nến Phục sinh, vị linh mục đứng đây cho họ lửa từ ngọn Lửa Thiêng, châm từ ngọn nến lớn của ông đến các ngọn nến của mọi người.”
  Tôi chuyển sự chú ý sang một cánh cửa thấp trong bức tường cẩm thạch dày của ngôi mộ trong. Tôi cúi mình chui qua cửa vào một căn phòng nhỏ bên trong. Một người đàn ông và một người đàn bà đang quỳ gối cầu nguyện trước một thứ có lẽ là bàn thờ bằng cẩm thạch. Họ làm dấu thánh giá lên phiến đá, làm như phiến đá có thể ban phúc khi họ chạm vào. Trên đầu họ là những chùm đèn lộng lẫy bằng bạc treo trên dây xích, ánh nến lung linh khắp gian phòng. Những bình hoa hồng bạch tỏa hương thơm hắc trong không gian bé nhỏ.
  “David, đây chính là cái anh cất công đến để xem đấy à?”
  Tôi khom người chạm vào phiến đá cẩm thạch phía trước hai người đang cầu nguyện. Tôi không biết mình đang mong chờ gì, nhưng đúng là có gì đó. Ở Stonehenge, khi tôi trèo qua hàng rào chắn và chạm tay vào những khối đá sa thạch, tôi đã cảm thấy nhiều hơn thế này. “Không phải ở đây.”
  “Sao?”
  “Ở đây chẳng có gì xảy ra cả.”
  Hai người đàn ông đàn bà đang quỳ ngước lên nhìn tôi, đôi mắt họ mở to.
  “Thưa ngài, ngài không được nói thế,” Ibrahim nói sau lưng tôi. “Đây là nơi thiêng liêng nhất.”
  “Không phải ở đây,” tôi nhắc lại. Tôi lom khom, vội vã quay trở lại nền nhà mái vòm.
  Rachel theo sau tôi. Dòng người xếp hàng đứng đợi nhìn chúng tôi chằm chằm, cảm thấy có chuyện bất ổn. Tôi không quan tâm. Nỗi kinh hoảng bóp nghẹt tim tôi. Bên ngoài trời đã tối mịt mà tôi vẫn chưa tìm thấy cái tôi đến để tìm.
  “Nói cho em biết chuyện gì đang xảy ra đi,” Rachel thì thầm.
  “Không có gì xảy ra ở đó. Đó không phải nơi cần tìm.”
  Một người đứng trong hàng há hốc mồm kinh ngạc.
  “Nơi nào?” Rachel hỏi.
  Tôi quay sang Ibrahim, lúc này ông ta đang cầm điện đài và hình như đang lưỡng lự không biết có nên kêu gọi giúp đỡ không. “Đó có phải phiến đá đầu tiên không?”
  “Không, thưa ngài. Phiến đá cẩm thạch được đặt ở đó để che đậy chính phiến đá xưa kia Jesus đã nằm.”
  “Vậy không thể nhìn được phiến đá chính à?”
  Mặt người hướng dẫn sáng lên. “Được ạ. Sờ cũng được nữa. Ngài đi theo tôi.”
  Ông ta dẫn chúng tôi đi ra phía sau Edicule. Nơi đó có một nhà nguyện nữa, kín đáo hơn, mở về phía nhà vòm. Ở đây màu sắc rực rỡ hơn ngôi mộ đá cẩm thạch mà chúng tôi vừa rời khỏi, với những món trang trí treo tường bằng sắt rèn, và có một người đàn ông râu ria lởm chởm chăm nom.
  “Đây là ngôi mộ thánh nhìn từ phía khác thưa ngài,” Ibrahim thầm thì. “Một phần của nhà nguyện Coptic. Coptic là những người Thiên chúa giáo từ Ai Cập đến. Hết sức sùng đạo.”
  Ở đây dòng người xếp hàng ngắn hơn nhiều. Nó biến mất vào trong nhà thờ nhỏ hẹp và dừng lại nơi tấm rèm nhỏ che thứ gì đó.
  “Thưa ngài, phía sau kia là phiến đá chính nơi chúa Jesus đã nằm, lộ một phần ra ngoài. Nơi đây người có bệnh đến để được chữa, người thường đến để được ban phúc lành.”
  Trong khi đợi hàng người di chuyển, da tôi ngứa ran như bị ong châm. Cuối cùng cũng đến lượt tôi. Tôi đi qua tấm rèm, quỳ xuống và đặt bàn tay phải lên phiến đá trần.
  “Tôi cứ để máy hoạt động và đi mời một bác sĩ thần kinh xuống đây. OK?”
  “Cám ơn anh.”
  Nàng ngồi một mình bên giường, tay run rẩy khi nhìn màn hình. Cho đến khi nhìn thấy sóng theta đó, nàng vẫn đinh ninh là David chết. Bây giờ nàng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng có gì đó đang xảy ra trong đầu anh. Có thể anh đang bị ảo giác trong hôn mê giống như những khi anh bị chứng ngủ rũ quật ngã? Cũng có thể anh không hề hôn mê? Đôi khi có bệnh nhân trông như bị hôn mê trong khi thật ra anh ta đang bị một cơn tai biến nhỏ. Thế nhưng điện não đồ không thể hiện điều này. Nó thể hiện trạng thái hôn mê alpha, ngắt quãng bởi sự xâm nhập không giải thích được của sóng theta và beta.
  Nàng không muốn nghĩ David đã làm những gì trước khi bị tai biến, nhưng lại không thể bắt mình ngừng suy nghĩ. Trong không gian âm u thời trung cổ của nhà thờ Mộ Chúa, anh đã đi tìm dấu tích của cuộc đời Jesus trên trái đất. Hay nghĩ về cái chết của anh. Anh đã khinh thường những địa điểm truyền thống mà khách hành hương thường sùng kính - phiến đá xức dầu, bản thân ngôi mộ, nhưng đến chỗ đánh dấu nơi Jesus chết trên thánh giá, anh đã quỳ sụp xuống mà kêu lên, “Chính là chỗ này đây.” Đúng lúc đó bắt đầu tai biến.
  Sự cố này chắc hẳn đã bắt đầu từ trước đó. Khi David ngắm bức tranh tường mô tả cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá, anh siết chặt hai nắm tay lại, như thể bàn tay bị đau. Điều gì diễn ra trong tâm trí anh lúc đó? Anh thật sự tin mình là Chúa Jesus ư? Anh hoàn toàn tin tưởng điều đó đến nỗi cảm thấy các vết thương của Jesus? Nàng từng nghe nói có những trường hợp tâm trí sinh ra dấu Chúa, nhưng nàng chưa bao giờ thực sự tin. Phải chăng lần này nàng đang chứng kiến một chuyện tương tự?
  Nàng nắm chặt bàn tay mềm rũ của David. Mặc xác các điện não đồ, nàng ngờ rằng anh sẽ mở mắt. Thế nhưng mắt anh vẫn nhắm. Nàng thầm cảm ơn thượng đế vì bác sĩ cấp cứu đã chỉ định chụp CT thay vì MRI. Làm thế nào nàng có thể khuyên ông ấy đừng áp dụng phương pháp xét nghiệm hình ảnh mà ông tin là vô hại với bệnh nhân? Làm thế nào nàng có thể bảo vệ cho David khỏi mọi thứ ở đây? Nàng không biết kẻ thù của mình như thế nào. Người duy nhất nàng nghĩ có thể trả lời về tình trạng hôn mê lạ lùng của David là Ravi Nara. Nhưng theo David, Nara chính là một trong số kẻ đang tìm cách giết họ.
  “Tỉnh dậy đi, David,” nàng dịu dàng nói bên tai anh. “Lạy Chúa, hãy tỉnh dậy đi.”

  “Cái gì?” Rachel hỏi dồn. “Cái gì thế?”
  “Có gì đó trong anh rung lên.”
  “Trước đây anh đã từng bị thế. Đó là dấu hiệu ảo giác gây buồn ngủ.”
  “Không... lần này khác hơn.”
  “Ông Ibrahim?” Rachel hỏi.
  “Vâng, thưa bà?”
  “Chúng tôi quay trở lại xe đây.”
  “Vâng,” ông ta nói như vừa được giải thoát.
  Tôi bước ra xa hai người. Bên phải tôi là một bức tranh tường vẽ chúa Jesus nằm trên thánh giá được đặt ngay trên mặt đất. Mấy người đang đứng trước bức tranh tường tản ra, để lộ ra một căn buồng nhỏ có những tấm bảng được đóng bằng đinh bạc. Khi tôi bước lại gần bức tranh tường, một cơn đau lan tỏa từ bàn tay trái lên đến cánh tay. Trong thoáng chốc tôi nghĩ mình sắp lên cơn đau tim. Rồi cơn đau xuất hiện cả bên cánh tay phải. Tôi co cả hai bàn tay thành nắm đấm, nhưng cũng không khá gì hơn. Tôi quay sang Ibrahim.
  “Đây là đâu?”
  “Đây là trạm thứ mười một, thưa ngài. Nơi chúa Jesus bị đóng đinh lên thánh giá.”
  Tôi rên rỉ.
  “Chúng ta phải đưa anh ấy ra khỏi đây ngay,” Rachel nói. “Ông có gọi được người giúp đỡ không?”
  “Ông ấy còn đi được,” Ibrahim nói. “Chúng ta đi thôi.”
  “Tôi không nghĩ anh ấy đi được đâu.”
  Nhiều người trong phòng nhìn tôi chòng chọc như nhìn một kẻ điên.
  “Tôi có thể gọi lính gác,” Ibrahim nói. “Nhưng tốt nhất ta không nên làm thế.”
  “Không,” Rachel nói nhanh. “Ý tôi là phải đấy. Không cần gọi đâu.”
  Một nhóm người hành hương rời khỏi bức tượng chúa Jesus, để lộ ra một bàn thờ trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tôi bước đến, dán mắt vào hình Đức Mẹ dát bạc đứng dưới chân Thánh giá. Bàn thờ trước mặt bà hình như được đặt trên một hòm thủy tinh lớn, bên dưới là hòn đá xám xù xì.
  “Gì vậy?”
  “Golgotha,” Ibrahim trả lời. “Nơi hành hình. Đó chính là mỏm núi nơi đá nứt ra khi máu Jesus chảy từ thánh giá xuống. Rồi sau đó là động đất.”
  Một luồng ánh sáng trắng mờ xóa nhòa quanh cảnh trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy ngọn núi hiện diện tại nơi nay là nhà thờ, một đồi đá trơ trụi bên quả núi rải rác những nấm mồ. Ba cây thánh giá cắm trên đồi nhưng không có ai bị treo trên đó. Bầu trời tối dần rồi trở nên đen kịt, và tôi quỳ phục xuống.
  Tôi thấy mình đang trừng trừng nhìn một đĩa bạc sáng lóa có lỗ ở giữa. Chiếc đĩa nằm trên bệ đá cẩm thạch của bàn thờ, cách sàn nhà chừng ba mươi phân. Tôi giơ bàn tay phải run rẩy ra đặt lên chiếc đĩa.
  Cơn đau trong tay tôi đột nhiên dịu đi.
  “Đây đúng là nơi tôi cần tìm,” tôi nói. “Đây là nơi chúa Jesus giã từ cõi đời.”
  “Ông ấy nói đúng,” Ibrahim nói. “Chiếc đĩa ấy đánh dấu vị trí cây thánh giá chôn xuống đất. Bên phải và bên trái là những chiếc đĩa đen nơi chôn thập giá của lũ trộm, một là người tốt, một là kẻ xấu. Sau đó, Jesus được đưa vào nhà mồ của Joseph xứ Aramathea, và sống dậy từ cõi chết sau đó ba ngày.”
  “Không,” tôi nói.
  Mặt Ibrahim trắng bệch. “Thưa ngài, xin đừng nói những điều như thế ở đây.”
  “Nói khẽ thôi,” Rachel cầu khẩn.
  “Chiếc lỗ trên đĩa dùng để làm gì?” tôi vừa hỏi vừa xoa bàn tay trên đĩa bạc mát lạnh.
  “Ngài có thể thò ngón tay qua lỗ và chạm tới Golgotha. Mỏm đá Calvary.”
  Tôi nhắm mắt và thò hai ngón tay qua lỗ. Các đầu ngón tay cào vào mặt đá nhám.
  “Trước đây anh đã từng mơ thấy nó phải không?” Rachel hỏi.
  Tôi không thể nói nên lời. Có gì đó chảy tràn vào tôi từ tảng đá sống động kia. Giọng Rachel nhạt dần rồi không nghe thấy nữa. Tôi cảm thấy xương cốt tôi đang nhảy múa, đang rung lên đồng cảm với cái gì đó trên trái đất. Đầu tiên là một cảm giác như niềm vui, nhưng khi đến độ mãnh liệt, tôi bắt đầu run rẩy và co giật.
  Đây là một cơn tai biến ngập máu, một giọng nói thân quen vang lên trong đầu tôi. Giọng nói y học của tôi. Co cứng, co giật toàn thân... Qua màn sương mờ của ý thức đang lịm dần, tôi nghe thấy tiếng người la h&e CHƯƠNG 36 CHƯƠNG 37 CHƯƠNG 38 CHƯƠNG 39 CHƯƠNG 40 CHƯƠNG 41 CHƯƠNG 42 CHƯƠNG 43 CHƯƠNG 44 CHƯƠNG 45 Phần kết Lời cảm ơn