THIÊN XXXIII
NGOẠI TRỪ THUYẾT TẢ HẠ (Trích)
(NHỮNG THUẬT ĐỂ DÀNH MÀ DÙNG – THIÊN NGOẠI, TẢ, HẠ)

Kinh 1. Có tội mà bị trừng phạt thì không oán bề trên như người giữ cửa cụt chân cứu Tử Cao: có công mà được thưởng thì không cho đó là một ân huệ (...) như Chiêu Mão coi năm cỗ xe không hơn xà cạp và dép cỏ.
Truyện I – a/ Khổng tử làm tướng quốc nước Vệ[1], học trò là Tử Cao làm chức coi ngục, chặt chân một người phạm tội, người này sau làm chân giữ cửa. Có người ghét Khổng tử, nói với vua nước Vệ: “Trọng Ni muốn làm loạn”. Vua nước Vệ bắt Khổng tử, Khổng tử chạy kịp, các môn sinh đều trốn thoát, (chỉ có) Tử Cao không ra được vì cửa (thành) đã đóng[2], người cụt chân dẫn ông ta núp trong cái phòng ở chân cửa, viên lại tìm ông không được. Nửa đêm, Tử Cao hỏi người cụt chân: “Tôi không thể không thi hành pháp lệnh của vua, nên đích thân chặt chân của ông. Nay là lúc ông báo thù, mà sao ông lại giúp tôi trốn (ở đây)? Sao tôi lại được ông cứu như vậy?” Người cụt chân đáp: “Tôi bị chặt chân, vì tội tôi đáng vậy, làm sao khác được? Nhưng khi ngài định tội tôi, ngài xét mọi khía cạnh của pháp lệnh, tìm cách giúp tôi[3], muốn cho tôi khỏi tội, tôi biết vậy. Đến khi án đã quyết, tội đã định, ngài luôn buồn bã không vui, hiện rõ trên mặt, tôi thấy và biết vậy. Không phải ngài riệng thương tôi, bẩm tính ngài nhân từ như vậy. Tôi vui và mang ơn ngài là vì thế” (...).
c/ Tần và Hàn đánh Ngụy, Chiêu Mão (bề tôi nước Ngụy) qua phía Tây (Tần ở phía Tây) du thuyết mà Tần và Hàn bãi binh. Tề và Kinh đánh Ngụy, Mão qua phía Đông (Tề ở phía đông) du thuyết mà Tề và Kinh bãi binh. Ngụy Tương vương thưởng ông lộc năm cỗ xe[4], Mão nói: “Bá Di được chôn cất theo cấp tướng quân ở chân núi Thú Dương, và thiên hạ đều bảo: “Hiền (có khí tiết) và có tiếng nhân nghĩa như Bá Di mà chôn cất theo cấp tướng quân thì (cũng như) chôn còn hở tay chân[5]. Ngay thần bãi binh được bốn nước mà nhà vua cho thần lộc năm cỗ xe thì khác chi cho thần xà cạp và dép cỏ[6]".
°
Kinh 2: nên cậy vào thế lực mà không nên cậy vào tín nhiệm[7], cho nên Đông Quách Nha chống lại việc Quản Trọng làm tướng quốc; nên cậy vào thuật mà không nên cậy vào tín nhiệm, cho nên Hồn Hiên chỉ trích Văn Công. Bậc vua chúa có thuật trị nước thì thưởng một cách xác đáng để bề tôi phát triển hết tài năng, trừng phạt một cách cương quyết để ngăn cản gian tà, như vậy bề tôi dù có hành động lộn xộn, mình cũng lợi dụng được (...)
 Truyện 2 a/ Tề Hoàn công sắp lập Quản Trọng làm trọng phụ[8], ra lệnh cho quần thần: "Quả nhân sắp lập Quản Trọng làm Trọng Phụ, ai tán thành thì vào cửa rồi đứng qua bên trái, ai không tán thành thì vào cửa rồi đứng qua bên phải”, Đông Quách Nha đứng ở giữa. Hoàn công hỏi: “Quả nhân lập Quản Trọng làm trọng phụ, ra lệnh ai tán thành thì đứng bên trái, không tán thành thì đứng bên phải, sao ông lại đứng ở giữa cửa?” Nha đáp: “Thông minh như Quản Trọng có thể mưu tính lấy thiên hạ được không?” Công đáp: “Được”.
- “Quyết đoán như Quản Trọng có dám làm đại sự không?” Công đáp: “Dám”. Nha nói: “Thông minh có thể lấy thiên hạ, quyết đoán dám làm đại sự, mà nhà vua giao quyền bính cho ông ta thì ông ta tất dựa vào thế lực của nhà vua để trị nước Tề, có thể không nguy được không”. Công khen phải, rồi cho Thấp Bằng coi về nội chính, Quản Trọng coi về ngoại giao, hai người dòm ngó nhau[9].
b/ Tấn Văn công lưu vong ra nước ngoài. Cơ Trịnh bưng bình thức ăn theo hầu, lạc đường, mất dấu Văn công, khóc trên đường, nhịn đói rồi ngủ, chứ không dám ăn. Khi Văn công về nước, đem quân đánh đất Nguyên, chiếm được. Ông bảo: “Người chịu nhịn đói để giữ thức ăn trong bình cho ta, chắc không vì đất Nguyên mà phản ta”, rồi phong cho Cơ Trịnh làm huyện lệnh đất Nguyên. Quan đại phu Hồn Hiền nghe vậy, chê rằng: “Vì cái lẽ không đụng vào thức ăn trong bình mà tin rằng sẽ không vì đất Nguyên mà phản mình, chẳng phải là không có thuật trị nước ư? Bậc minh chủ không cậy vào cái lẽ bề tôi không phản mình mà ỷ vào cái lẽ họ không phản được mình, không ỷ vào cái lẽ họ không gạt mình mà ỷ vào cái lẽ họ không gạt được mình”.
c/ Dương Hổ bàn rằng: “Chúa mà hiền minh thì mình hết lòng phụng sự, nếu bất tài thi mình làm điều gian để thử chúa”. Ông ta bị đuổi ở nước Lỗ, bị nghi ở nước Tề[10], phải trốn qua Triệu, được Triệu Giản Chủ tiếp, phong làm tướng quốc; kẻ tả hữu hỏi: “Hổ giỏi cướp chính quyền, sao nhà vua lại dùng làm tướng quốc?”. Giản Chủ đáp: “Dương Hổ lo cướp chính quyền, ta lo giữ”, và ông dùng thuật để khống chế Hổ, Hổ không dám làm bậy, trung thành phụng sự, làm cho Giản chủ mạnh hơn lên, gần thành một bá chủ chư hầu.
°
Kinh 3: Văn Vương bỏ cái lễ vua tôi mà buộc lấy dây vớ, có lỗi mà còn khoe; Quí Tôn không phân biệt lúc ở triều, lúc về nhà, lúc nào cũng trang trọng, rốt cuộc bị hại.
Truyện 3. a/(Chu) Văn vương đem quân đánh nước Sùng, đến gò Phượng Hoàng thì dây vớ tuột, ông tự buộc lại. Thái Công Vọng hỏi: “Sao nhà vua lại tự buộc lấy?” Văn Vương đáp: “Những người mà vua dùng, bậc trên đều là thầy của vua, bậc giữa đều là bạn, bậc dưới đều là người sai khiến[11]. Ở đây đều là bề tôi của tiên vương, nên không có ai để sai khiến”.
Một thuyết khác bảo:
Tấn Văn Công giao chiến với Sở, tới gò Phượng Hoàng, dây dép tuột ra, ông tự buộc lại. Kẻ tả hữu hỏi “Nhà vua không sai người buộc lại cho được ư?”. Ông đáp “Ta nghe nói vua bậc trên ở gần ai thì đều nể họ; vua bậc trung ở gần ai thì đều yêu họ; vua bậc dưới ở gần ai thì đều khinh họ. Quả nhân tuy bất tiếu nhưng người của tiên vương còn đó, cho nên khó sai ai được”.
b/ Quí Tôn thích nuôi kẻ sĩ, suốt đời trang trọng, cách cư xử và ăn mặc ở nhà lúc nào cũng như ở triều đình. Nhưng có lần ông làm biếng nên sơ thất, không trang trọng được hoài. Các khách (kẻ sĩ ông nuôi) cho rằng ông đã chán và khinh họ nên oán ông, giết ông. Vì vậy bậc quân tử nên bỏ cái gì thái quá.[12]
°
Kinh 4: Khiến cho phạm điều mình cấm được lợi, hễ làm lợi cho mình lại bị cấm, như vậy vua dù là thần thánh cũng không trị nước được. Khen kẻ có tội, chê kẻ đáng thưởng thì dù là vua Nghiêu cũng không trị nước được. Làm cửa mà không cho người ta vào, bày cái lợi ra mà không cho người ta tiến lại (để hưởng), mối loạn sinh ra từ đó (...)
Truyện 4 b/ Tây Môn Báo làm quan lệnh đất Nghiệp, nghiêm khắc liêm khiết, không mảy may tư lợi, coi thường kẻ tả hữu của vua nên bọn họ kết bè nhau để hủy báng ông. Được một năm ông dâng báo cáo lên, nhà vua thu ấn của ông lại. Ông dâng biểu xin vua: “Trước thần không biết cách cai trị đất Nghiệp, nay thần biết rồi, xin được giao ấn lại để cai trị đất Nghiệp lần nữa, không được xin việc thì xin chịu tội chém." (Vua là) Văn Hầu thương tình cho phục chức. Từ đó Báo đánh thuế nặng bách tính, hối lộ kẻ tả hữu của vua. Được một năm ông dâng báo cáo lên. Văn Hầu nghinh tiếp và bái tạ ông, ông thưa: “Năm trước thần vì nhà vua mà trị đất Nghiệp thì nhà vua thu ấn của thần; năm nay thần vì các tả hữu của nhà vua mà trị đất Nghiệp thì vua bái tạ thần. Thần không thể trị đất Nghiệp được nữa”. Rồi trả ấn mà đi. Văn Hầu không nhận, bảo: “Trước kia quả nhân không biết ông, nay biết rồi, xin ông vì quả nhân mà rán trị đất Nghiệp cho”. Và trả lại ấn.
d/ Tử Xước nói không có thể đồng thời tay trái vẽ hình vuông và tay phải vẽ hình tròn được.
đ/ Dùng thịt đuổi kiến thì kiến càng đông, dùng cá đuổi ruồi thì ruồi càng bu lại.[13]
°
Kinh 5: bề tôi nào quá tự ti và tiết kiệm thì tước lộc không đủ để khuyến khích; ân sủng và vinh quang mà ban phát không tiết độ thì bề tôi áp bức vua chúa (...)
Bè đảng phụ họa cho nhau, bề tôi thỏa mãn được tư dục thì vua bị cô lập; quần thần lấy công tâm mà đề cử người, kẻ dưới không phụ họa nhau (làm điều gian) thì là vua sáng suốt (...)
 Truyện 5. a/ Vu Hiến Bá làm tướng quốc nước Tấn[14] mà rau lê rau hoắc mọc đầy dưới sân, gai góc sum suê ngoài cửa, bữa ăn không hai món, chỗ ngồi không có hai lớp chiếu, vợ không mặc đồ lụa, ở nhà không cho ngựa ăn lúa, ra ngoài không có xe theo hầu. Thúc Hưởng hay điều đó, lại nói với Miêu Bôn Hoàng, Bôn Hoàng chê : “Như vậy là lấy tước lộc của vua làm vui lòng kẻ dưới”.
(Còn một thuyết khác, đại ý cũng vậy chúng tôi bỏ).
b/ Quản Trọng làm tướng quốc nước Tề, tâu với vua:
“Thần sang nhưng nghèo”. Hoàn Công bảo: “Cho ông có nhà tam qui”[15]. (Có nhà tam qui rồi) Quản Trọng lại tâu: “Thần đã giàu rồi, nhưng địa vị thần còn thấp”. Hoàn Công đặt ông ta lên trên họ Cao, và họ Quốc (hai quí tộc lớn nhất của nước Tề). Ông ta lại xin: “Địa vị của thần cao rồi, nhưng thần còn sơ với nhà vua (không được ở trong công tộc)”. Hoàn Công bèn lập ông làm trọng phụ (như hàng cha chú của vua) Khổng tử nghe chuyện đó, chê Quản Trọng là “xa xỉ quá đáng, bức hiếp vua”.[16]
Còn 1 thuyết khác: “Quản Trọng ra ngoài thì dùng xe bọc màu đỏ với người hầu mặc áo xanh, về nhà thì cho đánh trống, trước sân bày vạc, trong nhà có đài tam qui. Khổng Tử nói: “Ông ta là một quan đại phu giỏi, nhưng quá đáng, và bức cấp trên”.
(Đoạn dưới chép về Tôn Thúc Ngao, tướng quốc Sở, chúng tôi bỏ).
d/ Đất Trung Mâu không có quan lệnh, Tấn Bình Công hỏi Triệu Võ:
- Trung Mâu là tay chân của Tấn, vai lưng của Hàm Đan, quả nhân muốn có một quan lệnh tốt ở đó, dùng ai được bây giờ?
Võ thưa:
- Có thể dùng Hình Bá Tử.
Công hỏi:
- Người đó không phải là kẻ thù của ông ư?
- Thù riêng không vào cửa công (nghĩa là việc công việc nước thì không kể đến thù riêng).
Công lại hỏi:
- Còn chức lệnh ở Trung phủ thì dùng ai?
- Dùng con của thần được.
Cho nên bảo: “Triệu Võ tiến cử người ở ngoài họ mình thì không chừa kẻ thù, tiến cử người trong thân thuộc của mình[17] thì không chừa con”. Ông tiến cử 46 người, đến khi ông mất, họ đều đến điếu với tư cách là khách (chứ không thân mật như người nhà). Đức vô tư của ông như vậy đó (...)
e/ Giải Hồ tiến cử kẻ thù của mình làm tướng quốc cho Giản chủ. Người thù đó cho rằng mình may mắn được tha thứ rồi nên lại bái tạ. Hồ giương cung muốn bắn ông ta, bảo: “Tiến cử người là việc công, vì cho rằng ngươi lãnh được nhiệm vụ; còn thù ngươi thì là cái oán riêng, ta không vì oán riêng mà chặn đường của ngươi, không tiến cử ngươi lên với vua”. Vì vậy có ân oán riêng thì không vào cửa công[18].
°
Kinh 6. Vua[19] hèn kém thì kị lời nói thẳng, ân nghĩa riêng tư mà chiếm phần ưu thắng thì công nghiệp của vua sẽ ít.
Truyện 6. – (Bốn truyện trong phần này không thực là những dẫn chứng mà chỉ hơi có liên quan tới phần kinh). Truyện đầu là lời Võ tử khuyên con đừng nói thẳng mà nguy đến thân; truyện thứ 2 thì là lời Tử Quốc khuyên con là Tử Sản (tướng quốc nước Trịnh) đừng nên trung với vua vì bị quần thần ghét mà nguy đến thân; truyện thứ 3; Lương Xa có công tâm quá tới mức chặt chân chị khi chị phạm tội nhỏ, vua đã chẳng khen mà còn chê là bất từ, cách chức huyện lệnh của ông ta; truyện cuối cùng, Quản Trọng bị bắt, từ nước Lỗ giải về Tề, dọc đường đói khát, được một người giữ biên giới tặng thức ăn. Người này hỏi sau này được trọng dụng thì Quản Trọng sẽ đền ơn anh ta ra sao. Quản Trọng không nghĩ đến ơn riêng đó, đáp sẽ dùng người hiền để giúp nước, và bị anh ta oán.

[1] Khổng tử không làm tướng quốc nước Vệ. Thời đó Khổng Khôi làm loạn: ngẫu nhiên cùng họ với Khổng tử, nên người ta lầm là Khổng Tử.
[2] Nguyên văn: Tử Cao hậu môn. Có sách dịch là Tử Cao đi ra ngõ sau, có sách dịch là: ra cửa sau cùng. Chúng tôi theo Trần Khải Thiên.
[3] Nguyên văn: tiên hậu thần di ngôn. Trần Khải Thiên giảng: tiên hậu là tả hữu, nghĩa là giúp.
[4] Thời dó thiên tử có vạn cỗ xe, vua chư hầu có 1000 cỗ, quan đại phu có 100 cỗ. Mỗi cỗ xe tương đương cho lộc của 6 dặm vuông đất.
[5] Bá Di con vua Cô Trúc có đạo đức, không ham ngôi vua, lại chê Chu Võ vương giết Vua Trụ trong lúc còn tang cha, nến không phục tòng Võ Vương, bỏ vào núi Thú Dương, chết đói ở đó.
[6] Ý nói: thưởng không hậu. Mấy hàng cuối này nguyên văn khó hiểu, mỗi sách giảng một khác. Chúng tôi theo bản của Trần Khải Thiên.
[7] Tức không nên quá tin bề tôi.
[8] Trọng phụ là tiếng tôn xưng (coi Quản Trọng như hàng cha chú mình) chứ không phải là chức tước.
[9] Truyện này e không có thực. Theo sử thì Quản Trọng nắm trọn quyền hành.
[10] Theo thiên XXXIX Nạn Tứ 2 thì Dương Hổ bị Tề Cảnh Công bỏ tù. Luận ngữ chép là Dưỡng (Dương?) Hóa (Hóa là tên tự).
[11] Câu này nguyên văn có bản chép khác và nghĩa cũng khác:.... vua vào bậc trên (hiền đức nhất) coi các bề tôi đều là thầy cả, bậc giữa thì coi bề tôi đều là bạn, bậc thấp nhất coi bề tôi đều là người để sai khiến.
[12] Năm truyện sau từ c/ đến g/, không được nói tới trong phần Kinh mà cũng chẳng liên quan gì đến Kinh.
[13] Ba truyện sau không liên quan đến phần Kinh, riêng truyện cuối h/ không được nói tới trong phần Kinh.
[14] Có sách chép là Mạnh Hiến Bá và nước Lỗ, sai.
[15] Về danh từ “tam qui” này có tới 5 – 6 thuyết: 1 – một lần cưới 3 vợ, 2 – phép đánh thuế, 3 – dựng đài tam qui; ngụ ý rằng 3 hạng người qui phục mình: dân qui phục, chư hầu qui phục, các rợ qui phục, chỉ bậc thiên tử mới đáng dựng đài đó, 4 – thuế chợ nộp vào kho nhà nước, 5 – chỗ chứa tiền của. Trần Khải Thiên nghiên cứu kỹ và cho rằng thuyết sau đây của Dực(?) có lý hơn; tam qui là tam bách thặng (300 cỗ xe). Quan Đại Phu có 100 cỗ xe, lộc mỗi cỗ xe bằng thuế một xã 30 nóc nhà, 6 dặm vuông. Quản Trọng được lộc tam qui, tức lộc ba trăm cỗ xe, bằng ba lộc đại phu, cho nên mới gọi là giàu.
[16] Trong Luận ngữ - Bất dật -22, Khổng Tử chê Quản Trọng là khí tượng nhỏ nhen, không tiết kiệm, không biết lễ.
[17] Nguyên văn: ngoại cử và nội cử, có sách giảng là cử người bên ngoài, bên trong.
[18] Truyện g/ không được nói tới trong phần kinh.
[19] Nguyên văn: công thất.