CHƯƠNG 34

    
ắt tôi mở như mắt trẻ sơ sinh, choáng ngợp vì ánh sáng nguyên sơ của thế giới. Khi tôi chớp mắt vì ánh đèn trên đầu, cơ thể tôi réo gào vì cơn đói quặn thắt và hối thúc dồn dập phải giải phóng bọng đái. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Tôi đang ngồi trong một phòng điều trị y tế. Tôi đã từng làm việc trong hàng chục căn phòng như thế này.
  Nước. Tôi nghĩ. Tôi cần nước.
  Có tiếng phụ nữ ở đâu đó, “Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây.” Tiếng nghe thân quen. Tôi lắng nghe thêm, nhưng không thấy nói gì nữa.
  Cửa phòng mở. Rachel bước vào và đứng chết lặng. Nàng vụt đưa tay lên bưng miệng, và bắt đầu tiến về phía tôi.
  “David, anh có nghe em nói không?”
  Tôi giơ tay lên, và nàng ngừng bặt.
  “Anh đã bị hôn mê. Anh bất tỉnh mất...” nàng nhìn đồng hồ đeo tay, “...mười lăm giờ. Hầu hết thời gian là hôn mê alpha. Em đã tưởng anh bị chết não.” Nàng chỉ vào mặt tôi. “Sao anh lại khóc?”
  Tôi quệt tay lên mặt. Tay tôi đẫm nước. “Anh không biết.”
  “Anh có nhớ gì không? Lúc ngất trong nhà thờ ấy?”
  Tôi nhớ mình đã quỳ xuống, thò ngón tay qua cái lỗ trên đĩa bạc. Một luồng năng lượng chạy qua cánh tay tôi lên thẳng não, nó mạnh ngoài sức chịu đựng. Tôi cảm thấy như trí óc mình là một chiếc găng tay nhỏ xíu mà một bàn tay khổng lồ nào đấy đang cố xỏ vào, toàn thân tôi rung lên. Rồi...
  “Anh nhớ anh bị ngã.”
  “Anh có nhớ những gì sau đó không?”
  Tôi thấy mình ngã xuống sàn nhà, nhưng trước khi chạm tới sàn, thì ranh giới cơ thể tôi bỗng tan biến, tôi cảm thấy mình đồng nhất với mọi thứ xung quanh: mặt đất và nền đá nhà thờ, lũ chim làm tổ trên vách đá, những bông hoa trong sân nhà thờ phát tán phấn hoa theo gió. Tôi không ngã, mà bồng bềnh trôi, tôi thấy một thực tại sâu hơn nằm bên dưới thế giới vật thể, một ma trận xao động mà tất cả các đường ranh đều mơ hồ, trong đó các hạt phấn hoa không phân biệt với làn gió, trong đó vật chất và năng lượng chuyển động trong một vũ điệu vĩnh hằng, sự sống và cái chết chẳng qua chỉ là sự thay đổi trạng thái của cả hai. Nhưng ngay khi tôi còn bay lơ lửng, trôi bềnh bồng trong thế giới như một con sứa có nhận thức, tôi cảm thấy bên dưới cái ma trận xao động của vật chất và năng lượng ấy có gì đó còn sâu hơn nữa, như một lớp nền lùng bùng, cũng phù du và vĩnh cửu như các định luật toán học, không nhìn thấy được nhưng cũng không thay đổi được, nó điều hành tất cả mà không phải dụng công gì.
  Tiếng lùng bùng ấy thật sâu xa, giống như những tuốc bin quay ở giữa đập. Khi lắng nghe, tôi nhận ra một mô thức có tính chất số hơn là giai điệu, như một điệu nhạc chưa được khám phá mà các nốt và gam của nó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tôi điều chỉnh đầu óc mình thích ứng với âm thanh, tìm kiếm các đoạn lặp, chìa khóa khóa giải mã khó nắm bắt. Thế mà cho dù đã lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, tôi cũng không hiểu được ý nghĩa nằm trong âm thanh này. Chẳng khác nào nghe tiếng mưa bão mà cố định hình từng giọt mưa khi nó chạm đất. Lòng tôi mong mỏi hiểu được cái mệnh lệnh tàng ẩn kia, bản tổng phổ vĩ đại của mưa rơi.
  Và tôi vụt hiểu. Hình mẫu mà tôi tìm kiếm chẳng phải là một hình mẫu nào hết. Nó chỉ là sự hỗn loạn. Một sự hỗn loạn như mớ bòng bong tràn lấp cái tưởng như là trật tự thế giới. Và chính trong khoảnh khắc ấy tôi bắt đầu nhìn rõ hơn bao giờ hết, nghe thấy cái mà ít người từng nghe - giọng nói của...
  “David, anh có nghe thấy em nói không?”
  Tôi chớp mắt và cố buộc mình tập trung vào các vật xung quanh. Các tủ thuốc. Một máy điện não đồ có bánh xe. Đôi mắt mệt mỏi của Rachel.
  “Anh có nghe.”
  Nàng bước tới trước, vặn vẹo hai bàn tay. “Em đã gọi điện cho Washington. Em nói cho họ biết chỗ ở của chúng ta. Em không biết còn phải làm gì nữa.”
  “Anh biết.”
  “Anh có nghe n tôi với vẻ kinh hoàng. Tôi gần như đọc được ý nghĩ của nàng. Liệu tôi còn có thể muốn gì ở Mossad, cục tình báo tàn bạo ở Israel này?
  “Ông có tiền không?” tài xế hỏi.
  “Một trăm đô la Mỹ được chưa?”
  “Trăm nghe không bằng một thấy.”
  Rachel rút tiền ra.
  Tài xế gật đầu. “Vào đi.”
  Tôi thậm chí chưa đóng xong cửa sau, anh ta đã rú ga và phóng ầm ầm khỏi lề đường.
  White Sands
  Geli biết ả đang nhìn ông già đi dần vào cõi chết. Ả cần thuốc lá kinh khủng. Mặc dù mùi thuốc sát trùng nồng nặc trong không khí, gian phòng vẫn tỏa mùi xác chết. Ả không xác định được cụ thể, nhưng ả biết cái mùi này quá rõ. Ả đã ngửi thấy nó trong các bệnh viện dã chiến và những nơi tối tăm khác. Có lẽ quá trình tiến hóa đã khiến khứu giác con người ta nhạy bén tới mức đánh hơi được cái chết đang đến gần. Trong một thế giới bệnh tật lây lan nhanh chóng, chắc chắn đó là lợi thế sinh tồn. Geli từng ngửi thấy chính mặt ả cháy khét, vì vậy ả không có ảo tưởng gì về cái chết. Nhưng ả không ngờ phải chứng kiến cuộc vật lộn cuối cùng của Godin như thế này.
  Đã có lúc lão không thể nuốt được, mặc dầu nói còn khá rõ. Lão buồn bã nói với ả về bà vợ quá cố của mình, như kiểu cha nói với con gái. Geli lúng túng không biết xử lý kiểu thân mật này thế nào. Từ sau sinh nhật lần thứ ba của ả, cha ả đã đối xử với ả như một người lính. Trong suy nghĩ của Horst Bauer thì nói chuyện tâm tình tức là ngồi xuống bên nhau và bàn về thời gian biểu hằng ngày. Ả chịu đựng việc đó cho đến tuổi dậy thì. Rồi một cuộc chiến tranh công khai bùng nổ trong nhà Bauer. Khi Geli bắt đầu bộc lộ xu hướng phiêu lưu tình dục giống cha thì ông tướng mất hết tự chủ. Geli biết rằng ở mức độ nguyên sơ nào đó, ông ta ham muốn ả, và điều đó khiến ả có quyền lực với ông ta. Ả diễu qua trước mắt ông trong trang phục hở hang, trơ tráo ve vãn sĩ quan của ông ta - những người đàn ông gấp đôi tuổi ả - và quyến rũ các bác sĩ tâm thần của ả. Những trận đòn sau đó chỉ khiến ả càng quyết tâm chiến đấu.
  Khi ả mười sáu tuổi, ả phát hiện cha ả có nhân tình - vài người, tất nhiên - và cuối cùng đã khám phá ra bí mật của mẹ ả. Mười tám năm trời sống trong cảnh bị phụ bạc và đánh đập tàn nhẫn đã biến một người đàn bà đằm thắm thành cái bóng thảm hại của chính mình, một tâm hồn lạc lối chỉ sống trong chờ đợi cho tới lần uống rượu sau. Khi Geli đối đầu với cha mình về chuyện ấy, ông ta nhìn thẳng vào mắt ả và bảo ả đã phát hiện ra điểm yếu của kẻ mạnh. Những người đàn ông tài giỏi cần nhiều hơn một người đàn bà để kìm bớt đam mê của mình, và ả muốn sống muốn tốt thì hãy chấp nhận sự thật đó. Như mọi lần khác, lý lẽ ấy cuối cùng kết thúc bằng một trận đòn.
  Tuy nhiên khi Geli vào đại học, ả thấy rằng những lời ấy của cha ả cũng đúng với cả phụ nữ mạnh mẽ nữa. Không người đàn ông nào có thể thỏa mãn tính dâm dục của ả lâu dài. Ngày ả tốt nghiệp với hai chuyên ngành - tiếng Ả Rập và Kinh tế - ả đến một địa điểm tuyển quân và đăng lính với cấp bậc binh nhì.
  Không gì có thể làm cha ả giận dữ hơn thế. Chỉ với một hành động ấy, Geli đã vứt bỏ toàn bộ quyền lực và ảnh hưởng của ông ta với ả, khiến ông ta bẽ mặt trước các đồng đội ở West Point, và nối nghiệp ông. Ông tướng bắt đầu uống rượu như điên và rơi vào thời kỳ bất ổn, tình trạng đó nhanh chóng bị đẩy lên đỉnh điểm khi vợ ông ta tự sát. Geli không bao giờ biết được cuối cùng cái gì đã quật ngã tinh thần mẹ ả. Thêm một nhân tình nữa? Hay quá nhiều quả đấm trời giáng? Nhưng ả không bao giờ tha thứ cho cha mình về chuyện đó.
  Trái lại, Peter Godin đã sống chung thủy với vợ suốt bốn bảy năm mặc dầu hai người không có con cái. Khi ông già đang nói lan man về những chuyến du ngoạn của lão tới Nhật, Geli nghĩ đến Skow và âm mưu đổ hết tội cho Godin về cái chết của Fielding.
  “Thưa ngài?” Geli cắt đứt dòng mơ mộng của ông già.
  Peter ngước nhìn lên, đôi mắt màu xanh như hối lỗi. “Tôi nói huyên thuyên quá phải không? Nói làm tôi quên đi cái đau.”
  “Không phải thế. Tôi muốn thưa với ngài một chuyện.”
  “Vậy sao?”
  “Xin ngài đừng tin John Skow. Chính gã là người đã đưa Nara đến đây để giết ngài. Skow tin rằng Trinity sắp thất bại, và gã định đổ hết trách nhiệm cho ngài.”
  Godin cười nhạt. “Tôi biết chuyện này. Và tôi biết cha cô có tham gia vào vụ này.”
  “Vậy sao ngài không hành động gì cả?”
  “Khi máy tính đạt đến trạng thái Trinity thì tất cả bọn chúng đều bất lực. Cho đến lúc đó, tôi đã có cô bảo vệ tôi.”
  “Nhưng nếu ngài không tin họ, sao ngài lại dùng họ?”
  “Bởi vì chúng là những kẻ dễ lường. Ngay cả khi chúng phản bội. Chúng phản bội là do lòng tham. Đó là thực tế của những con vật người.”
  “Còn tôi thì sao? Sao ngài lại tin cậy bảo vệ ngài. Vì ngài trả lương cao cho tôi ư?”
  “Không. Tôi đã quan sát cô trong hai năm nay. Tôi biết cô ghét cha cô, và tôi hiểu tại sao. Tôi biết cô đã làm những gì ở Iraq. Cô không ngại khó, và cô chưa bao giờ phản bội bộ quân phục của mình - không như cha cô. Tôi còn biết cô ngưỡng mộ tôi. Chúng ta, tôi và cô, là những con người cao thượng. Tôi không có con gái, và về mặt nào đó, cô không có cha. Tôi cũng mạo muội nghĩ nếu tướng Bauer đến đây giết tôi, cô sẽ chặn ông ta lại bằng một viên đạn.”
  Geli tự hỏi không biết điều đó có đúng không. “Nhưng tại sao ngài lại thuê cả hai cha con tôi?”
  “Khi Horst nói với tôi về cô, tôi nghĩ ông ta tìm cách hòa giải với cô. Nhưng hóa ra tôi lầm.”
  Ả vồ lấy khẩu súng. Cánh cửa sập của Bong bóng trượt mở với tiếng xì xì của không khí thoát ra. John Skow bước vào trong bộ complet thẳng thớm, tóc tai gọn gàng đến từng cọng. Trông gã chẳng hề giống một người đang lo lắng về tương lai.
  “Chào Geli,” gã nói.
  Từ bên kia phòng, Godin lướt ánh mắt xanh lên người tên NSA. “Khám hắn.”
  Geli đẩy gã úp mặt vào tường thủy tinh plexi và khám xét cẩn thận. Không có gì.
  “Ồ vui đấy,” Skow nói. “Bây giờ đến lượt tôi khám cô nhé?”
  Ả tự hỏi không biết tên này định giở trò gì đây. Gã không dám đến đây nếu không nắm đằng chuôi.
  “Chào Peter,” gã nói. “Chúng tôi đã nắm được một số tình hình mới. Tennant đã ra công luận.”
  Cơ mặt Godin co thắt lại trong một thoáng khó nhận thấy, nhưng khi cơn đau đã giảm, gò má chảy nhão của lão lấy lại được thần sắc cũ. Lão nhìn chằm chằm Skow bằng ánh mắt tóe lửa.
  “Tennant đã làm những gì?”
  “Hắn đã trốn khỏi bệnh viện Hadassah, đến một máy tính công cộng và gửi một bức thư đến những trung tâm điện toán hàng đầu thế giới. Hắn kể hết về Trinity. Cái chết của Fielding, cuộc mưu sát ông ta, tất tật.”
  Godin nhắm mắt. “Công nghệ đó?”
  “Hắn tiết lộ đủ để người ta tin hắn nói thật. Đủ để đẩy những nước như Nhật Bản trong vòng ba năm có được Trinity riêng của họ. Hắn nói với họ về cơ sở này. Tôi không biết làm sao hắn tìm ra White Sands. Có lẽ từ Fielding.”
  Godin thở dài sõng sượt. “Ta đã xử không đúng với Tennant. Lẽ ra phải nói chuyện với anh ta... đối xử thỏa đáng với anh ta.”
  Skow tiến đến gần giường. Geli đặt tay lên khẩu súng. Ả có thể tương ba viên đạn vào lưng gã trước khi gã đến sát giường Godin.
  “Chúng ta lâm vào tình thế khó khăn, Peter ạ. Tôi đề nghị thế này...”
  “Vứt mẹ cái đề nghị của anh đi,” Godin lầm bầm, chật vật ngồi nhỏm dậy trên giường. “Ngay từ đầu các người đã lừa tôi như một thằng khờ, nhưng các người sắp được biết mình đã sai như thế nào.”
  Godin cầm điện thoại đầu giường và nhấn một nút.
  “Ông gọi cho ai thế?” Skow hỏi, mặt vẫn câng câng.
  “Rồi anh sẽ thấy. A lô. Tôi là Peter Godin. Tôi cần nói chuyện với tổng thống. Đây là vấn đề an ninh quốc gia... Sao?... Mã số là bảy ba bốn chín bốn không hai. Vâng tôi sẽ đợi.”
  Skow tái mặt. “Godin...”
  “Câm mồm.” Godin liếc nhìn Geli, rồi nói bằng giọng mạnh mẽ. “Thưa ngài tổng thống, tôi là Peter Godin.”
  Geli chưa bao giờ nghe nói đến một thứ quyền uy như thế này. So với nó, quyền hành lừng lẫy của cha ả không là cái gì. Peter đã xưng danh với tổng tư lệnh với giọng như thể, Ngài tổng thống, tôi là Albert Einstein.
  Peter nghe một hồi, rồi bắt đầu giải thích chi tiết vì sao lão cho xây căn cứ ở White Sands. Lão nói, cách đây một năm lão thấy lo ngại về tình hình an ninh ở Bắc Carolina. Có kẻ nào đó trong nội bộ Trinity đang phá hoại mã máy tính và có khả năng đã bán bí mật cho một cường quốc nào đó. Không muốn mời một cơ quan “thiếu tin cậy” như FBI hay CIA vì sẽ làm chậm dự án và ảnh hưởng đến an ninh Trinity, Godin đã dùng tiền riêng và quan hệ của mình để lập nên một cơ sở nghiên cứu an toàn. Ban đầu lão tin tưởng giao cho Skow điều tra hiểm họa kia, nhưng bây giờ lão tin rằng chính Skow là một trong những kẻ gây rối ngay từ đầu.
  Tổng thống hỏi thêm vài câu, và Godin trả lời với vẻ tự tin tuyệt đối. Theo lão biết, thì Andrew Fielding chết vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng không thể loại trừ việc có kẻ chơi xấu. David Tennant trở nên mất thăng bằng sau cái chết của Fielding và bị rối loạn tâm thần có thể do máy MRI gây nên. Tennant đã được hỗ trợ hết sức để hồi phục sức khỏe. Trước khi có những câu hỏi mới, Godin tranh thủ thông báo với tổng thống rằng Trinity chỉ còn không đầy mười hai giờ nữa là hoàn tất, và tất cả mọi dữ liệu đều cho thấy máy tính không chỉ đáp ứng mà còn vượt quá mong đợi đối với loại ứng dụng trí tuệ và vũ khí này. Thông báo đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất cuộc đàm thoại.
  Fielding, Tennant và sự tồn tại của White Sands bị lu mờ đi khi Godin hứa hẹn một sức mạnh không-mơ-thấy-nổi với người đã đủ thông minh và can đảm tài trợ cho một dự án có tầm quan trọng chiến lược như thế này. Godin tỏ ra vô cùng thoải mái cho đến cuối cuộc nói chuyện, khi lão kết luận đanh gọn. “Vâng, thưa ngài, tất nhiên. Tôi hiểu. Tôi sẽ làm việc đó ngay bây giờ.”
  Lão đưa điện thoại cho Geli, mắt vẫn dán vào Skow. “Cô ngạc nhiên vì tôi có thể làm được điều đó à? Ngay từ thời LBJ(2) tôi đã có thể giao thiệp thân mật với các tổng thống rồi.”
  “Matthews nói gì lúc cuối vậy?” Skow thì thào.
  “Ông ấy yêu cầu để giảm bớt lo ngại trên công luận Mỹ, tạm thời tôi hãy cho dừng mọi hoạt động.”
  “Ông ấy lo ngại giới truyền thông.”
  “Evan McCaskell đang trên đường đến đây. Họ đang thành lập một nhóm giám sát khẩn cấp. Ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo.”
  “Ông định làm gì bây giờ?” Skow hỏi.
  Godin phẩy tay như đuổi một con ruồi, rồi nhìn tay NSA với vẻ căm ghét không che giấu. “Geli, nếu tên ký sinh trùng này làm gì mà không được phép của tôi thì giết hắn đi.”
  Mặt Skow không còn giọt máu.
  “Đây là việc anh sắp phải làm,” Godin nói. “Ra ngay đường băng. Tướng Bauer có thể đến bất cứ lúc nào.”
  Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Geli.
  “Chắc chắn anh đã đoán ra việc này,” Godin nói. “Horst chắc đã hoảng sợ lúc Tennant ra trước công luận. Có lẽ ông ta đã gọi Nhà Trắng năm phút sau đó và nói với họ rằng tôi đã lừa ông ta để lập nên căn cứ này. Động thái tiếp theo của ông ta sẽ là đến đây bảo vệ máy điện toán. Tổng thống thậm chí có thể đã ra lệnh cho ông ta làm thế.”
  “Ông muốn tôi nói gì với ông ta?” Skow hỏi.
  “Nói rằng mọi âm mưu can thiệp vào nguyên mẫu Trinity sẽ dẫn đến sự giáng trả ở một quy mô không tưởng tượng nổi.”
  Skow nheo mắt. “Ông đang nói về chuyện gì thế, Peter?”
  “Chỉ là nhắc cho viên tướng nhớ mấy việc mà ông ta phải nhớ kỹ lúc này.”
  “Đó là việc gì?”
  “Tôi không bao giờ lừa gạt.”
  Skow liếc nhìn Geli, rồi đến khẩu súng của ả.
  “Đi ra,” Godin rít lên.
  Skow quay lưng rời khỏi Bong bóng.
  “Sao ngài lại để cho gã đi?” Geli hỏi. “Ít nhất cũng để tôi khóa gã lại trong phòng.”
  “Bây giờ gã không thể làm gì được nữa.”
  “Một mình thì có lẽ. Nhưng gã có thể kết hợp với cha tôi?”
  Godin lắc đầu như thể thời gian cho những lo lắng tầm thường đã qua. “Gọi Levin ở nhà Cách ly cho tôi.”
  Geli bấm số rồi đưa ống nghe lên mặt ông già.
  “Levin đấy à?” Godin nói. “Nghe tôi nói đây. In nomini patri, et filii et spiritussancti(3).”
  Geli không nghe rõ phần cuối của câu nói.
  “Ông chắc không, Peter?” Levin hỏi. “Nguyên mẫu Fielding mới chỉ đạt được còn lại tám mươi mốt phần trăm.”
  “Nguyên mẫu của tôi sẽ phải giải nốt thuật toán cuối cùng,” Godin nói.
  Một hồi im lặng. “Đây là kết thúc à?”
  Đôi môi xám ngoét của Godin hầu như không mấp máy. “Chưa. Nhưng có lẽ chúng ta không nên nói chuyện theo cách này nữa. Cậu hãy chuẩn bị đón khách.”
  “Chúng tôi chuẩn bị rồi. Tôi đã nghe mấy người lính nói chuyện bên ngoài nhà Cách ly. Họ nói viên tướng đang trên đường về nước.”
  Geli thấy lạnh trong người.
  Godin ho vào ống nói. “Nhớ này... không có kết thúc nào đối với tôi lúc này. Kết thúc là bắt đầu.”
  “Đó là một đặc quyền, thưa ngài. Và tôi sẽ có mặt ở đó phục vụ ngài khi đạt đến trạng thái Trinity.”
  Godin nhắm mắt. “Tạm biệt, bạn của tôi.”
  Geli gác máy. Cha ả đã đến đâu rồi? Căn cứ Huachuca chỉ cách đây ngót năm trăm cây.
  Godin nắm cổ tay ả làm ả giật mình. “Cô có hiểu chuyện gì sắp xảy ra không Geli?”
  “Có thưa ngài. Levin sắp kết xuất nguyên mẫu thần kinh của Fielding khỏi máy điện toán và đưa mẫu của ngài vào. Khoảng một tiếng nữa, nguyên mẫu của ngài sẽ đạt đến trạng thái Trinity. Ngài sẽ trở thành máy tính Trinity. Hay ngược lại máy tính biến thành ngài.”
  Godin gật đầu yếu ớt. Những sự kiện trong mấy phút vừa qua đã rút kiệt sức lực của lão. Tiếng thở của lão trở nên nặng nhọc.
  “Điều đó có thể giúp gì cho ngài?” ả hỏi. “Ngay cả nếu Trinity hoạt động, tất cả những gì họ phải làm là dừng nó lại, đúng không? Hoặc cắt nguồn điện của nó?”
  “Ngay bây giờ có lẽ Skow đang mưu tính phải làm thế nào. Nhưng gã thất bại rồi.”
  “Cha tôi sẽ đem lính tráng và các thiết bị đến đây cùng với ông ấy.”
  Godin nhắm mắt. “Hãy để tôi lo chuyện đó. Nếu may mắn, cô có thể sẽ không cần phải bắn ai cả. Ít nhất là những người lính Mỹ.”
  Geli muốn gào lên. Ông già không biết một lực lượng như thế nào đang nhanh chóng được dàn trận chống lại mình. Nhà Cách ly trông có vẻ vững chắc đấy, nhưng Horst đã từng hạ ngọt những mục tiêu còn rắn hơn nhiều trong sự nghiệp của ông ta.
  “Tôi phải sống để nhìn thấy điều này,” Godin thì thầm. “Sẵn sàng nổ súng.”
  Geli ngồi phệt xuống nền nhà tựa lưng vào tường và hướng nòng khẩu Walther của ả ra cửa.
  Chú Thích:
  1. Viết tắt của: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire (Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu).
  2. Lindon Baine Johnson.
  3. Tiếng Latin, Nhân danh Cha và Con và Thánh thần.