Hoàng hậu Scheherajade được Dinarjade, em nàng, đánh thức đậy, kể cho vua Ấn Độ chồng nàng, câu chuyện ông đang muốn nghe. Nàng nói: - Thưa hoàng đế hùng mạnh, trong một thành phố của Ba Tư giáp biên giới vương quốc của bệ hạ có hai anh em tên là Cassim và Ali Baba. Bố để lại một ít của cải, họ chia đều cho nhau, có vẻ tài sản bằng nhau nhưng tình cờ thành ra khác hẳn. Cassim lấy một người vợ, ít lâu sau khi cưới bỗng được thừa kế một cửa hiệu đàng hoàng, một cửa hàng đầy hàng hoá tốt lại có cả nhà cửa đất đai, bỗng chốc cuộe sống của họ trở nên thoải mái, và là một trong những thương gia giàu có nhất thành phố. Ali Baba ngược lại, cưới một người vợ cũng nghèo như mình, chỗ ở đã lụp sụp, bác lại còn không có một nghề nghiệp nào để kiếm sống nuôi gia đình ngoài việc đi kiếm củi ở rừng bên đem ra thành phố bán. Chở trên ba con lừa là toàn bộ tài sản có được kiếm được trong ngày của bác. Một hôm Ali Baba vào rừng đang đốn củi mong đủ cho lừa chở thì bỗng thấy một đám bụi tung bay lên không và tiến thẳng về phía mình. Nhìn kỹ bác nhận ra một toán đông người cưỡi ngựa đang phi nhanh lại. Tuy không nghe nói về trộm cướp trong vùng, Ali Baba vẫn nghĩ có thể là toán cướp và không tính đến những con lừa sẽ ra sao, bác chạy trốn mong thoát thân. Bác trèo lên một cây to cành nhánh thấp quây tròn và sít nhau chỉ hở rất nhỏ, nấp vào giữa đám cành lá cây bảo đảm có thể nhìn xuống mà không ai thấy. Cây lại mọc từ chân một tảng đá lẻ loi bốn phía, cao hơn cây nhiều và dốc đứng tưởng như không ai leo lên cao được. Những kẻ cưỡi ngựa đều to lớn, khoẻ mạnh trang bị đầy đủ và có vũ khí tốt lại gần tảng đá xuống ngựa; Ali Baba đếm được bốn mươi, theo điệu bộ và trang bị, chắc chắn là những tên cướp: Thực tế đã không nhầm đây là bọn cướp không làm hại gì quanh vùng mà chỉ trộm cướp rất xa rồi hẹn gặp nhau ở chỗ này. Mỗi kỵ sĩ tháo yên ngưa, buộc ngựa, đeo vào cổ từng con vật một túi lúa mạch mang theo và cả bọn bỏ những xuống, phần lớn những chiếc hòm rất nặng đầy tiền và vàng bạc. Kẻ trông oai nhất Ali Baba cho là chỉ huy của cả bọn, cũng vác hòm như những tên kia, rẽ một đường đi trong đám cây bụi lại gần tảng đá sát ngay cây to bác đang ẩn nấp, nói rõ ràng một câu: ''Vừng ơi, mở cửa?'' Tên tướng cướp niệm thần chú xong, một cánh cửa mở ra, sau khi để đồng bọn vào trước hắn cũng vào theo và cánh cửa đóng lại. Bọn cướp ở lâu trong tảng đá; Ali Baba sợ một tên hoặc cả toán đi ra khi mình tụt xuống bỏ chạy nên đành ngồi trên cây kiên trì chờ đợi. Bác cũng nghĩ hay là xuống lấy hai con ngưa, cưỡi lên một và dắt một, vừa chạy về thành phố vừa đuổi ba con lừa đi trước nhưng lại ngại chưa chắc đã thoát nên ở lại chắc chắn hơn. Cuối cùng cửa mở, bốn mươi tên cướp đi ra; tên chỉ huy vào sau cùng đã ra trước, lúc thấy đồng bọn lần lượt qua hết trước mặt, Ali Baba nghe hắn đóng cửa bằng câu thần chú: “Vừng ơi, đóng lại?'' Mỗi tên xem lại ngựa của mình, tháo dây, buộc lại hòm và lên ngựa. Chỉ huy thấy tất cả đã sẵn sàng, thúc ngựa lên đầu cùng đồng bọn trở lại con đường đã tới. Lúc đầu Ali Baba chưa xuống đất, tự nhủ: “Có thể chúng quên gì đó phải trở lại sẽ bắt gặp mình''. Bác đưa mắt nhìn theo cho đến khi không trông thấy nữa và một lúc lâu mới xuống để bảo đảm thật an toàn. Nhớ những câu chỉ huy bọn cướp nói, bác tò mò muốn thử nói xem có tác dụng như thế không, đi qua đám cây bụi và thấy cánh cửa bị che lấp. Đứng trước cửa bác niệm: ''Vừng ơi, mở cửa!'' Cánh cửa mở rộng ra ngay. Ali Baba nghĩ sẽ vào một chỗ tối tăm nhưng ngạc nhiên thấy rất sáng sủa, rộng rãi, ánh sáng từ trên cao rọi xuống qua lỗ khoét. Bác thấy rất nhiều thực phẩm, những túi lớn hàng hoá đẹp xếp thành đống, vải lụa và gấm, những tấm thảm đắt giá, nhất là vàng và tiền bạc hàng đống trong những túi vải hoặc túi da lớn chồng lên nhau. Nhìn tất cả những cái đó hình như không phải nhiều năm mà trong nhiều thế kỷ hang này là chỗ cất giữ của cải của bọn cướp kế tiếp nhau. Ali Baba không đắn đo phải làm gì; đã vào hang và cánh cửa khép lại. Bác nhằm vào bạc và tiền vàng, đặc biệt trong các túi, bác lấy tiền vàng đủ cho ba con lừa chở: Bác gom lũ lừa, đưa chúng lại gần tảng đá, chất những túi vàng lên và phủ một số củi lên trên để người ta không nhận thấy. Khi xong bác lại gần cửa, chưa nói xong câu ''Vừng ơi, đóng lại” thì cửa đã đóng. Khi vào cửa tự động khép lại nhưng khi ra vẫn để mở. Sau đó Ali Baba trở về thành phố, về đến nhà bác cho lừa vào sân nhỏ phía sau và đóng cửa cẩn thận, bỏ củi xuống, mang những túi nặng vào nhà xếp trước mặt vợ đang ngồi trên ghế. Vợ bác, sờ vào các túi thấy đầy vàng, bạc, nghi ngờ chồng đi trộm cướp về nên khi bác mang vào hết, bác gái không ngăn được mình nói: ''Ali Baba, anh khốn khổ đến nỗi...'' Chồng bác ngắt lời: ''im đi em. Đừng làm ồn lên, anh không phải kẻ trộm, ít nhất khi lấy của bọn cướp. Em sẽ không quan niệm anh xấu như thế nếu nghe anh kể chuyện về số của cải này.'' Bác đổ các túi ra, cả một đống vàng lớn làm vợ loá mắt, sau đó kể lại sự việc từ đầu đến cuối và dặn vợ giữ kín. Người vợ bình tĩnh không khiếp sợ nữa, phấn khởi cùng chồng về hạnh phúc đến với họ và muốn đếm ngay số vàng trước mặt. ''Em này - Ali Baba bảo - em chẳng khôn ngoan chút nào, định làm gì thế? Anh đi đào hố chôn chúng vào đó, không mất thì giờ được đâu''. - Ít nhất chúng ta cũng nên biết đại khái có bao nhiêu. Em đi mượn chiếc cân bên hàng xóm trong lúc anh đào hố - người vợ nói.
Bà vợ thuyết phục lâu như vậy vì thấy có sự ngang bướng thể hiện trên nét mặt chồng. Thực vậy ông không nghe những lời khuyên đúng đắn, đứng dậy đi vào kho vớI đèn và một cái đĩa. Lúc đó bà vợ nói với ông: - Ít nhất ông cũng nhớ cho tôi không tham gia vào việc ông sắp làm; nếu phải hối hận thì ông đừng đổ lỗi cho tôi. Người lái buôn vẫn không nghe, cố làm theo ý mình. Vào nhà kho ông ta lấy chiếc hũ mở nút thấy ô-liu đã hỏng hết. Để xem phần dưới có nhũn thối như ở trên không, ông đổ ô-liu lên đĩa và trong lúc lắc mạnh chiếc hũ, có vài đồng vàng rơi xuống. Thấy thế, người lái buôn bản chất tham lam, chú ý nhìn vào hũ nhận thấy ô- liu ông ta đă đổ hết xuống đõa, phần còn lại toàn những đồng vàng rất đẹp. Ông bỏ lại vào hũ tất cả, nút chặt lại và về phòng. - Bà ơi - Ông nói với vợ lúc vào - ô-liu thối hết, tôi đã nút kỹ hũ để Ali Cogia có trở về, ông ấy sẽ không nhận thấy. - Đáng lẽ ông nghe tôi thì hơn - bà vợ bảo - đừng sờ mó đến đấy. Mong chúa không để xảy ra điều gì xấu! Ngườí lái buôn cũng hơi suy nghĩ về lời nói này và thái độ của vợ. Ông ta nằm gần suốt đêm nghĩ cách chiếm đoạt số vàng của Ali Cogia, làm thế nào để mình không bị rắc rối gì nếu ông ấy trở về đòi lại chiếc hũ. Sáng sớm hôm sau ông ta đi mua những quả ô-liu mới trong năm, về vứt hết những quả cũ trong hũ, lấy vàng giấu đi, bỏ đầy hũ những quả ô-liu mới mua, gắn kín nút như cũ và đặt vào chỗ Ali Cogia đã đặt hũ. Khoảng một tháng sau khi người lái buôn thực hiện việc làm hèn hạ ấy mà ông ta sẽ phải trả giá, Ali Cogia trở về Bagdad sau chuyến đi dài ngày. Do nhà đã cho thuê trước khi đi ông vào ở một phòng trong nhà trọ, tin cho người thuê nhà tìm chỗ ở mới. Ngày hôm sau ông đến nhà người lái buôn bạn; ông này vui mừng ôm hôn ông trở về sau chuyến vắng mặt quá lâu và nói đã hết hy vọng gặp lại ông. Sau những lời chúc mừng qua lại thường có trong một buổi gặp mặt như thế, Ali Cogia đề nghị cho xin lại chiếc hũ ông gửi và xin lỗi đã làm phiền ông bạn nhiều. - Ali Cogia, bạn thân mến của tôi - người lái buôn nói - ông sai lầm vì đã xin lỗi tôi, tôi không hề phiền gì về chiếc hũ của ông. Trong trường hợp ấy tôi cũng nhờ ông theo cách ông nhờ tôi thôi. Chìa khoá kho của tôi đây, ông vào lấy đi, vẫn nguyên ở chỗ ông đã để. Ali Cogia vào kho, lấy chiếc hũ, trả chìa khoá và rất cám ơn đã được nhận lại được chiếc hũ. Trở về nhà trọ mở nắp hũ cho tay vào phần giấu vàng, ông rất ngạc nhiên không thấy vàng nữa. Sợ mình nhầm ông lấy đĩa, xoong chảo trút cả hũ ô-liu ra nhưng không có một đồng vàng nào. Ông đứng lặng người, kinh hoàng giơ hai tay lên trời kêu: - Có thể thế được chăng, một người tôi xem là bạn tốt đã lừa lọc tôi hèn hạ đến như vậy? Hốt hoảng sợ mất đi một số của cải lớn, trở lại nhà người lái buôn ông nói: - Ông bạn, ông đừng ngạc nhiên thấy tôi trở lại đây. Tôi thú nhận đã nhận ra chiếc hũ tôi đã gửi. Cùng với những quả ô-liu, tôi có để trong đó một nghìn đồng vàng mà bây giờ không thấy. Phải chăng có lúc ông cần và đã sử dụng vào việc mua bán. Nếu thế, ông cứ sử dụng, chỉ để mong cất bỏ nỗi phiền lòng cho tội, cho tôi biết và sau đó hoàn trả lại tôi khi thuận tiện. Người lái buôn đã dự tính Ali Cogia đến nói thế, cũng đã suy nghĩ câu trả lời. - Ali Cogia bạn tôi - Ông ta nói - khi ông mang hũ ô- liu đến, tôi có sờ đến không? Phải chăng tôi đã đưa chìa khỏa kho cho ông, ông tự mang vào và đã lấy lại ở chỗ ông đặt, tình trạng nguyên vẹn và nút chặt như cũ? Nếu ông để vàng trong đó ông phải tìm thấy chứ. Ông bảo tôi là hũ ô-liu tôi cũng tin như vậy. Tôi biết tất cả chỉ thế, ông tin tôi thì tin, tôi không sờ mó gì đến chiếc hũ. Ali Cogia dùng mọi lời lẽ nhẹ nhàng để người lái buôn trả lại số tiền. Ông nói: -Tôi chỉ thích ổn thoả với nhau, không muốn đi đến. những biện pháp tận cùng làm ông chẳng danh giá gì trước mọi người mà tôi cũng phải ân hận. Ông nên nghĩ những thương gia chúng ta cần bỏ mọi lợi ích để giữ lấy tiếng tăm. Một lần nũa mong ông không nên cố tình như thế buộc tôi phải đưa vấn đề ra trước pháp luật; tôi vẫn thích thiệt thòi một ít gì đó còn hơn phải xét xử. - Ali Cogia - Người lái buôn lại nói - ông thừa nhận gửi chỗ chúng tôi một hũ ô-liu, ông đã lấy lại rồi và bây giờ trở lại đòi tôi một nghìn đồng vàng? Ông có nói với tôi có vàng trong đó đâu? Thậm chí tội không biết có ô-liu không, ông có mở cho tôi xem đâu; rất ngạc nhiên thấy ông không đòi ngọc hay kim cương thay vì vàng. Thôi, ông về đi, đừng làm nhiều người tập hợp trước cửa hiệu tôi. Một số người đã dừng lại đó và những lời nói ấy của người lái buôn tỏ ra rất căng thẳng không chỉ làm một số đông dừng lại mà những người buôn quanh đấy cũng phải ra khỏi cửa hàng đến xem họ cãi nhau về việc gì và cố gắng dàn xếp. Khi Ali Cogia trình bày vấn đề, những người sáng suốt nhất hỏi ông bạn lái buôn trả lời ra sao. Người lái buôn nhận có giữ chiếc hũ của Ali Cogia gửI trong kho nhà mình nhưng chối là không sờ đến; ông ta thề chỉ biết có ô-liu vì nghe Ali Cogia nói và đề nghị họ làm chứng về việc bị Ali Cogia xúc phạm, chửu rủa ông ta ngay tại nhà. Ali Cogia bèn nắm lấy cánh tay người lái buôn và nói: - Chính ông chuốc lấy sự xúc phạm. Ông đã thâm độc như vậy, tôi sẽ nhờ đến luật lệ của Chúa. Để xem ông có dám nói như thế trước quan toà không. Trước lời thúc bách ấy mà mọi tín đồ Hồi giáo đều phải nghe theo để khỏi phản nghịch đối với tôn giáo, người lái buôn không dám chống cự. Ông ta nói: - Nào thì đi, tôi cũng đòi hỏi như thế. Rồi sẽ biết ai sai, ông hay tôi. Ali Cogia dẫn người lái buôn đến toà án, trình bày sự việc và kết tội người lái buôn lấy cắp một nghìn đồng vàng. Quan toà hỏi có người làm chứng không. Ông trả lời không đề phòng đến trường hợp ấy vì vẫn tưởng gửi ở nhà một người bạn mà cho đến lúc đó ông vẫn nghĩ là người trung thực. Người lái buôn không nói gì khác ngoài những lời đã nói với Ali Cogia và trước mặt những người hàng xóm. Kết thúc ông ta nói sẵn sàng khẳng định bằng lời thề, lời kết tội ông ta lấy một nghìn đồng vàng là sai, thậm chí ông cũng không hề biết có vàng. Quan toà bắt ông ta thề và sau đó cho về miễn bị truy tố. Ali Cogia, vô cùng đau đớn vì mất một số tiền lớn, kháng nghị chống lại việc xét xử ấy, tuyên bố với quan toà sẽ kêu lên giáo chủ Haroun Alraschid nhưng quan toà không lạ việc chống án cho là phản ứng tất nhiên của người thua kiện, ông ta nghĩ mình đã làm đúng nhiệm vụ không truy tố một bị cáo không có chứng cứ. Trong lúc người lái buôn thắng được Ali Cogia trở về nhà, vui sướng chiếm được một nghìn đồng vàng dễ dàng đến thế, Ali Cogia viết một lá đơn, ngay hôm sau nắm vững thời gian nhà vua đi nhà thờ cầu kinh đến trưa trở về cung, ông đứng bên đường lúc nhà vua đi qua hai tay nâng lá đơn và một võ quan hầu cận tách ra khỏi hàng đến nhận đơn kiện đưa trình lên giáo chủ. Ali Cogia biết nhà vua Haroun Alraschid có thói quen về cung sẽ đọc ngay những loại đơn khiếu nại như thế, nên ông đi theo đoàn hộ tống vào trong cung chờ viên võ quan đã nhận đơn đi ra. Viên võ quan đó bảo nhà vua đã đọc lá đơn, hẹn giờ xét xử vào ngày hôm sau rồi hỏi địa chỉ người lái buôn, và chũ người triệu tập ông ta cũng vào giờ đó. Buổi tối hôm ấy, nhà vua cùng quan tể tướng Giafar và trưởng thái giám Mesrour cùng cải trang đi khảo sát trong thành phố. Qua một con đường nghe thấy tiếng ồn, nhà vua bước nhanh tới một cánh cổng nhìn vào và thấy trong sân khoảng mười, mười hai đứa trẻ chơi đưới trăng sáng. Tò mò muốn biết những đứa trẻ chơi trò gì, ông ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh cổng, tiếp tục nhìn vào qua khi cửa. ông nghe một đứa trong bọn, có vẻ nhanh nhẹn, thông minh hơn cả, nói với những đứa kia: - Chúng ta chơi trò xử án; ta là quan toà; hãy dẫn vào đây Ali Cogia và người lái buôn ăn cắp một nghìn đồng vàng. Nghe lời nói của đứa trẻ, nhà vua nhớ đến lá đơn trình lên ông ngày hôm ấy và ông đã đọc; điều đó càng làm ông chú ý hơn để xem kết quả xét xử ra sao. Vì vụ Ali Cogia và người lái buôn mới xảy ra, gây tiếng vang lớn trong thành phố đến cả bọn trẻ con cũng biết nên những đứa trẻ khác cùng chơi vui vẻ chấp nhận và thống nhất với nhau phân vai. Tất cả đều cử đứa trẻ đề xướng làm quan toà. Cậu bé bắt đầu phiên toà với điệu bộ và thái độ nghiêm trang của một quan toà; một cậu khác trong vai viên thư lại ở toà án giới thiệu hai cậu, một là Ali Cogia và cậu nữa là người lái buôn mà Ali Cogia đưa đơn kiện. Cậu đóng giả quan toà lên tiếng, nghiêm khắc hỏi cậu bé trong vai Ali Cogia: - Thế nào, Ali Cogia, ông đòi hỏi điều gì ở người lái buôn kia? Cậu đóng Ali Cogia cúi chào rất thấp, kể lại chi tiết từ đầu đến hết câu chuyện và xin được quan toà phán xử để không mất một số tiền lớn như vậy. Lắng nghe trình bày xong, quan toà ngoảnh lại người lái buôn hỏi vì sao không trả lại Ali Cogia món tiền trên. Cậu bé đóng vai người lái buôn nói những lý lẽ như người lái buôn thật nói trước toà án Bagdad và cũng đề nghị khẳng định sự thật bằng lời thề. - Không đi nhanh đến thế - Quan toà đóng giả nói - trước khi để ông thề, ta muốn xem những quả ô-liu đã. Ali Cogia, ông có mang theo hũ không? Nghe nói không mang theo, quán toà bảọ: - Đi lấy đến đây cho ta xem. Cậu đóng giả Ali Cogia đi một lúc rồi mang chiếc hũ đến đặt trước mặt quan toà, cậu nói đó chính là chiếc hũ đã gửi và lấyvề lại. Không bỏ sót thủ tục nào, quan toà hởi người lái buôn có công nhận chiếc hũ ấy không; người lái buôn im lặng công nhận không dám chối nên quản toà ra lệnh mở nắp hũ. Ali Cogia mở ra, quan toà nhìn vào trong hũ nói: - Những quả ô-liu rất đẹp, ta muốn nếm thử. Vờ lấy một quả nếm,quan toà giả nói thêm: - Ngon lắm. Nhưng những quả o-liu giữ trong bảy năm ta thấy hình như không được ngon như vậy. Bảo những người buôn ô-liu tớI chổ họ xem thế nào. Hai cậu bé được đưa tới với tính cách lái buôn ô-liu. Quan toà hỏi: - Các ông có phải buôn bán ô-liu không? Thấy họ trả lời đúng là nghề nghiệp ấy của họ, quan toà hỏi thêm: - Các ông cho ta biết ô-liu được giữ gìn cẩn thận, qua bao nhiêu năm vẫn ăn ngon? - Thưa quan toà - Những cậu bé đóng giả lái buôn ô- liu trả lời - dù bỏ công sức bảo quản đến mấy, đến năm thứ ba quả ô-liu không còn đáng giá gì, không màu khộng mùi vị chỉ đáng vứt đi. - Nếu như thế, các ông nhìn vào hũ kia và cho ta biết những quả ô-liu ấy người ta bỏ vào đó bao lâu rồi? Những người lái buôn quan sát, nếm thử và xác nhận với quan toà những quả ô-liu vừa bỏ vào và còn ngon.Quan toà bảo: - Các ông nhầm rồi - Ali Cogia nói đã bỏ ô-liu vào hũ bảy năm rồi kia mà. - Thưa quan toà - Những người lái buôn được xem như chuyên gia lại nói - điều chúng tôi có thể khẳng định những quả ô-liu này vừa hái trong năm nay. Chúng tôi chắc chắn tất cả những người buôn ô-liu ở thành phố Bagdad không một người nào nói khác chúng tôi. Người lái buôn bị Ali Cogia tố cáo định mở miệng bác lời xác nhận của eác chuyên gia nhưng qrên tảng đá bên ngoài không trèo lên được nên đành chịu không rõ. Có thể ông ta vào từ cửa nhưng chúng cũng không tin chắc vì đinh ninh chỉ chúng mới biết mật hiệu mở cửa; đó là điều chúng nhầm, không biết Ali Baba đã rình nghe biết được. Sự việc đã xảy ra rồi, chẳng còn cách nào khác để của cải được an toàn, chúng bàn với nhau chặt xác Cassịm ra làm bốn đoạn bỏ phía trong cửa hang, mỗi bên cửa hai đoạn để làm kẻ nào đó vào hang sẽ phải khiếp sợ. Còn bọn chúng chỉ phải một thời gian lâu mới về hang, chờ mùi hôi thối bay đi hết đã. Quyết định như thế, chúng thực hiện ngay rồi đóng cửa hang, lên ngựa tới những con đường mà các đoàn người ngựa thường qua lại để cướp bóc như thường lệ. Vợ Cassim thấy đêm xuống lâu rồi mà chồng chưa về nên rất lo. Bà đến nhà Ali Baba hốt hoảng nói: - Chú em này, tôi nghĩ chú cũng biết anh chú vào rừng để làm gì rồi. Đêm đã khuya mà ông ấy chưa về, tôi sợ có tai hoạ xảy ra với ông ấy chăng. Ali Baba vẫn ngờ ông anh vào rừng sau khi nghe kể chuyện và vì thế hôm ấy bác không đi kiếm củi để khỏi làm phiền anh. Không trách móc gì, bác khuyên bà chị dâu không nên hoảng hốt có lẽ Cassim muốn trở về thành phố trong đêm khuya thì tốt hơn chăng. Vợ Cassim cũng nghĩ thế nhất là bà thấy cần glữ kín việc làm của chồng chắc chờ đến nửa đêm ông ta mới trở về nhà. Nhưng sau đó bà càng lo sợ nhiều hơn và cảm thấy đau đớn ghê gớm mà không thể kêu than vì biết không nói ra được nguyên nhân. Bà ân hận đã tò mò muốn đi sâu vào công việc của vợ chồng người em, đó là một sai lầm không sửa chữa được, Khóc thầm cả đêm, hôm sau vừa rạng sáng bà chạy đến nhà họ khóc lóc chứ không nói được. Ali Baba không chờ chị dâu đề nghị đi xem Cassim ra sao: Bác vào rừng ngay với ba con lừa sau khi an ủi bà chị hãy bớt đau buồn. Đến gần tảng đá, nhìn khắp nơi không thấy ông anh và mười con la, rất lạ thấy máu gần cánh cửa, anh nghĩ có chuyện không hay rồi. Đứng trước cửa, anh đọc câu thần chú, cửa mở và bác thấy cảnh tượng buồn thảm của thân thể ông anh bị chặt làm bốn khúc. Không ngần ngại làm nhiệm vụ cuối cùng đối với ông anh lạnh nhạt, bác tìm vải trong hang gói bốn khúc xác cho lên một con lừa chở với gỗ để che khuất. Hai con lừa còn lại, bác chất đầy những túi vàng bạc, bỏ gỗ củi lên như lần trước, đọc thần chú ra lệnh đóng cửa rồi đi về thành phố nhưng cẩn thận dừng lại ở bìa rừng chờ tối đến mới ra về. Đến nhà bác cho hai con lừa chở vàng bạc vào sân, để cho vợ dỡ xuống và sau khi cho bác gái biết việc gì đã xảy ra với Cassim, bác dẫn con lừa kia sang nhà chị dâu. Ali Baba gõ cửa, Morgiane ra mở. Morgiane là một nô lệ nữ khéo léo, hiểu biết rộng và có nhiều sáng kiến giải quyết thành công những điều khó khăn nhất. Ali Baba biết cô như vậy. Vào đến sân bác tháo củi và hai gói xuống, nói riêng với Morgiane: - Morgiane, trước hết tôi đề nghị cô tuyệt đối giữ bí mật, điều đó tối cần thiết đối với bà chủ và với tôi. Thân thể ông chủ ở trong hai gói này. Phải chôn cất như ông chết bình thường. Chú ý cẩn thận như tôi đã nói và đưa tôi vào nói chuyện với bà chủ. Morgiane vào báo trước với bà chủ sau đó Ali Baba đi theo cô bước vào. - Thế nào chú, - bà chị dâu nóng lòng chờ đợi hỏi. - Tin tức về chồng tôi thế nào? Trên mặt chú tôi không thấy có biểu hiện gì an ủi được tôi. - Thưa chị, tôi không thể nói gì trước khi chị hứa nghe tôi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không mở miệng. Đối với chị cũng như với tôi điều quan trọng nhất về việc xảy ra là phải rất bí mật vì lợi ích và sự yên bình của chị. - A! - Bà chị dâu khẽ kêu lên - Lời dạo đầu ấy cho tôi biết rõ chồng tôi không còn nữa. Đồng thời tôi thấy cần thiết phải giữ kín như chú dặn dò. Tôi phải rất cố gắng vậy, chú nói đi, tôi nghe đây. Ali Baba kể lại chuyến đi cho đến lúc về với thân thể Cassim. Bác nói thêm: - Chị ạ, đây là một nỗi buồn lớn mà chị ít ngờ tới nhất. Tuy nỗi đau không phương cứu chữa nhưng nếu có thể an ủi chị, tôi sẽ đem của cải trời cho tôi vào tài sản của chị và cưới chị, bảo đảm vợ tôi sẽ không ghen và hai ngườI sống hoà hợp với nhau. Nếu chị bằng lòng như vậy, phải nghĩ cách làm thế nào để như anh tôi chết bình thường; chị có thể dựa vào Morgiane, tôi sẽ cố góp hết sức mình. Chẳng còn cách gì hơn, vợ goá Cassim đành vâng theo lời đề nghị của Ali Baba? Với tài sản chồng trước để lại, lại tìm được một người glàu hơn mình và với sự phát hiện kho của có thể càng giàu hơn? Bà không từ chối cách giải quyết ấy mà ngược lại, xem như một níềm an ủi hợp lý. Chùi nước mắt đã khóc quá nhiều, nén lại những tiếng kêu van bình thường của những người vợ mất chồng, bà chứng tỏ với Ali Baba mình đã ưng thuận. Al1 Baba chào bà vợ goá Cassim, sau khi dặn dò Morgiane lo công việc gia đình cẩn thận rồi về nhà mình với con lừa. Morgiane không lơ là; cô ra ngay cửa hàng dược bên hàng xóm, hỏi mua một loại thuốc rất tác dụng với những căn bệnh nguy hiểm. Dược sĩ đưa thuốc, nhận tiền rồi hỏI ai trong gia đình chủ cô bị ốm. Cô thở dài trả lời: - Chà! Chính ông chủ Cassim của tôi. Không ai ngờ ông bị căn bệnh nặng đến thế, chẳng nói chẳng ăn gì cả. Nói rồi cô mang thuốc về mà thực tế Cassim không thể sử dụng được nữa. Ngày hôm sau chính Morgiane lại trở lại cửa hàng dược đầy nước mắt mua một loại thuốc nước người ta chỉ cho người bệnh uống lúc hấp hối không hy vọng gì sống nữa nếu thuốc ấy không cứu được. - Than ôi - cô buồn bã nói vừa nhận thuốc từ tay dược sĩ - tôi sợ loại thuốc này cũng chẳng có tác dụng gì như thuốc viên lần trước. Chà! Sợ tôi mất đi một ông chủ tốt! Mặt khác người ta thấy vợ chồng Ali Baba suốt ngày buồn rầu đi đi lại lại nhà Cassim và tối đến không ai ngạc nhiên nghe tiếng kêu khóc của vợ Cassim và nhất là của Morgiane loan báo Cassim đã chết. Sáng sớm hôm sau chưa rõ mặt người, Morgiane vốn biết trong vùng có một ông thợ giày tốt bụng đã rất già ngày nào cũng mở cửa hiệu trước những người khác rất lâu, cô ra đi tìm ông cụ ấy. Vừa chào và hỏi chuyện, cô bỏ vào tay ông cụ một đồng vàng. Baba Mustafa, người ta gọi ông thế, bản chất vui vẻ và bao giờ cũng có tiếng nói gây cười, nhìn đồng tiền vì trời chưa sáng hẳn, thấy là vàng bèn nói: - Món quà tốt đấy, có việc gì vậy? Tôi sẵn sàng làm đây. - Baba Mustafa - Morgiane bảo - Ông mang theo những gì cần thiết để khâu may và đi ngay với tôi với điều kiện đến chỗ ấy tôi phải bịt mắt ông lại. Nghe nói vậy Baba Mustafa làm khó dễ: - Ô! Ồ! Như thế là cô muốn tôi làm việc gì đó trái lương tâm hay trái danh dự chăng? Bỏ vào tay ông một đồng tiền vàng khác, Morgiane lại nói: - Có trời chứng giám, tôi chỉ đề nghị ông lâm một việc hoàn toàn trong danh dự. Ông đi cùng tôi, đừng sợ gì cả. Baba Mustafa đi theo cô và Morgiane sau khi bịt mắt ông bằng chiếc khăn tay, dẫn ông vào chỗ ông chủ đã mất, chỉ cất chiếc khăn bịt mắt trong phòng cô đã đặt xác, mỗi khúc thân đúng vào chỗ của nó. Cô bảo: - Baba Musta tôi dẫn ông đến để nhờ khâu những tấm này. Ông làm nhanh chóng khâu xong tôi sẽ trả một đồng vàng nữa. Khi Baba Musatafa khầu xong Morgiane lại bịt mắt ông ngay trong phòng đó, đưa đồng tiền vàng thứ ba như đã hứa, dặn giữ bí mật và dẫn ông ra chỗ cô đã bịt mắt ông khi đến. Tại đây cô bỏ khăn bịt mắt để ông trở về nhà, nhìn theo cho đến khi không thấy bóng nữa sợ ông tò mò trở lại quan sát. Morgiane đã đun nước nóng rửa thân thể Cassim, rảy nước hoa và bọc xác chết lại như thường lệ. Thợ mộc cũng mang đến quan tài Ali Baba đã đặt làm. Để người thợ mộc không thấy gì, Morgiane nhận quan tài, trả tiền ngoài cổng để ông đi và đưa vào nhà giúp Áli Baba bỏ người chết vào quan tài. Khi Ali Baba đã đóng kỹ đinh vào ván, cô đến báo tin với nhà thờ sẵn sàng để an táng. Những người của nhà thờ chuyên lau rửa những người chết nhận đến làm việc nhưng cô bảo đã hoàn tất rồi. Morgiane vừa trở về nhà thì thầy cả và các chức sắc nhà thờ đến. Bốn người hàng xóm nâng chiếc quan tài lên vai, đi theo thầy cả đọc kinh, mang người chết ra nghĩa địa. Là nô lệ của người chết, Morgiane khóc lóc, đầu trần đi sau quan tài, than vãn, đấm vào ngực, giật tóc mình. Ali Baba đi sau đó cùng những người hàng xóm; họ lần lượt tách ra để thay thế những người mang quan tài cho đến nghĩa địa. Vợ Cassim ở nhà kêu van, than khóc với những người phụ nữ quanh xóm theo phong tục chạy đến với tang lễ, cùng than khóc với chủ nhà làm không khí buồn bã lan mãi cả vùng rất xa khu phố. Bằng cách ấy, cái chết thê thảm của Cassim được che giấu bởi Ali Baba, vợ bác, bà vợ Cassim quá cố và Morgiane. Họ che giấu khéo léo đến nỗi chẳng có ai trong thành phố biết và nghi ngờ gì. Ba bốn ngày sau khi an táng Cassim, Ali Baba mang số đồ đạc ít ỏi của nhà mình và của cải lấy được của bọn cướp, ban đêm đưa sang nhà vợ goá của Cassim bác ở lạI đấy kết hôn mới với chị dâu. Theo tập quán tôn giáo của họ, những loại đám cưới như thế không ai lấy làm lạ. Ỏ cửa hiệu của Cassim, Ali Baba có một đứa con trai đã tâp sự xong ở nhà một thương gia lớn khác, và được khen là tốt. Bác giao cửa hiệu cho con, hứa hẹn nếu quản lý tốt chẳng bao lâu sẽ cưới vợ theo gia thế của mình. Nói về bọn cướp, chúng trở về hang vào một thời gian đã định, rất ngạc nhiên không thấy xác Cassim, càng lạ lùng thấy số túi vàng giảm đi. Tên tướng cướp nói: - Chúng ta đã bị phát hiện và mất cắp. Nếu không tìm cách đề phòng gấp và ngăn chặn, chắc chắn chúng ta sẽ mất hết bao nhiêu của cải cha ông và chúng ta góp nhặt vất vả. Sự thiệt hại vừa qua là do đứa lấy trộm biết được câu thần chú mở cửa hang, may mắn là chúng ta đến lúc nó sắp ra. Nhưng không phải một mình nó; phải có một đứa khác biết như nó. Xác nó bị lấy đi, của cải glảm bớt là những chứng cớ không chối cãi được. Có vẻ như không ai biết điều bí mật ngoài hai đứa ấy, đã chết một đứa rồi, chúng ta phải giết nốt đứa kia. Các anh em nghĩ sao? Có đồng ý với nhận định của ta không? Ý kiến của tên tướng cướp rất hợp lý nên cả bọn thống nhất bỏ công việc khác để tìm giết đứa lấy trộm kỳ được. Tên tướng cướp lại nói: - Ta tin tưởng vào lòng dũng cảm của các anh em nhưng trước hết phải có một người táo bạo khôn khéo, xử trí nhanh, không mang vũ khí, ăn mặc như lữ hành lạ mặt vào thành phố tìm hiểu xem người ta nói ra sao về cái chết của đứa lấy trộm ta đã giết một cách xứng đáng với tội trạng và phát hiện nó ở nhà nào. Đó là điều rất quan trọng chúng ta phải biết đầu tiên để khỏi phải hối hận vì lộ mặt trong đất nước lâu nay không ai biết chúng ta và cần thiết phải như thế mãi. Trước khi khuyến khích người xung phong nhận nhiệm vụ, để khỏi báo tin sai gây tai hại cho chúng ta, các anh em có đồng tình chúng ta sẽ xử tội chết người báo tin sai đó? Không chờ cả bọn biểu quyết, một trong những tên cướp nói: - Tôi chấp nhận điều ấy và vinh dự lấy mạng sống của mình để nhận nhiệm vụ. Nếu không có kết quả, các bạn nhớ rằng tôi không thiếu can đảm và tình nguyện vì quyền lợi chung của toán. Tên cướp sau khi được tên tướng cướp và đồng bọn hoan nghênh cải trang để không ai nhận ra mình. Chia tay với toán cướp hắn ra đi trong đêm, trù tính khéo léo đến thành phố trời vừa sáng. Hắn. tới quảng trường chỉ thấy một cửa hiệu mở cửa, đó là cửa hiệu của Baba Mustafa. Baba Mustafa ngồi trên ghế tay cầm dùi thép chuẩn bị làm việc. Tên cướp thấy ông đã có tuổi chào hỏi: - Chào ông, sao ông bắt đầu làm việc sớm thế? Ở tuổi ông có lẽ mắt trông chưa rõ, chờ sáng sủa hơn tôi chắc ông thấy tốt hơn, khâu may dễ hơn. - Dlick="noidung1('tuaid=7043&chuongid=2')">Chương 2